11/2/11

CSVN ĐÃ NÔ LỆ TRUNG CỘNG TỪ HƠN 80 NĂM TRƯỚC

Trong năm 2010, nhiều bài vở trên báo chí, truyền thanh, truyền hình đã vạch rõ bộ mặt bán nước của Nhà cầm quyền CS, đứng đầu là HCM. Cuốn DVD “Sự thật về HCM” do Lm Nguyễn Hữu Lễ và bạn hữu thực hiện đã đưa những sự kiện lịch sử để dẫn chứng về sự bán nước này, và đã được dư luận khắp nơi ủng hộ. Một số phần tử lưng chừng ở VN, sau khi xem xong cuốn phim này đã thay đổi hẳn thái độ và đứng về phía các nhà Dân chủ mà đấu tranh chống lại nhóm cầm quyền độc tài bán nước CSVN. Ông Nguyễn Văn Văn, một nhà Dân chủ ở Hà Nội, qua cuộc phỏng vấn của đài Little Saigon Radio, thứ năm ngày 22 tháng 7 năm 2010, cho biết: “Từ hơn 30 năm nay, tôi vẫn tin tưởng ở ĐCS, cho mãi đến khi xem cuốn DVD Sự Thật về HCM, tôi mới tỉnh ngộ và bắt đầu chiến đấu chống lại cái đảng bán nước này.”
Tuy nhiên, tất cả những lời tố cáo trên đều do những người ở về phía đối lập với Bắc Bộ Phủ, cho nên cũng chưa được thành công tối đa, vì nhiều người đọc, người xem, và người nghe cho rằng đó là những điều tuyên truyền của những người chống Cộng cực đoan và những thành phần thuộc chế độ cũ. Giờ đây, đọc cuốn hồi ký “Ghi chép về việc đoàn cố vấn quân sự TQ viện trợ VN chống Pháp” do NXB Lịch sử ĐCSTQ, Bắc Kinh ấn hành năm 2002 và được dịch bởi Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy, toàn bộ diễn tiến nô lệ Trung Cộng đã được phơi bày một cách rõ ràng. Qua cuốn hồi ký viết bởi những nhân vật cao cấp của Trung ương ĐCSTQ này, người đọc mới hiểu tại sao HCM và thuộc cấp đã không thể nào không cúi đầu trước sự chỉ đạo của Trung Cộng, và không thể nào không dâng đất cho Trung Cộng để trả ơn cứu trợ từ những năm xưa. Điểm đáng nói là cuốn sách được xuất bản đúng thời điểm mà Trung Cộng từng bước thôn tính VN, từ biển Đông, tới Tây Nguyên, và miền cực Bắc VN. Có lẽ đây là một lời cảnh cáo các kẻ cầm quyền VN: “Đừng quên là CSVN đã từng nợ đàn anh TQ từ khi còn Pháp thuộc. Nếu không có đàn anh TQ viện trợ, thì ĐCSVN đã không tồn tại mà tham tham nhũng nhũng, sống huy hoàng phè phỡn như hôm nay.” Và cũng có lẽ đây là một lời trần tình về âm mưu thôn tính VN của CSTQ, nhằm giải thích cho dư luận biết tại sao mà Trung Cộng muốn coi VN như cái sân sau của Trung  Cộng.
Qua cuốn hồi ký này, người đọc mới thấy rõ mối giây liên lạc chặt chẽ giữa hai ĐCS : VN và TQ, đúng như lời mà các đảng viên CSVN vẫn luôn đọc như đọc thần chú: “ VN – TQ, núi liền núi, sông liền sông” và “TQ và VN như môi với răng, môi hở thì răng lạnh”, thêm 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
Cũng qua những tác giả của cuốn tư liệu này, như La Quý Ba, Trương Quảng Hoa, Độc Kim Ba, Vu Hóa Thầm, Trần Canh, Như Phụng Nhất, những nhân vật lừng lẫy trong Trung ương ĐCSTQ, người ta biết nhiều mốc quan trọng :
- Năm 1924, HCM từ Moscow đến Quảng Châu, học tập lý luận Mác Lê.
- Năm 1930, HCM thành lập đảng CS Đông Dương tại Hồng Kông.
- Năm 1938, HCM đến Diên An, tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Sau đó, mối quan hệ song phương càng ngày được phát triển. Tháng 10 năm 1940 HCM đến Quế Lâm, và 1941 sát nhập VN Độc Lập Đồng Minh Hội của Cụ Hồ Học Lãm (đã có từ 1935) với VN Cách Mệnh Đồng Chí Hội của Trương Bội Công – Nguyễn Hải Thần thành Mặt trận VN Độc Lập Đồng Minh. Trên danh nghĩa thì Mặt trận VN Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, được hoàn toàn “độc lập” theo như tinh thần của bản tuyên ngôn, nhưng thực tế vẫn Độc Lập dưới sự chỉ đạo của Trung Cộng!
Tháng 1 năm 1950, HCM đóng giả vai người già bị  thương, đầu quấn khăn mặt, tay chống gậy, sang cầu viện Tàu Cộng. Trần Đăng Ninh, một cán bộ lão thành trong đảng CS hộ tống và đôi khi cõng HCM sang qua cửa Thủy Khẩu thuộc Long Châu, Quảng Tây. Sau đó, HCM mới được đưa sang diện kiến Trung ương ĐCSTQ. Lưu Thiếu Kỳ tiếp HCM tại Trung Nam Hải. Phía Trung Cộng có Chu Đức, Đồng Tất Vũ, Lưu Bá Thừa, Nhiếp Vinh Trần, Lý Duy Hán. Phía Việt Minh có Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Hoan. Sau mấy buổi họp đầu tiên không mấy thành công, HCM muốn đi Liên Xô cầu viện. Vì cũng chưa sẵn sàng yểm trợ cho HCM, nên Lưu Thiếu Kỳ báo cáo với Mao Trạch Đông về việc này, và dàn xếp cho HCM đi theo Mao Trạch Đông đến Liên Xô. Chuyến đi thất bại. Stalin không chịu viện trợ cho HCM chống Pháp, mặc dù Mao Trạch Đông giới thiệu và năn nỉ, vì trong suốt chuyến đi, HCM đã biểu diễn thành công màn kịch là một tay đàn em khả tín, biết quỵ lụy và vâng phục. Vì thế, khi về đến Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ quyết định giúp HCM bằng một phái đoàn Cố Vấn tối cao do Vi Quốc Thanh, nguyên Phó Tư Lệnh Lực Lượng Công An Trung Cộng làm trưởng đoàn qua VN. Nhóm Cố Vấn này được HCM ra lệnh cho toàn thể đảng viên gọi là “Các đồng chí Cố Vấn Vĩ Đại TQ.”
Đồng thời với việc gửi đoàn Cố Vấn Vĩ Đại sang VN mở đầu chiến dịch giúp HCM, Trung Cộng viện trợ 150,000 khẩu súng, hơn 3,000 khẩu pháo, và đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, đồ dùng hàng ngày như bát ăn cơm tráng men, khăn bông. (Trích bài viết của Trương  Quảng Hoa, một Cố Vấn Vĩ Đại của HCM).
Ngày 2-9-1945, Nước VN Dân chủ Cộng Hòa được thành lập nhưng không được nước nào công nhận, trừ Trung Cộng. Staline mới đầu từ chối không công nhận cho đến khi Trung Cộng công nhận rồi, mới chịu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Minh.
Thực hiện tích cực việc yểm trợ cho CSVN, Trung Cộng đã chỉ đạo, giúp đỡ vũ khí, lương thực, Cố vấn, chiến lược cho Việt Minh đánh Pháp. Mở đầu là Chiến dịch Biên giới đánh Đông Khê (Thất Khê, Cao Bằng) năm 1950. Các trận đánh này đều do các Cố Vấn Trần Canh, Nhiệm Cùng, Vân Dật, Thiên Hựu, Quí Ba, Kiếm Anh, Phương Phương, Quốc Thanh định đoạt. (Trích thư của HCM gửi đảng CS TQ ngày 14-10-1950).  
Từ đó, các thắng lợi khác với quân Pháp cũng đều do Cố vấn TQ chỉ đạo. Những cố vấn này lại nhận chỉ thị trực tiếp của Lưu Thiếu Kỳ vì Mao Trạch Đông giao cho Lưu Thiếu Kỳ trách nhiệm điều khiển Việt Minh.
Chiến dịch viện trợ vĩ đại nhất mà Trung Cộng giúp Việt Cộng là trận Điện Biên Phủ. Thắng lợi có tính quyết định là do Cố vấn Vi Quốc Thanh chỉ huy. Trước trận chiến quyết định này, có một số trận đánh khác nhằm để tiêu hao lực lượng quân Pháp. Từ ngày 20 tháng 01 năm 1954, các chiến lược tấn công từ Tây Bắc xuống đến phía Nam như Kontum, Pleiku, Tây Nguyên, Phú Yên… đều do Vi Quốc Thanh hoạch định. Võ Nguyên Giáp chỉ biết thi hành theo chiến thuật. Sau khi thắng lợi được vài trận, Vi Quốc Thanh quyết định nhận lời đánh Điện Biên Phủ theo lời năn nỉ của Võ Nguyên Giáp. Mới đầu, vì quân Pháp không nắm vững được tin tức về sự chỉ huy của Vi Quốc Thanh, nên còn gửi thư thách thức Việt Minh. De Castries, tư lệnh quân Pháp ở Điện Biên Phủ, viết thư cho Võ Nguyên Giáp :
“Tôi biết bộ đội của ông đã bao vây Điện Biên Phủ, nhưng vì sao không tấn công? Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi. Nếu ông có gan dám mở tấn công, thì xin bắt đầu đi. Tôi đang chờ đón những thách thức của ông, quyết một phen thắng bại với ông”.
Thư được trình lên Vi Quốc Thanh, hắn cười nói :
“Lão De Catries này ngông cuồng lắm! Hãy đợi đấy! Đến lúc chiến dịch mở màn, là lúc hắn khóc.”
Người phiên dịch báo cáo :
“De Castries là một danh tướng của Lục quân Pháp là cấp dưới cũ của Navarre , đã qua trường Quân sự, là học viên ưu tú. Hắn vốn quân hàm Đại Tá, gần đây vừa được phong Thiếu Tướng.”
Vi Quốc Thanh nói :
“Thế thì hãy để xem chúng ta học được cái gì ở học viên ưu tú này, xem họ có tài chỉ huy đến đâu!”
Và thế là mọi kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ đều do Vi Quốc Thanh chỉ đạo. Từ HCM đến Võ Nguyên Giáp đều im re, nghe lệnh của Vi Quốc Thanh.
Sau khi thắng trận, Hồ chí Minh mở tiệc chiêu đãi Vi Quốc Thanh, và ôm hôn tay Đại Cố Vấn này. HCM còn làm một bài thơ chữ Hán tặng Vi Quốc Thanh :
Bách Lý tầm xuân vi ngộ quân
Mã đề đạp toái lĩnh đầu văn
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ
Nhất phiến hoàng hoa nhất điểm xuân
(Trăm dặm tìm bạn không gặp, vó ngựa dẫm nát mây đỉnh núi, Quay về tình cờ gặp cây mai rừng, mỗi đóa hoa vàng một điểm xuân). (Tài liệu của đại cố vấn Vương Chấn Hoa tức Vu Hóa Thầm).
Từ đó, cho đến 30-4-1975, nhất cử nhất động đều do Đại Cố Vấn TQ chỉ huy và yểm trợ. Ngoài việc viện trợ súng đạn và lương thực, Trung Cộng còn cung cấp nhân sự. Các binh lính Trung Cộng đều trá hình làm lính hậu cần.
Trong thời gian giúp cho Việt Cộng thành công việc cưỡng chiếm miền Nam, Trung Cộng đã để lộ dã tâm muốn đòi nợ chiến tranh bằng lãnh thổ. Khi Nixon dội bom Bắc Việt, Trung Cộng cho thiết lập giàn rada phòng không từ bên trong đất Bắc VN. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Trung Cộng không rút về, mà biến thành đất của TQ luôn. Dàn phòng không này, hiện nay, được biến cải thành pháo đài vừa phòng không vừa có thể phóng hỏa tiễn tấn công, lại được dùng để khống chế Việt Cộng. Bộ Chính Trị CSVN tuy biết là Trung Cộng xâm lăng một cách âm thầm, nhưng vì nợ ơn nhiều quá, nên phải im lặng, vả lại cũng biết rằng, nếu chỉ một câu nói gây bất bình cho các đại cố vấn, thì tình hình nguy ngập liền.
Trận chiến năm 1979 xảy ra không phải vì Việt Cộng muốn đấu lại “cha đỡ đầu” (God Father) Trung Cộng mà vì Trung Cộng bực tên đàn em đã xua quân qua chiếm Campuchia mà không xin phép đàn anh, nên mới “dạy cho VN một bài học”. Sau trận này, Việt Cộng khiếp hãi, không bao giờ dám làm mất lòng đàn anh nữa.
Hiện nay, dọc biên giới phía Bắc VN, Trung Cộng chiếm hết các đỉnh cao để đặt rada, thêm vài ngàn cây số vuông cưỡng chiếm bằng cách dời cột mốc, cộng với tất cả các rừng đầu nguồn, dưới danh nghĩa là “cho thuê miễn phí 50 năm” tại 18 tỉnh đã lên đến 300 ngàn hecta rồi. Tại cửa “khẩu”, hàng hóa Tàu và hàng giả mạo quốc tế tự do tràn vào VN không thể kiểm soát nổi, không đóng thuế. Công An Việt Cộng đứng hút thuốc lá Tàu, nhìn dân “cửu vạn” Việt khiêng hàng Tàu vào ào ạt và đành chấp nhận cho những hàng dỏm, hàng Tàu này giết chết hết hàng nội địa VN.
Đau đớn và ô nhục nhất là ngày 14-9-1958, Việt Cộng đã dâng cho Trung Cộng 2 quần đảo Hoàng Sa (hơn 10 đảo) và Trường Sa (hơn 100 đảo, hiện nay VC lật lọng đang gắng chiếm giữ hơn 10 đảo) trong khi lính chế độ Sài Gòn đang canh giữ, bằng một công hàm bán nước do Thủ tướng Phạm Văn Đồng VC ký, theo lệnh của HCM !!!
Tại Tây Nguyên, Trung Cộng vừa khai thác Boxit, vừa thiết lập hệ thống phòng không thứ hai, và đặt máy trinh thám, theo dõi các hoạt động của Bộ Chính Trị và quân đội. Đặt bảng chỉ dẫn bằng tiếng Tàu, cấm người Việt vào. Chung quanh các khu vực Trung Cộng khai thác này, người dân Việt phải tuân theo luật lệ của lính Tàu, nếu không muốn bị bắt, đánh đòn, và nộp tiền chuộc mạng. Lính Tàu đội lốt công nhân, bắt cóc gái Việt, cưỡng bức lấy chúng, hoặc cưỡng hiếp. Những đứa trẻ sinh ra bởi các cuộc hôn nhân cưỡng hiếp này được khai sinh dưới tên Tàu. Dần dần chúng biến dân Việt thành dân Tàu qua thẻ CMND, được hưởng quyền lợi đặc biệt hơn dân Việt. Nếu dân làng phản đối, lính Tàu có thể tung hàng trăm người tràn vào làng, dùng gậy phá nhà, đánh đập dân chúng trong khi Ủy Ban Nhân Dân và công an Việt Cộng bỏ chạy. Nhiều nhà nghiên cứu cho biết, thực ra, Trung Cộng cũng cần có bôxít để làm nhôm, nhưng mục tiêu chiếm lĩnh VN quan trọng hơn nhiều. Do đó, cho đến nay, tháng 7 năm 2010, vẫn chưa thấy ký lô nhôm nào xuất xưởng.
Trung Cộng cũng “trúng thầu” khai thác con đường xuyên Bắc Nam, đi dọc theo những tỉnh thành quan trọng. Bên cạnh con đường đó là tất cả các dịch vụ phục vụ cho văn hóa Tàu. Ngoài biển Đông, Trung Cộng khống chế vùng biển, dành quyền khai thác thủy sản, bắt ngư dân Việt phải theo luật lệ của chúng, nếu không, sẽ bị bắt, bị đánh, bị giết, bị tịch thu tàu và các phương tiện đánh cá, ngoài ra, phải nộp tiền chuộc mạng.
Nhìn chung, VN ngày nay là cái sân sau của Trung Cộng. Những tên Thái Thú Trung Cộng này văn minh hơn xưa, không bắt dâng nộp gái tơ, ngà voi, tê giác, ngọc trai như xưa, nhưng tha hồ mua gái Việt với giá rẻ như bèo, hưởng thụ tài nguyên và nhân lực VN không tốn một viên đạn. ĐCSVN hiện nay, luôn rêu rao là đang thực hiện đúng đắn những phương châm lãnh đạo đất nước là “Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân Dân làm Chủ”.  Họ chỉ dấu đi hai chữ “Trung Cộng” sau những nhóm chữ đó. Nhóm chữ này, nếu viết đầy đủ, sẽ là : “Đảng CSTQ lãnh đạo, Nhà Nước VN quản lý, Nhân Dân TQ làm chủ kinh tế, lãnh thổ và nhân sự VN”. @@@
Chu Tất Tiến – 7-2010
@   ?
CAO TRÀO DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN ĐA ĐẢNG VIỆT NAM
& CAO TRÀO TOÀN DÂN VIỆT NAM CHỐNG GIẶC TÀU
Kính mời toàn thể Đồng bào Việt Nam,
nhất là giới trẻ, sinh viên, học sinh :
Mỗi người một dụng cụ viết :
ống sơn, viên phấn, cây bút, que than,
múi trái cau tươi*, cành cây có mủ*,…
(*lúc viết chữ mờ, lát sau lộ rõ)
để viết lên mặt đường, cột đèn, thành cầu,
ga tàu xe, khu vực chợ, vách trụ sở, cổng cơ quan,
bất cứ chỗ nào có thể viết được 3 từ :
Dân Là Chủ
để đòi Dân Chủ thật sự văn minh bằng mô hình
Dân Chủ Đa Nguyên Đa Đảng cho Tổ quốc Việt Nam.
Ÿ Và viết 3 từ hoặc 3 cụm từ :
Chống Giặc Tàu
HS.TS.VN hoặc Hoàng Sa-Trường Sa-Việt Nam
để báo động quốc nạn
Giặc Tàu Cộng cưỡng chiếm Việt Nam,
bằng nhiều thủ đoạn tinh vi ngày càng lộ liễu,
làm Dân tộc Việt Nam :
mất văn hóa, mất đất, mất rừng,
mất biển, mất đảo, mất việc, mất Nước.
Kính mời Đồng bào hưởng ứng và tiếp tay.
Chúc đồng tâm-hiệp lực và thành công.
Xin cảm ơn.
Cao trào Dân Chủ Đa Nguyên Đa Đảng Việt Nam.
Và Cao trào Toàn Dân Việt Nam Chống Giặc Tàu.

Bốn phe phái trong nền chính trị Việt Nam

Việt Nam

Nền chính trị Việt Nam có những phe phái chính nào? Điều gì là đặc trưng cho những động lực của nền chính trị ấy? Nó sẽ như thế nào trong vài năm tới? Bài viết này cố gắng trả lời các câu hỏi trên. Bài đưa ra ý sau đây: Nền chính trị Việt Nam có thể được hình dung như một trò chơi giữa bốn phe phái chính. Nếu chính phủ được định nghĩa là nơi tập trung quyền lực chính trị của một nước, thì Chính phủ Việt Nam trước hết được hiểu là chế độ của phe bảo thủ, phe hiện đại, phe trục lợi và Trung Quốc. Mỗi phe là một khối các nhân vật khác nhau có chung khuynh hướng hay mục tiêu chiến lược cao nhất.
Sự khác biệt của ba khối cùng là người Việt này cần được giải thích sâu hơn. Tiêu chí để xếp ai đó vào một khối là sự ưu tiên hay khuynh hướng của người ấy trước một số vấn đề cơ bản như ý thức hệ (đất nước nên mở hay đóng cửa trước các tư tưởng tự do từ phương Tây) và quan hệ của Đảng Cộng sản (ĐCS) với dân tộc (Đảng ở cao hơn hay thấp hơn dân tộc). Phe bảo thủ là một khối thiên về lựa chọn chính sách “khép cửa” và “Đảng là số 1”; phe cấp tiến chọn lựa chính sách mở cửa và vì tiền đồ của toàn dân tộc; phe trục lợi hướng đến bất kỳ cái gì mang lại cho họ nhiều lợi ích nhất.
Trong các bài diễn văn, giới lãnh đạo thường sử dụng ngôn từ hàng ngày, tuy nhiên cách họ nhấn mạnh những điểm nào đó sẽ bộc lộ lập trường của họ. Một nhân vật bảo thủ như nguyên Tổng Bí thư Đảng Lê Khả Phiêu có thể nhấn mạnh các ý “dân chủ trong nội bộ đảng”, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và Việt Nam như “một quốc gia hiện đại”, một “đối tác hữu nghị đáng tin cậy với những nước khác”. Nhưng cách nhấn mạnh của ông Phiêu là dựa trên bản chất giai cấp, tương phản với bản chất của toàn dân tộc, nó vì những lợi ích cốt lõi của đảng, duy trì đặc tính “xã hội chủ nghĩa” của đất nước, và mâu thuẫn với phương Tây “tư bản và đế quốc. Hiện đại hoá, cải cách, dân chủ và hội nhập quốc tế, nếu được thực thi, chỉ là phương tiện để đi tới một mục đích cao hơn, và nếu cần, có thể hy sinh những phương tiện này. Mục đích cao hơn ấy là sự tiếp tục chế độ cộng sản (1).
Một người thuộc phe cấp tiến, như cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, có thể cam kết duy trì “vai trò lãnh đạo của đảng” và xây dựng “chủ nghĩa xã hội” nhưng tầm nhìn của ông về đảng và chủ nghĩa xã hội hoàn toàn khác những người bảo thủ. Ông Kiệt và những nhân vật cấp tiến khác trong ĐCS muốn một đảng coi lợi ích của toàn dân tộc là lợi ích của chính nó và định nghĩa xã hội chủ nghĩa là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải chủ nghĩa Mác-Lênin, là lý tưởng ràng buộc và dẫn đường cho phe cấp tiến. Trong khi phe bảo thủ như các tổng bí thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh đều quả quyết rằng “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” (nghĩa là biệt lập khỏi những ảnh hưởng tự do, ảnh hưởng phương Tây, đồng thời duy trì các đặc trưng cộng sản và sự cai trị của cộng sản) là những nguyên tắc cơ bản của chính sách Việt Nam. ông Kiệt trong một lá thư mật gửi tới Bộ Chính trị ĐCS vào tháng 08/1995 đã thay thế những cụm từ ấy bằng “dân tộc và dân chủ” (2). Mặc dù những nhân vật tinh hoa theo phe cấp tiến không thể tán thành dân chủ đa đảng vì đây là điều cấm kỵ, nhưng phe này ủng hộ cải tổ chính trị nhiều hơn, sâu hơn nhằm mở rộng dân chủ và tăng cường tính hiệu quả.
Phe trục lợi là những nhà cơ hội, tìm kiếm lợi ích tối đa thường có được nhờ những đặc quyền do chính phủ ban cho; không quan tâm tới khái niệm lợi ích dân tộc dù là theo định nghĩa của phe bảo thủ hay phe hiện đại. Như phần sau sẽ chỉ ra, phe trục lợi ở Việt Nam là một nhóm đặc biệt gồm những người mưu tìm lợi nhuận, và họ mạnh hơn phe hiện đại cũng như phe bảo thủ nhờ có một thế lực độc quyền hậu thuẫn.
Cả ba khối này – bảo thủ, hiện đại và trục lợi – đều hiện diện ở cả trong và ngoài đảng cầm quyền và chính phủ. Họ hiện diện ở mọi cấp bậc hoạch định chính sách. Những con đường sai lầm mà họ chọn trải dài qua nhiều thế hệ, khu vực và định chế. Phần lớn các nhà lãnh đạo Việt Nam thường giữ lập trường ít nhiều thống nhất trong một khối. Nhưng cũng có một số người chuyển từ phe này sang phe khác và những người khác thì khó nhận biết hơn. Những nhân vật bảo thủ nổi bật gồm các Tổng Bí thư Đỗ Mười (1991-97), Lê Khả Phiêu (1997-2001), Nông Đức Mạnh (2001 đến nay), và nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh (1992-1997). Phe cấp tiến hiện diện mạnh mẽ hơn trong đội ngũ lãnh đạo cao cấp thông qua các gương mặt như cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyên Cơ Thạch (1982-1991), cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1991-1997) và nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (2001-2006), và các nhân vật ít tạo dấu ấn hơn như cựu Chủ tịch nước Võ Chí Công (1987-1992) và nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải (1997-2006). Nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương (1997-2006) có thể coi là thuộc phe trục lợi. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh (1986-1991) đã thay đổi, chuyển từ phe hiện đại sang phe bảo thủ vào năm 1989. Và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (2006 đến nay) là người khó nhận biết là theo phe nào.
Chính trị Việt Nam diễn ra trên bốn bình diện lớn – kinh tế, chính trị trong nước, quan hệ nhà nước-xã hội, và quan hệ đối ngoại. Động lực (tức yếu tố kích thích sự thay đổi – ND) của nó trong mỗi lĩnh vực ấy đều có một đặc trưng riêng biệt. Trên mặt trận kinh tế, động lực ấy là sự khủng hoảng của mô hình phát triển kiểu Việt Nam. Ở trung tâm của nền chính trị trong nước, động lực ấy là một hợp lưu giữa ba dòng: tiền, quyền và tác động từ thế giới, hoặc nói một cách tao nhã hơn, đó là ba dòng lợi ích, quyền lực và tiền đồ bên ngoài. Sự nổi lên của xã hội dân sự, đặc biệt là khối dân sự tinh hoa dòng chính thống, ngày càng tạo nên một xu thế trong quan hệ nhà nước-xã hội. Trong lĩnh vực địa chính trị, tâm điểm của chính trị Việt Nam nằm ở những nỗ lực hòng đạt được sự tự lực tự cường trên vùng sân sau của Trung Quốc.
Năm 2009 đã ghi nhanh tình hình chính trị Việt Nam với bốn phe chính và những đặc điểm của các động lực trong nền chính trị ấy. Phần thảo luận tiếp sau đây sẽ phác thảo nên một số nét của chính trị Việt Nam thông qua việc xem xét bốn phe phái chính cùng bốn đặc điểm, được minh họa bằng những sự kiện và quá trình trong suốt năm 2009.
Nơi hội tụ của Lợi ích, Quyền lực, và Tiền đồ
Từ khi khởi động phong trào đổi mới vào năm 1986, Việt Nam đã thể nghiệm một sự pha trộn chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản. Thử nghiệm này là một cuộc chung đụng đầy mâu thuẫn giữa hai đường lối chủ đạo do hai khối theo đuổi, hai khối này có thể gọi là “phe bảo thủ” và “phe cấp tiến”. Tôi gọi họ như thế bởi lẽ mục tiêu trọng tâm của phe bảo thủ là duy trì chế độ cộng sản trong khi mục tiêu của phe cấp tiến là hiện đại hóa đất nước bằng cách đưa vào các yếu tố tư bản và tự do chủ nghĩa (3). Mặc dù có một thực tế là hai khối này đại diện cho hai đường lối chủ đạo cùng cai trị đất nước, nhưng nền chính trị Việt Nam không phải chỉ gồm hai phe bảo thủ và hiện đại. Quá trình “chung đụng” đã tạo ra một khối thứ ba, tận dụng cái hỗn hợp nói trên và có khả năng thích ứng cao với môi trường “nước lợ”. Khối thứ ba nỗ lực duy trì hỗn hợp tư bản-cộng sản chủ nghĩa để hậu thuẫn cho đường lối của họ. Vì chủ nghĩa tư bản đem đến cơ hội kiếm tiền, còn chủ nghĩa cộng sản mang lại độc quyền quyền lực, nên hỗn hợp của cả hai sẽ tạo điều kiện vừa có lợi cho việc dùng tiền để mua quyền, vừa có lợi cho việc dùng quyền để kiếm tiền. Khối thứ ba này, có thể được gọi bằng cái tên “phe trục lợi”, dùng tiền để thao túng nền chính trị, và một khi đã có cửa vào vị trí quyền lực trong ĐCS, họ sẽ sử dụng độc quyền về chính trị để tạo siêu lợi nhuận (4). Không giống như phe bảo thủ và phe cấp tiến, phe trục lợi không theo chủ trương đường lối nào; họ chỉ đi theo động cơ lợi nhuận.
Khi sự đồng tồn tại chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản trở thành đặc trưng của nền chính trị Việt Nam, thì bằng trực giác, có thể nghĩ rằng hầu hết xung đột chính trị ở Việt Nam đều diễn ra dọc cái trục bảo thủ chống cấp tiến. Tuy nhiên, mô hình như vậy không chính xác. Không chính xác bởi vì nó đã bỏ qua phe trục lợi, mà trong nhiều trường hợp đó mới là những nhân vật chủ chốt. Hơn nữa, mô hình trên chỉ coi đám ấy như những kẻ mưu kiếm tiền – những người mà theo suy luận thông thường, hẳn phải thích chủ nghĩa tư bản hơn chủ nghĩa cộng sản. Và nếu thế thì trong mô hình này, phe trục lợi có xu hướng ngả về phía phe cấp tiến hơn là ngả về phe bảo thủ. Tuy vậy, trên thực tế, các nhân vật thuộc phái trục lợi ở Việt Nam có xu hướng đi cùng phe bảo thủ khi nào cần tiếp tục độc quyền lãnh đạo của ĐCS, và đi cùng phe hiện đại khi nào cần cho phép các đảng viên sở hữu những tài sản lớn và điều hành công ty tư bản. Phe trục lợi là một loài chuyên sống ở “vùng nước lợ” – chủ nghĩa trọng thương dưới chế độ cộng sản. Được độc quyền lãnh đạo của ĐCS hậu thuẫn, họ rõ ràng mạnh hơn hẳn những người chỉ mưu kiếm tiền thuần túy. Với sự tồn tại của phe thứ ba này, nền chính trị Việt Nam, ở một chừng mực nào đó, là sự tranh chấp giữa phe bảo thủ và phe hiện đại. Nhưng ở một chừng mực khác lại là ngã ba hợp lưu ba dòng lợi ích, quyền lực, và tiền đồ (5).
Năm 2009 chứng kiến hợp lưu ba dòng lợi ích, quyền lực, và tiền đồ qua một vài vụ việc, trong đó hai vụ có thể nói là rất nổi bật. Vào ngày 19/11, Tòa phúc thẩm tỉnh Cần Thơ tuyên y án sơ thẩm hồi tháng 8 đối với bị cáo Trần Ngọc Sương – được biết đến với tên gọi “bà Ba Sương” – vì tội lập quỹ giao dịch ngoài sổ sách. Là cựu giám đốc Nông trường quốc doanh Sông Hậu, từng được Chính phủ trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, bà Sương bị kết án 8 năm tù, buộc bồi thường 4,3 tỷ đồng (tương đương 240.500 USD). Bản án gây phẫn nộ trong dư luận, vài quan chức cấp cao và nhân vật có danh phận lên tiếng ủng hộ bà Sương. Nguyên phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, một nhà bảo thủ, nói bản án đối với bà Sương là “bất công” bởi bà Sương đã “cống hiến cả đời mình cho cuộc sống của hàng nghìn nông dân” và bà “lập quỹ không vì mưu lợi cá nhân”, một chân dung từng được những tờ báo có tư tưởng đổi mới dựng nên và còn được xác nhận bởi nhà báo Huy Đức, người đã viết bài về Nông trường Sông Hậu và bà Sương trong nhiều năm. Báo chí cũng viết rằng Nông trường Sông Hậu được Chính phủ tặng hai Huân chương Lao động và coi như một điển hình của chủ nghĩa xã hội – nơi nhà nước giữ quyền sử dụng đất nhưng cung cấp phúc lợi tương đối tốt.
Mặc dù cơn thịnh nộ của công chúng được khuấy lên chủ yếu do khía cạnh đạo đức của vụ việc, nhưng người ta cũng hy vọng rằng chính quyền xã hội chủ nghĩa sẽ can thiệp để cứu lấy một vị anh hùng trong sự nghiệp của chế độ. Nhưng chính quyền đã không làm thế. Trên thực tế, đại diện của bà Sương tại tòa án là những luật sư có tư duy đổi mới và sự ủng hộ của công chúng dành cho bà cũng do cánh báo chí đổi mới huy động. Còn chính quyền đã làm gì? Tòa án nhận chỉ thị từ lãnh đạo đảng ủy Cần Thơ, và sau vài tuần đưa tin ồ ạt, giới truyền thông được lệnh phải chấm dứt nói về vụ án bà Sương. Trước đó, trong hậu trường, cơ quan chính quyền tỉnh Cần Thơ vốn đã có quyết định phân bổ đất của Nông trường Sông Hậu cho một dự án khu công nghiệp và khu đô thị. Phó Bí thư tỉnh ủy Cần Thơ Phạm Thành Vận được ghi âm đã nói câu này với bà Sương: “Chị sẽ về hưu và hạ cánh an toàn nếu chị trả lại đất của nông trường [cho thành phố]” (6).
Vụ việc thứ hai liên quan đến Jetstar Pacific Airline (JPA), một liên doanh giữa Công ty Đầu tư Vốn Nhà nước (SCIC) với hãng hàng không Qantas của Australia, trong đó doanh nghiệp nhà nước (DNNN) phía Việt Nam sở hữu 70% cổ phần, chiếm đa số. Cuối năm 2009, tranh cãi bùng nổ sau khi một cuộc điều tra của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước cho thấy các giám đốc điều hành của JPA gây thua lỗ tới 31 triệu USD trong một thương vụ mua xăng, thế nhưng họ lại có mức lương cao hơn giám đốc điều hành của các DNNN tương tự. Tranh cãi cũng kéo theo một số nghi vấn về mức lương cao bất thường của các giám đốc điều hành SCIC. Đầu tháng 12, ông Lương Hoài Nam, nguyên giám đốc điều hành JPA kiêm quan chức cấp cao của SCIC, bị công an bắt vì có dính líu vào thương vụ mua xăng, trong khi hai giám đốc điều hành người Úc của JPA bị cấm xuất cảnh khỏi Việt Nam.
Tiền thân của JPA là Pacific Airlines (PA), một liên doanh trong nước, trong đó hãng vận tải quốc doanh Vietnam Airlines (VNA) nắm phần lớn cổ phần. Được thành lập năm 1990, PA là hiện thân cho nỗ lực của phe hiện đại muốn tạo ra một mức độ cạnh tranh nhất định trong ngành hàng không của Việt Nam. Tuy nhiên, duy trì yếu tố cạnh tranh này tỏ ra là một việc khó. Sau 10 năm hoạt động, PA công bố lỗ chồng chất tới hơn 10 triệu USD (7). Mặc dù là công ty con của VNA, song có tin PA không được công ty mẹ chào đón lắm.
Vị thế độc quyền của hãng vận tải quốc doanh này trở thành một thực tế khó nhằn đối với công ty kế nhiệm PA. Có thể thấy hợp lưu ba dòng lợi ích, quyền lực và tiền đồ trong vụ này, theo một bài báo trên tờ Herald Sun: [Vào giữa năm 2009]. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng buộc phải can thiệp khi nguồn cung xăng máy bay bị cắt đứt do Vietnam Airlines không cho đội xe của mình tiếp tế nhiên liệu cho Jetstar Pacific. Loạt rắc rối mới nhất với Jetstar Pacific bắt đầu tháng 7 năm đó khi công ty báo cáo tháng đầu tiên có lợi nhuận sau suốt 18 năm vận hành (mà hồi ban đầu là dưới tên gọi Pacific Airlines). Khi ấy, Bộ Giao thông Vận tải liền ra lệnh cho Qantas bỏ tên Jetstar và bỏ thương hiệu màu cam nổi bật khỏi hạm đội 6 chiếc Jetstar, họ bảo như thế “Úc quá” (8).
Nhà quan sát kỳ cựu Carlyle Thayer phân tích:
Vấn đề nảy sinh từ sự thành công của Jetstar Pacific vào giữa năm 2009, khi hãng này lại làm ăn có lãi sau khi đã cắt giảm chi phí và tăng thị phần (18% lên 25%) làm Vietnam Airlines phải thua thiệt. Hoạt động đẩy mạnh một cách quyết liệt việc bán vé giá rẻ của Jetstar Pacific đã làm người ta khó chịu. Tôi nhìn thấy một sự tương đồng với vụ ANB-AMBRO năm 2006 khi một ngân hàng quốc doanh để thua lỗ trong những vụ đổi tiền. Ở đây, trong vụ Jetstar Pacific thì Tổng Công ty Đầu tư Vốn Nhà nước thua lỗ vì một thương vụ thực hiện phòng ngừa rủi ro về xăng dầu (fuel hedging). Trong cả hai vụ việc, an ninh điều tra/công an đã hình sự hóa hoạt động quản trị kinh doanh và hình sự hóa việc ra những quyết định sai lầm. Người Hà Lan đã trả vài triệu để thoát trách nhiệm (trong vụ ANB-AMBRO). Và tôi hồ nghi việc Qantas/Jetstar sẽ phải chi một khoản phạt hay bồi thường nào đó. Do vậy SCIC, một doanh nghiệp nhà nước, sẽ không được miễn thuế… Rõ ràng là có một nhóm lợi ích thuộc doanh nghiệp nhà nước trong công việc. Đây là chuyện phải lấy được tiền ra khỏi Qantas khi các nhân viên trong nước của họ tiến hành nghiệp vụ hedging và thua lỗ vì giá xăng. Điều này ảnh hưởng tới Tổng Công ty Đầu tư Vốn Nhà nước, vốn là cổ đông chính trong Jetstar (9).
Khủng hoảng mô hình tăng trưởng
Trong hai thập niên qua, hợp lưu ba dòng lợi ích, quyền lực, và tiền đồ, ở một nước Việt Nam thời kỳ đổi mới đã tạo ra một đường lối kinh tế làm lợi nhiều nhất cho phe trục lợi. Trong giai đoạn đầu của nó, con đường do đồng tiền dẫn dắt này đi song song với con đường do lao động dẫn dắt, và đã trình diễn những mô hình tăng trưởng đáng chú ý. Vào năm 2005, ấn tượng trước các thành tựu tăng trưởng của Việt Nam trong thập niên trước đó, Goldman Sachs đã coi Việt Nam là một trong “11 Quốc Gia Kế Tiếp” có tiềm năng tạo được ảnh hưởng giống như khối BRIC trong việc cạnh tranh với G7 (10). Nghiên cứu của Goldman Sachs cho rằng vào năm 2025 Việt Nam có thể trở thành nền kinh tế lớn thứ 17 trên thế giới và vào năm 2050 thì đứng vị trí thứ 15. Những dự báo này dựa trên tiền đề “các nền kinh tế đó có thể tiếp tục đi con đường hiện tại của họ” (11). Nhưng chẳng bao lâu sau khi các báo cáo được công bố, mô hình tăng trưởng của Việt Nam đã bộc lộ nhiều dấu hiệu cho thấy các vấn đề nghiêm trọng. Suốt trong năm 2008, tỷ lệ lạm phát tăng vọt lên mức hơn 20%, buộc chính phủ phải hãm phanh đối với chính sách ưu tiên tăng trưởng và đổi số sang chương trình chống lạm phát. Rất tương ứng với dự đoán của chúng tôi trong bài này, các bong bóng vỡ tung khi cơn sốt đầu tư tiếp nối việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và va đập với các nút cổ chai của hệ thống hành chính, các thiết chế, cơ sở hạ tầng, và giáo dục của đất nước (12). Nổi bật hơn tất cả là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt đầu cùng vào năm ấy.
Là một nền kinh tế mà giá trị ngoại thương nhiều hơn tổng sản phẩm quốc nội xấp xỉ 1,5 lần, Việt Nam bị ảnh hưởng rất nặng từ cuộc khủng hoảng toàn cầu. Đầu tư nước ngoài sa sút mạnh và thị trường nước ngoài cho sản phẩm của Việt Nam bị thu nhỏ. Khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp phép trong năm 2009 là 21,5 tỷ USD, thấp hơn 70% so với năm trước đó. Lượng FDI được giải ngân trong năm 2009 ước đạt 10 tỷ USD, giảm 13% so với năm 2008. Xuất khẩu của Việt Nam năm 2009 ước tính đã sụt giảm 9,7% xuống còn 56,6 tỷ USD, trong khi nhập khẩu giảm 14,7% xuống còn 68,8 tỷ USD. Phần đáng kể trong mức suy giảm xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2009 là do những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước bị giảm giá bán, như dầu, gạo, cà phê, than. Kim ngạch xuất khẩu dầu thô của Việt Nam, vốn chiếm 11% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, ước tính đã giảm 40% mặc dù khối lượng xuất khẩu chỉ giảm có 2,4%. Năm 2009, Việt Nam ghi nhận kỷ lục về xuất khẩu gạo và một mức tăng trưởng 25,4% cả năm về khối lượng, nhưng giá trị, chiếm 4,8% trong tổng xuất khẩu, đã giảm 8%. Cũng vậy, xuất khẩu cà phê, chiếm 3% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng 10,2% về khối lượng nhưng giảm 19% về giá trị, và xuất khẩu than, chiếm 2,3%, giảm 4,5% về giá trị bất chấp mức tăng 29,9% về khối lượng (13).
Khủng hoảng kinh tế gây ra một cuộc tranh cãi mới về định hướng chủ đạo trong các chính sách kinh tế của Việt Nam. Đối với phe bảo thủ, khủng hoảng hiện tại là bằng chứng rõ ràng cho thấy vai trò giám sát và kiểm soát của Nhà nước có tính quyết định đối với sự vận hành của nền kinh tế. Phe bảo thủ cũng ca ngợi tính ưu việt của hệ thống độc đảng trong việc vượt qua khủng hoảng. Họ lập luận rằng độc đảng giúp huy động tối đa nguồn lực và tạo sự đồng thuận vào thời điểm những điều này là cần thiết nhất mà lại thường khó đạt được nhất. Các quan điểm như vậy được bộc lộ chẳng hạn trong những phát biểu của ông Tô Huy Rứa, Trưởng ban Tuyên giáo của Đảng, tại hội nghị lý luận lần thứ năm giữa hai đảng cộng sản Trung-Việt, tháng 12/2009. Nhưng nhà tuyên truyền hàng đầu của Đảng, người đã được bầu vào Bộ Chính trị tại phiên họp toàn thể lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng hồi tháng 1/2009, không phải là nhân vật đại diện cho các quan điểm của riêng phe bảo thủ. Lặp lại lời của phe cấp tiến, ông Rứa công nhận rằng khủng hoảng đem lại một cơ hội tái cấu trúc nền kinh tế và ông ta đoán chắc rằng việc tái cấu trúc phải nhằm hướng tới một mô hình tăng trưởng mới dựa vào “lợi thế cạnh tranh năng động” và đưa vào khái niệm “phát triển bền vững”. Tư duy mới này về phát triển là nhằm giảng hòa giữa ba mục tiêu tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội, và thân thiện với môi trường (14).
Bề ngoài, để tránh các vấn đề gây nhiều tranh cãi, diễn văn của ông Rứa không nhắc gì tới vai trò của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), vốn là điểm mấu chốt trong cuộc tranh cãi giữa phe bảo thủ và phe cấp tiến. Phe bảo thủ muốn giữ vai trò chủ đạo của khu vực nhà nước trong nền kinh tế. Họ chủ trương rằng, nền kinh tế quốc dân phải dựa vào các DNNN như là trụ cột. DNNN nào lớn nhất thì sẽ đóng vai trò như “quả đấm thép” của quốc gia – cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế và là một công cụ quản lý hùng mạnh, cả trong kinh tế lẫn trong chính trị. Không như các đơn vị tư nhân, DNNN phải tuân lệnh Đảng và Nhà nước, và phải đáp ứng những nhiệm vụ chính trị do Đảng và Nhà nước đặt ra. Đổi lại, các DNNN có được sự ưu đãi về chính sách, tín dụng, đất đai và các nguồn lực khác mà Nhà nước sở hữu. Sự nhập nhằng giữa Nhà nước và các công ty riêng của nó thể hiện trong việc các vị quan chức trong tập đoàn (conglomerate) Nhà nước lớn nhất đều là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng – cơ quan mà, xét về địa vị, vốn là cơ quan chính sách có quyền lực cao nhất nước giữa hai kỳ đại hội Đảng (15).
Tuy vậy, phe cấp tiến lại coi các tập đoàn nhà nước như “những con khủng long trong một nền kinh tế vị thành niên” (16). Họ chỉ ra rằng các doanh nghiệp này đã thất bại trong việc trở thành những quả đấm thép của quốc gia – không vươn lên mạnh mẽ trong cạnh tranh quốc tế mà cũng chẳng hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Thay vì thế, chúng ra sức tận dụng và duy trì những đặc quyền đặc lợi và địa vị độc quyền được Nhà nước thừa nhận – vì lợi nhuận của riêng chúng. Hậu quả là, chúng trở thành những nhà sản xuất kém hiệu quả và tham nhũng (17). Tái cấu trúc các DNNN, do đó, là vấn đề trung tâm trong chương trình nghị sự của phe hiện đại. Cụ thể, phe hiện đại đòi thay đổi cấu trúc sở hữu của SOE (State Owned Entreprise) theo hướng tư nhân hóa nhiều hơn. Đánh giá tình hình hiện nay, phe cấp tiến lập luận rằng mô hình tăng trưởng của Việt Nam đã đạt tới đỉnh và tái cấu trúc là chìa khóa để vượt qua khủng hoảng cũng như tránh cái bẫy thu nhập trung bình. Nhiều người theo phe cấp tiến nhất trí rằng đây phải là một cuộc tái cấu trúc toàn diện bao gồm cả biến đổi cơ cấu sở hữu các DNNN, lẫn cải cách các định chế và điều lệ kinh tế, tái cấu trúc thị trường và doanh nghiệp nội địa (18).
Chính phủ cố gắng kết hợp quan điểm của cả hai phe hiện đại và bảo thủ. Tuy nhiên, họ tập trung chủ yếu vào giải quyết các vấn đề ngắn hạn có thể đe dọa quyền lực của mình. Khi khủng hoảng toàn cầu nổi lên, chính phủ nhanh chóng sang số từ chống lạm phát qua chống suy thoái (tháng 12/2008). Phản ứng chủ đạo của họ là thực hiện một gói kích cầu với chi phí lên tới 8 tỷ USD. Khi nền kinh tế bộc lộ những dấu hiệu hồi phục và bóng ma lạm phát có nguy cơ quay lại, chính phủ phá giá tiền đồng xấp xỉ 5% so với đô-la Mỹ, làm tăng lãi suất chuẩn của ngân hàng trung ương lên 8%, và chấm dứt chương trình kích cầu sớm hơn dự định (cuối tháng 11, đầu tháng 12/2009) (19). Với tỷ lệ tăng trưởng 5,32%, Việt Nam nổi bật, cùng với Trung Quốc, Indonesia và Campuchia, như một trong số rất ít nền kinh tế ở Đông Á tăng trưởng hơn 2% trong năm 2009.
Tuy nhiên, Việt Nam đã phải trả một cái giá cao cho thành công ngắn hạn của mình. Việt Nam là một trong số ít nước vừa có thâm hụt ngân sách vừa bị thâm hụt cán cân vãng lai (20). Nhất là, chính phủ lại chịu thâm hụt ngoại thương khổng lồ suốt hơn một thập niên. Cùng lúc đó, như chính Thống đốc Ngân hàng Trung ương Việt Nam thừa nhận, nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng mạnh vào năm 2009 so với các năm trước đó. Quỹ Tiền tệ Quốc tế đánh giá nợ nước ngoài của Việt Nam ở mức một phần ba tổng sản phẩm quốc nội (GDP), còn Ủy ban Ngân sách và Tài chính của Quốc hội cho rằng tổng nợ của chính phủ chiếm tới 44,6% GDP (21). Sự hội tụ tất cả các yếu tố này gây ra một tình thế lưỡng nan cho chính phủ. Thâm hụt cả ba mặt gây áp lực khổng lồ khiến đồng tiền quốc gia (VND) suy yếu. Sự mất giá thê thảm của VND có thể làm tăng xuất khẩu và giảm nhập siêu nhưng cũng có thể gây những tác động tâm lý tiêu cực và làm các khoản nợ nước ngoài lớn thêm. Nhưng duy trì giá trị danh nghĩa cao của tiền đồng quá lâu có thể vắt kiệt dự trữ ngoại tệ vốn đã eo hẹp. Các nhà phân tích ước tính lượng đô-la bán ra trong năm 2009 nhằm ổn định VND đã thu hẹp dự trữ ngoại tệ của Việt Nam xuống còn 16,5 tỷ USD, chỉ đủ cho không đầy ba tháng nhập khẩu. Bên ngoài khu vực, các láng giềng của Việt Nam như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan thì đã tăng đáng kể dự trữ của họ (22).
Tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao của Việt Nam làm bộc lộ những điểm kém hiệu quả đáng buồn nản. Năm 2009, hệ số sinh lời từ gia tăng vốn đầu tư (ICOR), chỉ số đo độ kém hiệu quả của chi tiêu đầu tư, tăng vọt lên mức 8,05 so với mức 6,92 của năm 2008 và 4,76 của 2007 (23). Những con số này cao hơn hẳn so với những nước tăng trưởng nhanh khác trong giai đoạn đầu tư trước khi tới đỉnh của họ. Ví dụ, ICOR của Nhật Bản vào thập niên 1960 và của Hàn Quốc vào thập niên 1980 chỉ hơn 3. Gần đây hơn là Trung Quốc, ICOR của họ tăng từ 3 trong những năm 90 của thế kỷ trước lên gần 4, mức trung bình của giai đoạn từ 2001 tới 2008, và được dự đoán là khoảng 6,7 vào năm 2009 (24). Chỉ số ICOR quá cao của Việt Nam cho thấy mức tăng trưởng kinh tế của quốc gia được dẫn dắt chủ yếu nhờ mở rộng vốn đầu tư, chứ không phải do tăng năng suất. Nếu Việt Nam tiếp tục đi con đường hiện nay, không chắc nền kinh tế sẽ cất cánh được như dự án của Goldman Sachs đã nói, và suy sụp là rất có thể.
Alexander L. Vuving
(Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương)
Đan Thanh chuyển ngữ
Nguồn: Viet-Studies
Chú thích:
Tác giả cảm ơn Ben Kerkvliet, Steven Kim, Daljit Singh, và Carlyle Thayer vì những nhận xét có giá trị của họ, và cảm ơn sự giúp đỡ hiệu quả của Kylee Kim. Các quan điểm thể hiện trong bài này là của tác giả.
(1) Lê Khả Phiêu, “Đảng Cộng sản Việt Nam tám mươi xuân”, Nhân Dân, 03/02/2010.
(2) Võ Văn Kiệt, “Thư gửi Bộ Chính trị “, 09/08/1995, Diễn Đàn, số 48 (tháng 01/1996): 16-25. Về sự kiên định của ông Phiêu theo đường lối “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, xin xem bài viết của ông, đã dẫn.
(3) Trong các bài viết trước đây, tôi gọi hai đường lối chủ lực của Việt Nam là “chống đế quốc” và “hội nhập”. Những tên gọi này muốn nói đến định hướng chính sách đối ngoại trung tâm của hai đường lối lớn đó. Tôi đặt tên như vậy bởi lẽ các bài viết trước đây của tôi chủ yếu nói về chính sách đối ngoại của Việt Nam.
(4) Trục lợi là một hành vi tìm kiếm lợi ích đặc biệt, tạo ra lợi ích chủ yếu nhờ đặc quyền đặc lợi và các luật lệ có ảnh hưởng do chính phủ ban hành.
(5) Tham khảo một thảo luận khác về sự giao thoa giữa lợi ích và quyền lực ở nước Việt Nam cộng sản: Bill Hayton, “Vietnam’s New Money”, Foreign Policy, 21/01/2010.
(6) Thông tin nền, xem “As Clamor against Suong Verdict Grows, Officials Vow to Dig for Truth”, VietNamNet Bridge, 27/11/2009.
; “NA Committee May Intervene in Labour Hero Case, Security Minister Orders Report”, VietNamNet Bridge, 24/11/2009.
; Huy Đức, “Sau bà Ba Sương là các nông trường viên”, Blog Osin, 01/12/2009.
(7) Dinh Thang, “Pacific Airlines thành Jetstar Pacific: Nhiều lận đận”, Tien Phong, 11/01/2010.
(8) Geoff Easdown, “Power Struggle Strands Execs”, Herald Sun (Australia), 11/01/2010.
(9) Thông tin cá nhân, 16/01/2010.
(10) Goldman Sachs Global Economic Group, BRICs and Beyond (Goldman Sachs, 2007), p. 131. BRIC là chữ viết tắt do Goldman Sachs đưa ra để chỉ một nhóm các nền kinh tế lớn đang nổi lên, gồm Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc.
(11) Ibid., pp. 139, 140.
(12) Alexander L. Vuving, “Vietnam: Arriving in the World — and at a Crossroads”, Southeast Asian Affairs 2008, biên tập Daljit Singh và Tin Maung Maung Than (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 2008), pp. 375-77.
(13) Tổng cục Thống kê Việt Nam, “Tình hình kinh tế xã hội năm 2009”, 12/2009.
(14) Tô Huy Rứa, “Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, Nhân Dân, 14/12/2009.
(15) Tham khảo một thảo luận về vai trò của DNNN, xem Vũ Quang Việt, “Vietnam Economic Crisis: Policy Follies and the Role of State-Owned Conglomerates”, in Southeast Asian Affairs 2009, biên tập Daljit Singh (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 2009), pp. 389-417.
(16) Phan Thế Hải, “Đàn khủng long của nền kinh tế vị thành niên”, TuanVietNam, 12/11/2009.
(17) Phạm Minh Trí, “Muốn chủ đạo phải tự thân”, TuanVietNam, 9/11/2009 ; Huy Đức, “Vẫn chưa hết những trở ngại cũ”. Phỏng vấn cựu Bộ trưởng Thương mại Lê Văn Triết, Sài Gòn Tiếp Thị, 25/05/2009.
(18) Hoàng Phương, “Không tái cấu trúc quản lý, mọi nỗ lực khác là vô nghĩa”, TuanVietNam, 19/05/2009.
(19) Vu Trong Khanh và Patrick Barta, “Hanoi Tightens Reins on Credit”, Wall Street
Journal
, 3/12/2009, p. A13.
(20) James Hookway và Alex Frangos, “Vietnam Devalues Its Currency”, Wall Street
Journal
, 26/11/2009, p. 23.
(21) “Vietnam Acknowledges Growing Foreign Debt”, Deutsche Presse-Agentur, 17/11/2009.
(22) Hookway và Frangos, “Vietnam Devalues”.

Hoa Kỳ có mặt ở Biển Đông

Hoa Kỳ có mặt ở Biển Đông hay không, Hoàng Sa, Trường Sa, Vịnh Bắc Việt cũng về tay Trung Cộng qua Luật Biển LHQ, nếu Việt Cộng còn cầm quyền

Tham luận tại Hội Luận Quốc Tế Biển Đông, do Hội Nghiên Cứu Quốc Tế Biển Đông tổ chức ở Wesminster, California, Hoa Kỳ, ngày 12-9-2010.
Lời Thưa
Hoàng Sa-Trường Sa là của Việt Nam, về phương diện lịch sử, địa lý, hành chính và pháp lý; hai quần đảo này đều nằm trọn trên thềm lục địa mở rộng của VN và theo Luật Biển LHQ thì chủ quyền của nước ven biển đối với thềm lục địa là tuyệt đối. Trung Cộng biết rõ điều này hơn ai hết vì nếu không, Trung Cộng đâu cần phải dùng võ lực xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, vừa vi phạm Hiến Chương LHQ và Công Pháp Quốc Tế, vừa sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời trước Toà Án Quốc Tế về hành vi xâm lược này. Mặt khác, nếu công hàm ngày 14-9-1958 Việt Cộng giao Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Cộng mà có “giá trị pháp lý” thì Trung Cộng cũng đã đem vấn đề chủ quyền hai quần đảo này ra trước Toà Án Quốc Tế rồi chứ đâu có để yên cho vài “tiểu quốc” dám “chiếm đóng” đảo, bãi của Trung Cộng rồi đàm phán song phương với đa phương vào lúc mà “thiên triều” hung hăng điên cuồng và thèm muốn Biển Đông như lúc này ?
Giới trí thức hay nghiên cứu đứng đắn Trung Quốc cũng biết rõ công hàm 14-9-1958 Việt Cộng là bất hợp pháp như Tiến Sĩ Lo Chi-Kin từng thú nhận : “Bắc Kinh không bao giờ dám đưa những tranh chấp về hải đảo tại Biển Đông ra trước các cơ quan trọng tài quốc tế.” [1] Giới cầm quyền ở Trung-Nam-Hải càng biết rõ như vậy nên mới phải thúc ép Hà Nội bày ra việc phân định lại Vịnh Bắc Việt ký hiệp ước ngày 25-12-2000 khiến VN mất 20.000km2 vùng Vịnh Bắc Việt, bao gồm cả Hoàng Sa. Nhưng công hàm 14-9-1958 thì vẫn vô hiệu mà hiệp ước 25-12-2000 thì phải dấu kín vì VN thua thiệt quá nhiều không dám công bố, nên nhân việc LHQ cho mở rộng thềm lục địa ngoài 200 hải lý, Hà Nội đã nộp LHQ hai hồ sơ ngày 6 và 7-5-2009, với lý do mở rộng thềm lục địa VN nhưng thực ra là giới hạn ở 200 hải lý để gạt Hoàng Sa, Trường Sa ra ngoài hải phận VN với ý đồ giao cho Trung Cộng qua Luật Biển LHQ.
Trước và sau khi nộp hai hồ sơ cho LHQ, để che dấu gian ý và đánh lạc hướng dư luận, Hà Nội đã tung đủ thứ tin tức xung quanh vấn đề Biển Đông và tổ chức Hội Thảo, không ngoài mục đích tung hỏa mù để mọi người không chú ý tới hai cái hồ sơ vô cùng tai hại cho VN của Hà Nội. Ngày 10-12-2009, Hà Nội tổ chức Hội Thảo về Biển Đông ở Hà Nội và tuyên bố : “VN đã nộp báo cáo cho Ủy Ban Thềm Lục Địa để bảo vệ quyền của VN đối với thềm lục địa ngoài 200 hải lý.” [2] Sự thực trái ngược, theo học giả Vũ Hữu San, chuyên về Biển Đông : Nếu xem hải đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy : 3-4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung Quốc; VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa; 4-5 biển Trường Sa không còn trong hải phận VN; VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số hơn 100 đảo nổi, chìm của nhóm Trường Sa.” Sau Hội Thảo Biển Đông ở Paris ngày 27-2-2010 không thành, Hà Nội lại vừa mới bày trỏ Hội Thảo Biển Đông ở Phidelaphia, Hoa Kỳ, với sự tiếp tay của một vài “Việt kiều yêu nước” đến từ Âu châu, nên không ai ngạc nhiên khi nhân vật chủ chốt của Hội Luận Philadelphia đã trắng trợn xuyên tạc lịch sử trên BBC : “Không thể nói chắc rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam !”
Như thế, việc “hiến đất dâng biển” cho Trung Cộng để đền ơn và để được bảo kê cho việc toàn trị đất nước rõ ràng là chủ trương của Đảng CSVN từ hơn nửa thế kỷ nay. Chủ trương “bán nước cầu vinh” này hoàn toàn phù hợp với sách lược bành trướng của Đảng CSTH. Tập đoàn cầm quyền Hà Nội hiện nay đang làm nhiệm vụ hoàn tất hay “hợp pháp hoá” những gì hai Đảng đã thoả thuận ngầm hay ký kết bất hợp pháp mà thôi. Nói  khác đi, Việt Nam sẽ mất Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt về tay Trung Cộng qua Luật Biển LHQ nếu Việt Cộng còn tiếp tục cầm quyền. Những gì xảy ra lâu nay xung quanh vấn đề Biển Đông đều chỉ là những hoả mù để Hà Nội và Bắc Kinh hoàn tất sách lược của chúng mà thôi.
Do đó, xin đừng thổi phồng quá đáng vai trò Hoa Kỳ ở Biển Đông, đặc biệt là sau tuyên bố của bà Hillary Clinton ở Hà Nội ngày 24-7-2010 ? Đừng quên Hoa Kỳ nhập cuộc trước hết vì quyền lợi của chính Hoa Kỳ ! Quyền lợi thì Trung Cộng sẽ sẵn sàng “chia sẻ” vì “của người phúc ta” và rốt cuộc chỉ VN là thua thiệt ! Hay cho dù có “thực tâm” và vì những “gì gì” như bà Clinton đã nói thì liệu Hoa Kỳ [và khối ASEAN] sẽ làm được gì khi Hoa Kỳ đứng ngoài [vì không phải là thành viên Luật Biển LHQ], trong lúc Việt Cộng và Trung Cộng gần như “thao túng” Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa là cơ quan có thẩm quyền thông qua hai hồ sơ Hà Nội về vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa và Vịnh Bắc Việt hay phần lớn Biển Đông ?
Người viết tin rằng bài viết dưới đây sẽ chứng minh được những nhận xét trên đây.
Thông Cáo của LHQ
Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa LHQ [Ủy Ban] kết thúc khoá họp thứ 24 về Thềm Lục Địa “mở rộng” [Extended Continental Shelf] ngoài 200 hải lý tại trụ sở LHQ, New York, ngày 11-12-2009. Thông Cáo [3] hay bản tường trình rất dài của Ủy Ban [Statement of Commision CLCS-64] được phổ biến trên trang nhà “UNCLOS”, người viết xin tóm lược một số điều cần biết hay liên quan tới Biển Đông và Việt Nam dưới đây.
1. Ủy Ban cho biết đã nhận được 35 hồ sơ mới của 41 nước ven biển nộp cho khóa họp thứ 24, từ 10-8-2009 đến 11-9-2009. Tuy là khóa họp thứ 24 nhưng là khóa họp đầu tiên của Ủy Ban về thềm lục địa mở rộng, sau hạn kỳ nộp đơn 10 năm do LHQ qui định, tính từ 13-5-1999 đến 13-5-2009. Ủy Ban chưa giải quyết được gì về 35 hồ sơ mới này, trong đó có 2 hồ sơ của Hà Nội nộp ngày 6 và 7-5-2009.
Ủy Ban dành gần hết khoá họp để giải quyết 5 hồ sơ cũ [của Pháp, Barbados, Anh+North Ireland, Indonesia, Nhật] tồn đọng từ các khóa họp trước. Cả 5 hồ sơ này đều đã được các Tiểu Ban [Sub-Commission] thành lập từ các khóa họp cũ cứu xét và đề nghị khuyến cáo, nhưng Ủy Ban chỉ giải quyết dứt điểm được hồ sơ của Pháp. Bốn hồ sơ cũ còn lại, Ủy Ban có giải quyết được thì sớm nhất cũng là năm 2010 hay 2011.
Tuy nhiên, Ủy Ban đã nghe đại diện 18 nước trình bày về 15 hồ sơ mới xin “mở rộng” thềm lục địa, trong số này đại diện Hà Nội đã trình bày về hồ sơ nộp ngày 6-5-2009 liên quan tới Nam Biển Đông và Trường Sa và hồ sơ ngày 7-5-2009 liên quan tới Bắc Biển Đông và Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt.
2. Về Thủ Tục Cứu Xét hồ sơ, muốn mở rộng thềm lục địa ngoài 200 hải lý, nước ven biển phải nộp hồ sơ cho Ủy Ban; hồ sơ gồm các bản đồ kỹ thuật với toạ độ và cách tính toạ độ để qui định đường ranh thềm lục địa ngoài 200 hải lý theo Luật Biển. Tổng Thư Ký LHQ phải thông báo bằng văn bản cho các nước hội viên Luật Biển khi nhận được hồ sơ và văn bản này cũng phải được phổ biến trên trang nhà UNCLOS.
Để giải quyết 1 hồ sơ, Ủy Ban trước hết phải chỉ định 1 Tiểu Ban gồm 7 người để xem xét. Tiểu Ban họp riêng khi xem xét hồ sơ và có thể yêu cầu nước nộp hồ sơ cung cấp thêm tài liệu hoặc thay đổi hồ sơ, nếu cần. Tiểu Ban phải cho nước liên hệ biết kết luận về hồ sơ của Tiểu Ban và phải đọc cho nước này biết các khuyến cáo [Recommendations] của Tiểu Ban trước khi đệ trình Ủy Ban.
Trong lúc Ủy Ban hội họp để duyệt xét các khuyến cáo do Tiểu Ban đệ trình, nước liên hệ có quyền trình bày quan điểm của mình về khuyến cáo của Tiểu Ban. Ủy Ban cũng có thể yêu cầu nước liên hệ thay đổi một phần hay toàn bộ hồ sơ cho phù hợp với Luật Biển LHQ. Nếu Ủy Ban không có ý kiến khác thì khuyến cáo của Tiểu Ban sẽ là quyết định của Ủy Ban và quyết định này có giá trị chung quyết và ràng buộc nước liên hệ.
3. Ủy Ban hiện nay do Đại Hội Đồng các nước hội viên Luật Biển bầu ra ngày 15-6-2007, gồm 21 ủy viên, với nhiệm kỳ 5 năm, từ 16-6-2007 đến 15-6-2012. Như thế, Ủy Ban chỉ có thể thành lập tối đa 3 Tiểu Ban; do đó việc giải quyết hồ sơ rất chậm, thường mất nhiều năm. Hồ sơ của Brazil nộp ngày 17-5-2004, Ủy Ban giải quyết ngày 9-4-2008, mất 4 năm; hồ sơ Barbados nộp ngày 8-5-2008, Ủy Ban hẹn sẽ giải quyết vào năm 2010; hồ sơ Cuba nộp ngày 1-6-2009, Ủy Ban quyết định năm 2030 mới giải quyết, tức 20 năm nữa.
Như thế, nếu không có gì đặc biệt xảy ra, hai hồ sơ của Hà Nội có được Ủy Ban giải quyết cũng phải 5, 7 năm nữa, thời gian đủ để Trung Cộng xây dựng Hoàng Sa, Trường Sa thành các căn cứ đồ sộ và rất có thể còn trở thành các địa điểm du lịch quốc tế, đặt mọi việc vào “sự đã rồi” hay “thực tế lịch sử” rất khó giải quyết cho dù khi đó công lý có đứng về phía VN hậu cộng sản.
4. Tóm lại, Hà Nội ở lợi thế cầm quyền và hội viên Luật Biển LHQ nên đã được Ủy Ban thông qua hai hồ sơ bước đầu và Hà Nội cũng có quyền hay rất có thể đã sửa đổi hay thậm chí thay đổi toàn bộ hồ sơ sau khi nộp [nên mới được cứu xét dù bị phản đối lúc đầu]. Trong số 21 thành viên của Ủy Ban đương nhiệm [và quyền hành còn kéo dài tới năm 2012] có đại diện của Nga, Trung Cộng và Bắc Hàn, là một lợi thế khác của Hà Nội. Hà Nội biết rất rõ những điều trên đây và đang khai thác tối đa để hoàn tất những gì hai Đảng CS này đã thỏa thuận ngầm từ bao năm nay, cụ thể là Hà Nội đang toan tính bàn giao Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho Bắc Kinh qua chính Luật Biển LHQ.
Luật Biển LHQ và Biển Đông
1. Để có một nhận định chính xác về 2 hồ sơ của Hà Nội, trước hết cần lưu ý một số điều sau đây:
- Ngày 13-5-2009 là hạn kỳ chót để các nước ven biển nộp hồ sơ mở rộng thềm lục điạ đến tối đa 350 hải lý theo Luật Biển LHQ, không phải là ngày chót để xác định Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý.
- Việc Hà Nội bỏ phí suốt 10 năm [từ 13-5-1999 đến 7-5-2009] và chỉ còn vài ngày là hết hạn mới nộp 2 hồ sơ là một dấu hiệu cần phải lưu ý.
- Ai cũng biết hiện nay Đảng CSVN hoàn toàn lệ thuộc vào Đảng CSTH; do đó nếu không có sự đồng ý hay dàn dựng của Bắc Kinh thì Hà Nội không khi nào dám nộp hồ sơ.
2. Theo Luật Biển LHQ, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế rộng 200 hải lý thuộc chủ quyền tuyệt đối và đương nhiên của các nước ven biển, không cần phải đăng ký.
- Nếu xảy ra tranh chấp ở vùng này thì có thể nhờ Toà Án Quốc Tế Hamburg hay Toà Án Quốc Tế La Hague phân xử hoặc đưa ra trước Hội Đồng Bảo An LHQ nếu có xâm lăng.
- Hà Nội ký Luật Biển ngày 10-12-1982, phê chuẩn ngày 25-7-1994, tức rất sớm tất biết rõ như trên. Khi Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý, bắn giết ngư dân VN hành nghề hợp pháp trong vùng và xâm lăng Trường Sa, Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước các cơ quan thẩm quyền để phân xử, trừ khi đã thỏa thuận ngầm với Bắc Kinh nên Trung Cộng mới lộng hành như vậy.
- Luật Biển LHQ rất phức tạp, ngoài 320 điều khoản, 9 phụ bản, còn có những thoả thuận riêng. Việc gì Luật Biển LHQ không qui định thì giải quyết theo tập tục và qui tắc tổng quát của Luật Quốc Tế.
3. Biển Đông rộng gần 1 triệu 100 ngàn hải lý vuông, Vịnh Bắc Việt chiếm hơn 1-3 diện tích Biển Đông, VN nằm sát bên Biển Đông và bờ biển dài 3,260 km, trải qua 13 vĩ độ, từ vĩ độ 21 N đến vĩ độ 8 N.
- Vì bờ biển VN rất dài [so với diện tích đất liền] nên Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý của VN có  diện tích gần gấp 2 diện tích 329,600 km2 đất liền.
- Nếu Thềm Lục Địa VN mở rộng ra 350 hải lý theo qui định của Luật Biển LHQ thì hải phận VN [rộng gấp 4 lần đất liền và] sẽ bao gồm luôn Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó hai nhóm đảo này nằm gần trọn trên Thềm Lục Địa “mở rộng” 350 hải lý của VN.
- Hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có một phần nhỏ nằm cách bờ biển VN 200 hải lý, hầu hết các đảo của hai nhóm này đều nằm rất xa ngoài khơi, có nơi cách bờ biển VN tới 400 hải lý. Hà Nội biết rõ điều này nên việc không xin mở rộng thềm lục địa VN ra 350 hải lý là phải có ý đồ ? Phải chăng đã đến lúc Bắc Kinh tăng tốc chiếm Biển Đông và buộc Hà Nội phải “hợp pháp hóa” những gì hai đảng CS đã thoả thuận ngầm từ lâu, trong đó hiệp ước về Vịnh Bắc Việt 25-12-2000 là mục tiêu chính ?
Hồ sơ ngày 6-5-2009 của Hà Nội và Trường Sa ? [4]
1. Ngày 13-5-2009 là ngày chót để nộp hồ sơ về Thềm Lục Địa “mở rộng” [Extended Continental Shelf] ra ngoài 200 hải lý và đến tối đa 350 hải lý mà VN có đầy đủ điều kiện theo Luật Biển để được hưởng, không phải để đăng ký Vùng Đặc Quyền Kinh Tế [Exclusive Economic Zone] 200 hải lý. [5] [6].
Theo Luật Biển, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý là vùng biển mà các nước ven biển đương nhiên được hưởng, không phải đăng ký. Thế nhưng, hồ sơ ngày 6-5-2009 của Hà Nội không những không xin mở rộng thềm lục địa mà còn giới hạn hải phận VN ở mức 200 hải lý và cố ý gạt nhóm đảo Trường Sa ra ngoài thềm lục địa VN.
2. Vẫn theo Luật Biển, Ủy Ban sẽ không cứu xét nếu hồ sơ có sự phản đối hay tranh chấp. Hai hồ sơ của Hà Nội đều bị Trung Cộng và Phi Luật Tân phản đối nhưng vẫn được Ủy Ban cứu xét và rất có khả năng sẽ được Ủy Ban thông qua. Vì sao  ? Đây chính là “kẽ hở” của Luật Biển LHQ qua ‘Thủ Tục Cứu Xét” hồ sơ [được tóm lược trên đây] mà cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh đều đã nhận ra và lợi dụng nên mới có việc Hà Nội “dám” nộp hồ sơ về Biển Đông cho LHQ, tức “quốc tế hoá” hay “pháp lý hoá” là những “khắc tinh” đối với Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông xưa nay.
3. Trung Cộng ký Luật Biển LHQ ngày 10-12-1982 và phê chuẩn ngày 7-6-1996 nhưng chưa bao giờ tôn trọng Luật Biển LHQ. Trung Cộng còn tự ban hành Luật Biển riêng và bản đồ lưỡi bò chiếm 80% Biển Đông, bất chấp qui định của Luật Biển.
- Bản đồ lưỡi bò lấn sát bờ biển VN, có nơi chỉ cách bờ biển VN 40 hải lý, chạy dài xuống tận đảo Natuma, Nam Dương, tức cách xa lục địa Trung Hoa khoảng 1000 hải lý, trong lúc Luật Biển qui định Thềm Lục Địa mở rộng không được quá 350 hải lý.
- Trung Cộng không nộp hồ sơ cho Ủy Ban là cơ quan được ủy nhiệm về vấn đề thềm lục địa mở rộng và chỉ cho đại diện tại LHQ gửi công hàm ngày 8-5-2009 cho Tổng Thư Ký LHQ để yêu cầu Ủy Ban không cứu xét hồ sơ của VN mà thôi. Kèm với công hàm là bản đồ lưỡi bò vì Trung Cộng biết chắc rằng nếu chính thức gửi cho Uỷ Ban thì sẽ bị bác bỏ vì cái bản đồ quái đản này không theo một qui tắc nào của Luật Biển LHQ cả.
4. Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa không có thẩm quyền phân định ranh giới biển. Nguyên tắc của Uỷ Ban là khuyến khích các nước liên hệ tự giải quyết việc phân ranh với nhau. Trong suốt tiến trình giải quyết một hồ sơ về thềm lục địa, Uỷ Ban luôn luôn phải tham khảo ý kiến của các nước liên hệ [như đã trình bày trong phần Thủ Tục Cứu Xét Hồ Sơ, ở trên]. Nếu có tranh chấp giữa 2 hay nhiều nước, Uỷ Ban có thể không chấp thuận hồ sơ của cả 2 hay nhiều nước.
Ngoài ra, tuy các nước liên hệ còn có quyền đưa vấn đề ra trước Toà Án Quốc Tế, nhưng đưa ra Toà Án Quốc Tế La Hague [1945] thì cũng như không, chẳng giải quyết được gì vì theo quy chế của Toà này thì hai bên tranh tụng có quyền “không thi hành” phán quyết của Toà dù chính họ nhờ Toà phân xử. Trái lại, phán quyết của Toà Án Quốc Tế Hamburg [1996] chuyên về Luật Biển có gía trị chung quyết và các bên tranh tụng phải chấp hành. Hà Nội có dám tiến tới hay không ? Điều này rất khó xảy ra lúc này vì ai cũng biết đảng CSVN hiện nay hoàn toàn lệ thuộc đảng CSTH. Bắc Kinh bảo sao thì Hà Nội cúi đầu làm vậy.
Hồ sơ ngày 7-5-2009 của Hà Nội và Hoàng Sa ? [7]
1. Ngày 7-5-2009, Hà Nội nộp Ủy Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa hồ sơ liên quan đến phía Bắc Biển Đông, tức liên quan đến Vịnh Bắc Việt và quần đảo Hoàng Sa. Tuy lời mở đầu hồ sơ này có nói Hoàng Sa và Trường Sa là của VN và nói tới việc “mở rộng” Thềm Lục Điạ VN ra ngoài 200 hải lý nhưng phần chính văn bản thì lờ đi không đề cập gì tới Hoàng Sa nữa và điều quan trọng là bản đồ kỹ thuật kèm theo hồ sơ thì đường ranh 200 hải lý đột ngột dừng lại ở vĩ độ 15 N khi vừa đụng tới nhóm đảo Hoàng Sa, với lý do vùng trên vĩ độ 15 N này đã “được giải quyết” giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
- Đường ranh 200 hải lý này cũng được vẽ không chính xác; Hà Nội cố ý vẽ đường ranh này nhô lên tận vĩ độ 16 N, trong lúc theo hồ sơ viết thì đường ranh này dừng lại ở vĩ độ 15 N 067, tức chỉ nhô khỏi vĩ độ 15 N một chút, chứ không thể tới vĩ độ 16 N được.
- Vùng biển Hà Nội xin “mở rộng” ra ngoài 200 hải lý trong hồ sơ 7-5-2009 có hình tam giác ngược, đỉnh  nhọn ở phía dưới [ở vĩ độ 10 N 798], cạnh đáy hơi nghiêng nằm chếch ngang phía trên [cạnh phía Đông có đỉnh ở vĩ độ 15 N 067, cạnh phía Tây có đỉnh ở vĩ độ 15 N 200].
- Đỉnh hình tam giác ngược này cách xa quần đảo Trường Sa như cố tránh đụng nhóm đảo Trường Sa, cạnh đáy nằm chếch ngang ở phía trên khi chớm đụng nhóm đảo Hoàng Sa là dừng lại, trong lúc nhóm đảo Hoàng sa trải dài từ vĩ độ 15 N lên hết vĩ độ 17 N.
- Rõ ràng là Hà Nội cố ý gạt cả Hoàng Sa lẫn Trường Sa ra ngoài vùng biển hình tam giác ngược mà Hà Nội nói là xin mở rộng. Hay nói khác đi, Hà Nội có xin mở rộng thềm lục địa VN ra ngoài 200 hải lý một chút [qua hồ sơ ngày 7-5-2000], nhưng vùng biển xin mở rộng hình tam giác ngược này chỉ là một vùng nước biển, dưới tránh đụng Trường Sa, trên né chạm Hoàng Sa; tức chẳng ảnh hưởng gì tới hai quần đảo này hay có đụng chạm tí chút đến nhóm Trường Sa thì chỉ là vài đụn cát hay đá rất ít giá trị.
Đến đây, xin được mượn lời của học giả Vũ Hữu San, chuyên về Biển Đông, để kết luận phần phân tích hai hồ sơ Hà Nội nộp LHQ ngày 6 và 7-5-2009 : “Hà Nội đã lùi bước khi vẽ hải đồ nộp LHQ. Dân chúng VN đừng bao giờ nghe chúng nói, hãy nhìn những gì chúng làm. Nếu xem hải đồ do Hà Nội vẽ để nộp LHQ, chúng ta sẽ thấy : 3-4 biển Hoàng Sa nằm trong hải phận Trung Quốc; VN chỉ còn 1 đảo độc nhất là Tri Tôn trong số trên 100 đảo của nhóm Hoàng Sa; 4-5 biển Trường Sa không còn trong hải phận VN; VN chỉ còn đảo Trường Sa nổi và 2 đảo chìm, trong số hơn 100 đảo nổi, chìm của nhóm Trường Sa. Hà Nội đã công khai vẽ hải đồ và chính thức nộp cho LHQ. Từ nay, Việt Nam cái gì ngược lại về hải phận cũng không được. Hà Nội tuyên bố sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông và trong thời gian sắp tới, hai bên “cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới biển. Khi đó, Trung Quốc sẽ dùng hải đồ mà Việt Nam đã nộp LHQ để đàm phán thì số phận Hoàng Sa Trường Sa coi như xong!”
Thềm Lục Địa với Hoàng Sa và Trường Sa ?
1. Tại hội nghị chuyên đề về Biển Đông ở Hà Nội ngày 10-11-2009, Vụ trưởng Ban Biên giới Nguyễn Duy Chiến tuyên bố : “Việc Ủy Ban Thềm Lục Địa xem xét báo cáo [NT : tức hai hồ sơ của Hà Nội] không ảnh hưởng đến vấn đề chủ quyền biển đảo.” Nguyễn Duy Chiến không hiểu hay bóp méo Luật Biển như Lê Công Phụng khi ký hiệp định 25-12-2000 hay nói dối như Vũ Dũng, một khác thứ trưởng của Hà Nội ? [8]
Hai hồ sơ Hà Nội nộp LHQ chẳng những trước mắt mất Hoàng Sa, Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt qua Luật Biển mà hậu quả tất yếu là rồi đây Trung Cộng có thể thôn tính VN dễ dàng bất cứ lúc nào khi đã khống chế được phía Đông VN là điều ai cũng thấy ! Quyền lợi cấp thiết và sinh tử của VN ở đây rõ ràng là mở rộng thềm lục địa ra 350 hải lý mà VN có đủ điều kiện theo Luật Biển để được hưởng vì nếu thềm lục địa VN được mở rộng ra 350 hải lý thì Hoàng Sa Trường Sa sẽ nằm gọn trên thềm lục điạ VN. Theo Điều 77 Luật Biển, quyền của các nước ven biển đối với thềm lục địa là một quyền tuyệt đối để thăm dò và khai thác dầu khí và như thế liệu các công ty dầu khí quốc tế có dám ký hợp đồng hàng chục tỷ với Trung Cộng để khai thác dầu khí ở vùng biển được LHQ xác định thuộc độc quyền khai thác của VN không ?
Thế nhưng Hà Nội lại xác định thềm lục địa VN chỉ 200 hải lý; tức gạt vùng biển Hoàng Sa Trường Sa ra ngoải thềm lục địa VN, gián tiếp gạt Hoàng Sa Trường vào trong hải phận hay chu vi bản đồ lưỡi bò Trung Cộng. Về mặt luật pháp, đây là một hành vi “chuyển nhượng lãnh thổ quốc gia” bất hợp pháp ngoại bang; luật pháp quốc gia xem tội này là “tội phản quốc” và luật pháp quốc tế hiện nay coi là  “tội lạm quyền” và liệt vào loại tội ác nghiêm trọng. [9]
2. Âm mưu dâng Hoàng Sa Trường Sa cho ngoại bang của đảng CSVN lộ rõ hơn nữa khi đại diện Hà Nội vừa tuyên bố “sẽ tìm mọi cách để giải quyết vấn đề Biển Đông” và trong thời gian sắp tới “2 bên cùng bàn bạc, đàm phán, phân định biên giới trên biển.” Hai bên sẽ đàm phán thế nào thì vụ đàm phán 10 năm trước với hiệp ước 25-12-2000 về Vịnh Bắc Việt đủ để biết trước hậu quả của đàm phán song phương của Hà Nội với Bắc Kinh.
10 năm trước, Nhật Báo Nhân Dân Bắc Kinh của Trung Cộng đã hoan hỉ ghi lại kết quả về đàm phán : “Hải Nam là tỉnh nhỏ nhất của TH, nhưng sở hữu tới 2 triệu 200 ngàn km2 Vùng Đặc Quyền Kinh Tế” và -10 năm trước- học giả Vũ Hữu San kêu lên : “Chỉ một hòn đảo Hải Nam thôi, TH đã chiếm phần lớn Biển Đông… Làm sao VN còn đầy đủ sức lực cho cuộc thương thảo nhiều lần quan trọng hơn về Trường Sa Hoàng Sa cũng như toàn thể chủ quyền Biển Đông sau này.”
Nói rõ hơn, qua thương thảo 10 năm trước trong việc phân định lại Vịnh Bắc Việt, Hà Nội đã dâng cho Bắc Kinh khoảng 20 000km2 Vịnh Bắc Việt, đã để cho Bắc Kinh lấy bằng hết vùng thủy tra thạch ở cửa sông Hồng, nơi có tiềm năng dầu khí, và để cho Trung Cộng lấn chiếm Vùng Đặc Quyền Kinh Tế phía Bắc VN, có nơi chỉ còn cách bờ biển VN có 40 hải lý.
Nay, qua 2 hồ sơ Hà Nội nộp LHQ, hậu quả còn tệ hại vô cùng vì chưa bước vào thương thảo tay đôi với Bắc Kinh mà Hà Nội đã tự “trói miệng” hay chịu mất trước, khi xác nhận với LHQ là Thềm Lục Địa hay Vùng Đặc Quyền Kinh Tế chỉ có 200 hải lý, tức Hoàng Sa Trường Sa nằm ngoài hải phận VN, tức “không chắc” là của VN [như  “luận điệu” của TS Vũ Quang Việt trong Hội Thảo Biển Đông ở Phidelaphia và trên BBC cuối tháng 7-2010 : “Không thể nói chắc rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của VN.”]
Hà Nội biết rõ hơn ai hết Hoàng Sa, Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng chứng giá trị về tất cả mọi mặt, Trung Cộng dùng võ lực xâm chiếm Hoàng Sa và cùng một số nước khác chiếm đóng bất hợp pháp phần lớn Trường Sa thì Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước cơ quan thẩm quyền để trục xuất kẻ xâm lược nếu không tự mình làm được điều này chứ sao lại thương thảo để chia chác biển đảo VN với quân cướp ? Cho dù không trục xuất được bọn cướp ngay thì phán quyết của một Toà Án Quốc Tế [như Hamburg chuyên về Luật Biển chẳng hạn] chí ít cũng giúp VN giữ được chủ quyền về pháp lý [và rất cần thiết cho mai sau] và ngăn chặn bất cứ ai muốn nhẩy vào hợp đồng khai thác với bọn cướp.
3. Việc mở rộng thềm lục địa VN liên đới chặt chẽ với chủ quyền Hoàng Sa Trường Sa; rõ ràng là nếu thềm lục địa VN mở rộng ra 350 lý thì VN đương nhiên làm chủ Hoàng Sa Trường Sa vì khi đó Hoàng Sa Trường Sa nằm gọn trên thềm lục địa VN. Hơn nữa, theo Điều 77 Luật Biển thì đây là chủ quyền tuyệt đối của nước ven biển trong việc thăm dò và khai thác dầu khí.
Một lý do quan trọng khác khiến không nên tách Hoàng Sa, Trường Sa ra khỏi thềm lục địa VN là vì 2 nhóm đảo này không được xem là hải đảo hay quần đảo theo nghĩa của Luật Biển. Theo Luật Biển, hải đảo hay đảo là một giải đất thiên nhiên bao bọc bởi nước và cao hơn mực nước thủy triều. Nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa chỉ có tiểu đảo, không có thường dân cư ngụ và không tự túc về kinh tế nên không được hưởng quy chế hải đảo hay đảo [Điều 121 Luật Biển].
Hoàng Sa Trường Sa cũng không phải là quần đảo theo nghiã Luật Biển vì diện tích quá nhỏ [6 hải lý vuông] trong một vùng biển rộng 180 ngàn hải lý vuông, vì theo Luật Biển [Điều 46 và 47], quần đảo bao gồm các đảo nằm san sát bên nhau và phải có diện tích bằng ít nhất 1-9 vùng biển, như Nam Dương chẳng hạn.
4. Hà Nội lúc nào cũng cho rằng VN có chủ quyền đối với Hoàng Sa Trường Sa nhưng chỉ tuyên bố cho có tuyên bố hay hội thảo um sùm nhưng thực tế thì để cho Trung Cộng chiếm trọn Hoàng Sa và lấn chiếm dần dần Trường Sa. Hoàng Sa Trường Sa là của VN với đầy đủ bằng cớ giá trị về tất cả phương diện lịch sử, địa lý, hành chánh và pháp lý thì ai cũng biết và chắc chắn Trung Cộng cũng biết nên mới phải dùng võ lực lấn chiếm. Nếu không đử sức để bảo vệ khi Hoàng Sa Trường Sa bị xâm lăng, Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý huyết mạch bị xâm lấn và thậm chí ngư dân VN bị bắn giết bừa bãi, tịch thu tàu thyền trong lúc hành nghề hợp pháp trong vùng biển VN, thì chí ít Hà Nội có trách nhiệm phải đưa vấn đề ra trước các cơ quan thẩm quyền phân xử. Nhưng Hà Nội chỉ phản ứng xuông qua loa vì có nhiều dấu hiệu khả tín chứng tỏ đảng CSVN đã dâng Hoàng Sa Trường Sa và phần lớn Vịnh Bắc Việt cho đảng CSTH từ lâu rồi và nay Nguyễn Tấn Dũng nộp hồ sơ cho LHQ để hoàn tất tiến trình bàn giao những gì đã thoả thuận ngầm giữa 2 đảng CS này mà thôi.
Về công pháp quốc tế, sau nhiều thập niên bàn cãi qua nhiều hội nghị quốc tế, Luật Biển LHQ ra đời để giải quyết những tranh chấp xảy ra trên biển nhất là từ khi khám phá ra tiềm năng to lớn về dầu khí và khí đốt dưới đáy biển. Quan niệm biển cả là tài sản chung của nhân loại, Luật Biển dành quyền giải quyết mọi tranh chấp xảy ra trên biển, đặc biệt là vấn đề mở rộng thềm lục địa với những điều khỏan qui định rõ ràng và “chỉ vấn đề nào Luật Biển không đề cập tới mới giải quyết theo tập tục hay qui tắc tổng quát của Công Pháp Quốc Tế.” Do đó, các nguyên tắc như quyền chiếm hữu [occupation] hay công bố minh thị [express proclamation], nếu có được viện dẫn sau này để cho rằng “việc Trung Cộng chiếm cứ Hoàng Sa Trường Sa không có tác dụng tước đoạt chủ quyền lãnh thổ của VN” thiết nghĩ làm sao vô hiệu được quyết định của Ủy Ban Thềm Lục Địa khi Uỷ Ban này căn cứ vào thẩm quyền minh thị bởi Luật Biển LHQ để xác định thềm lục địa hay hải phận VN 200 hải lý tức Hoàng Sa, Trường Sa nằm ngoài hải phận VN- do Hà Nội đã xác định qua hồ sơ nộp LHQ  ?
Hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt 25-12-2000 ?
1. Hà Nội và Bắc Kinh lén lút ký kết hiệp ước phân định lại Vịnh Bắc Việt ngày 25-12-2000 nhưng dấu kín nôi dung, dù dư luận ầm ĩ từ trong nước ra hải ngoại là VN mất trên 11 000 km2 vùng Vịnh Bắc Việt qua hiệp ước này. Khi 1 bản đồ trong hơ sơ mật của Hà Nội bị phát hiện thì mọi ngưới mới hay Hà Nội đã hiến cho Bắc Kinh tới 20 000 km2 Vịnh Bắc Việt, không phải chỉ 11 000 km2.
Trong số 21 điểm qui định trong bản đồ đính kèm hiệp ước 25-12-2000 [dưới đây], ngoại trừ điểm 1 nằm ở vĩ tuyến 21 độ Bắc, tức cửa sông Bắc Luân ở ranh giới tỉnh Móng Caí-VN và tỉnh Quảng Đông-TH, các điểm mốc từ số 2 đến số 21 đều lấn sâu vào bờ biển VN.
Như điểm mốc 17 cách bờ biển VN 44 hải lý và cách Hải Nam 73 hải lý; tức sự phân chia vùng biển không đồng đều như Luật Biển qui định mà phía TH vượt trội phía VN tới 29 hải lý. Theo các nhà nghiên cứu và giới hiểu biết vấn đề thì Hà Nội đã để cho Bắc Kinh lấy bằng hết vùng thủy tra thạch cửa sông Hồng VN, nơi có tiềm năng dầu khí.
2. Trước dư luận lên án đảng CSVN lén lút dâng biển cho đảng CSTH ngày càng dữ dội, ngày 28-1-2002 Lê Công Phụng – Thứ Trưởng Ngoại Giao và Trưởng Ban đàm phán về biên giới và phân định lại Vịnh Bắc Việt, lên tiếng thanh minh thì lại lộ ra chẳng những Đảng CSVN đã bán nước cho Đảng CSTH từ lâu rồi mà chính Phụng cũng dối gạt dân chúng về cả Luật Biển LHQ.
- Theo lời Phụng thì chính TBT Đỗ Mười [năm 1993] và TBT Lê Khả Phiêu [1997] đã sang Bắc Kinh để “thoả thuận các nguyên tắc căn bản về biên giới và lãnh hải” với TBT Giang Trạch Dân. Phụng còn dám dối gạt rằng y đã “căn cứ vào các qui định của Luật Biển LHQ và các nguyên tắc quốc tế và tập quán” trong lúc đàm phán với Bắc Kinh. Sự thực trái ngược hẳn lời Phụng tuyên bố và sau đây là vài thí dụ  :
-Theo Luật Biển LHQ, nếu 2 bên không thỏa thuận được với nhau thì phân chia lãnh hải theo “đường trung tuyến” [median line]. Đường trung tuyến trong trường hợp này là đường giữa đảo Bạch Long Vị của VN và đảo Hải Nam của TH; khoảng cách phải bằng nhau giữa 2 đảo này. Nhưng Phụng đã bất chấp điều luật này và chấp thuận đường phân chia cách Bạch Long Vĩ 15 hải lý và cách Hải Nam 55 hải lý, tức là phiá TH vượt trội phía VN 40 hải lý.
- Luật Biển LHQ cũng qui định đường trung tuyến phải chạy giữa 2 đường bờ biển hay giữa 2 đảo; Phụng đã bất chấp qui định này và chấp thuận đường truong tuyến giữa đảo Hải Nam với bờ biển VN, hy sinh luôn đảo Bạch Long Vĩ của VN.
- Toà Án Quốc Tế, án lệ Lybia vs. Malta [1985], đã phán quyết đảo dù lớn đến đâu cũng không bình đẳng với lục địa được và không cho đảo Malta được có lãnh hải bằng lục địa Lybia. Phụng đảo ngược Án Lệ Lybia khi cho đảo Hải Nam có lãnh hải hơn hẳn lục địa VN.
3. Theo giới am hiểu vấn đề thì cả Hà Nội lẫn Bắc Kinh đều không có một lý do nào để phân định lại Vịnh Bắc Việt. Hiệp ước Constans ký kết tại Bắc Kinh ngày 16-6-1887 giữa đại diện Pháp [đô hộ VN lúc đó] và đại diện nhà Thanh [đô hộ TH] vẫn còn hiệu lực và phù hợp với Luật Biển LHQ mà Hà Nội và Bắc Kinh đều đã ký kết.
- Ngày 12-11-1982, chính Hà Nội đã công bố lãnh hải VN vùng Vịnh Bắc Việt phải theo hiệp ước 16-6-1887, tức 63% diện tích Vịnh Bắc Việt thuộc về VN.
- Bắc Kinh không chịu, buộc Hà Nội phải phân định lại vùng này và đảng CSVN đã cúi đầu khuất phục và lén lút ký hiệp ước 25-12-2000.
- Hậu quả của hiệp ước 25-12-2000 là VN đi từ 63% diện tích cũ xuống còn 53%. Thực tế còn bi đát hơn nữa: Trung Hoa chiếm tới 55% và VN 45% là tối đa, tức VN mất 20% hay khoảng 20 ngàn km2 vùng Vịnh Bắc Việt và quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Cộng qua việc phân định lại Vịnh Bắc Việt. Vì mất mát quá nhiều như thế nên Hà Nội đã dấu kín hiệp ước suốt bao năm qua.
Lời Kết
Với sự tiếp tay đắc lực của đảng CSVN, Bắc Kinh đang từng bước chiếm VN mà không cần phải động binh vừa hao người tốn của lại bị thế giới xúm vào lên án. Sau việc cho nhập cảnh không cần chiếu khán, đảng CSVN đã rước Trung Cộng vào ngồi ngay trên “mái nhà” VN giả danh khai thác bauxite bất chấp sự phản đối quyết liệt của người dân. Nay, lợi dụng việc xin mở rộng Thềm Lục Địa, đảng CSVN mưu toan dâng Trường Sa, Hoàng Sa và Vịnh Bắc Việt tức “nền nhà” VN cho Bắc Kinh qua hai hồ sơ nộp LHQ ngày 6 và 7-5-2009.
Đất nước đã đến bờ vực thẳm ! Bắc Kinh đang chiếm VN bằng “diễn tiến hòa bình” với sự đồng loã công khai của Hà Nội và với đà này thì VN sẽ lâm vào tình trạng Tân Cương và Tây Tạng một ngày không xa. Xin chớ nghĩ rằng VN từng bị ngàn năm Bắc-thuộc mà vẫn vùng lên giáng cho quân xâm lược những đòn chí tử vì kẻ thù ngày nay thâm độc và tàn ác gấp ngàn lần; nhìn gương Tây Tạng và Tân Cương thì rõ. Và cũng đừng ngây thơ mà trông chờ, tin tưởng vào bất cứ ai vì chén đắng 30-4-1975 còn nguyên trước mặt.
Ngoại xâm đang ngang nhiên cấu kết với nội xâm và tăng tốc để thực hiện những bước cuối cùng chiếm trọn VN. Nếu đồng bào quốc nội không mau tỉnh giấc để nhận ra tình huống vô cùng nguy hiểm của chính mình, người thân và dân tộc mà can đảm nhất loạt đứng lên thì rồi đây sẽ rơi vào số phận đáng thương người Tây Tạng và Tân Cương ! Nếu đồng hương hải ngoại không gạt bỏ tị hiềm phe phái, vô tình hay cố ý lôi kéo mọi người vào những việc làm trình diễn hay chưa cần thiết và ngoảnh mặt làm ngơ trước tình thế cực kỳ mong manh của đất nước và dân tộc hiện nay thì sẽ phải trả giá với lương tâm và với lịch sử một ngày không xa !
Ls Nguyễn Thành -12-9-2010
Tài liệu tham khảo  :
- United Nations Convention on the Law of the Sea of 10 December 1982;
- Vũ Hữu San, Địa Lý Biển Đông với Hoàng Sa Trường Sa, 1995, 2007;
- Nguyễn Thành, Đưa Việt Cộng ra trước LHQ, Toà Án các Quốc Gia và Toà Án Hình Sự Quốc Tế 2002 ?, tạp chí Tiếng Vang, Sacramento, Hoa Kỳ, số tháng 5 và tháng 6-2002.
- Nguyễn Hữu Thống, Vấn đề Hoàng Sa Trường Sa theo Công Pháp Quốc Tế, 2008.
Chú thích  : =
[1] “On its position over the islands, China has been most reluctant to sujects the disputes to international legal arbitration : The case of South China Sea Islands by Chi-Kin Lo, 1989”.
[2] Tại hội nghị chuyên đề về Biển Đông ở Hà Nội ngày 10-11-2009, Vụ-trưởng Ban Biên Biới Bộ Ngoại Giao Hà Nội Nguyễn Duy Chiến nói với báo chí : “VN là nước ven biển nên đã nộp báo cáo cho Uỷ Ban Phân Ranh Thềm Lục Địa để bảo vệ quyền của VN đối với thềm lục địa ngoài 200 hải lý.” [Vietnamnet, 10--11-2009]
[3] Statement of Commision CLCS-64
[4] Joint Submission by Malaysia & Viet Nam in the South part of the South China Sea [May 6, 2009]
[5] Điều 76 Luật Biển LHQ : “An Exclusive Economic Zone extends for 200 nautical miles [370km] beyond the baselines of the territorial sea, thus it includes the territorial sea and its contiguous zone. A coastal nation has control of all economic resources within its EEZ, including fishing, mining, oil exploration, and any pollution of those resources. However, it can’t regulate or prohibit passage or loitering above, on, or under the surface of the sea, whether innocent or belligerent, withinthat portion of its EEZ beyond its territorial sea.”
[6] Điều 77 Luật Biển LHQ : “The continental shelf of a coast al nation extends out to the outer edge of the continental margin but at least 200 nautical miles from the baselines of the territorial sea margin does not stretch that far. The outer limit of a country’s continental shelf shall not stretch beyond 350 nautical miles of the baseline, or beyond 100 miles nautical miles from the 2,500 meter isobath.”
[7] Submission by Viet Nam in the Nrth Area [May 7, 2009]
[8] Vũ Dũng, thứ-trưởng ngoại giao Hà Nội, tuyên bố với báo chí đầu năm 2008 đã bị chính cựu Đại tá CS Bùi Tín cho là dối trá và thách đối chất như sau : “Do nắm chắc tình hình…mà tôi [Bùi Tín] muốn hỏi ông Vũ Dũng là theo ông có thật là ta không mất đất ở vùng Hà Giang, Lào Kay, Hoàng Liên Sơn không ? Theo tôi, các đoàn đàm phán của ta từ 1996 đến 1999 đã tỏ ra rất mềm yếu. Nhiều giải núi ở Tây Bắc thưa dân, giầu tài nguyên, có gía trị quân sự bị lấn chiếm. Con số 700 đến 800 km2 bị mất không phải là bịa đặt. Thực tế có thể hơn… Giang Trạch Dân luôn thúc dục Lê Khả Phiêu phải thương lượng nhanh, phải ký hiệp ước trên bộ trong năm 1999 và trên biển trong năm 2000. Có ai đi thương lượng lại chịu ép trước về thời gian đến thế ? Cho nên rất dễ hiểu là các nhà đàm phán VN đều nhũn như con chi chi. Chính Đỗ Mười cũng tố cáo Lê Khả Phiêu là nhượng bộ quá, “để mất quá nhiều” cho Trung-quốc… Hai bên đã thỏa thuận tháng 6-2008 này sẽ hoàn tất việc phân giới, cắm mốc và ký nghị định thư về biên giới trên bộ… Lúc ấy muốn che dấu, úp mở cũng không được nữa. Phía Bắc Kinh sẽ nhanh nhẩu phổ biến tập bản đồ mới để khoe thắng lợi, vì họ thắng đậm… Lúc ấy, các ông Vũ Dũng, Lê Dũng, Lê Công Phụng, rồi các ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Di Niên, đến ông Lê Khả Phiêu và 4 ông tứ trụ Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng sẽ có đầy đủ chứng cớ minh bạch là đã bảo vệ biên giới bất khả xâm phạm của Tổ-quốc ra sao, hay sẽ đực mặt bán đất bán nước ra sao !” [Vietbao, 4-9-2008]
[9] Toà Án Quốc Tế ad hoc Bosnia truy tố Slobodan Milosovic [Tổng thống Liên Bang Nam Tư], Thẩm Phán Tây Ban Nha Baltasar Gapzon ký trát nã bắt quốc tế bắt giam Augusto Pinochet [cựu tổng thống Chile] ở London ngày 16-10-1998 và yêu cầu được thẩm vấn Henry Kissinger [cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ] khi Kiss đến London diễn thuyết năm 2002, cả ba đều bị truy tố về “tội lạm quyền” cùng với nhiều tội ác nghiêm trọng khác. [Nguyễn Văn Thành, “Vụ án Pinochet làm rung chuyển công pháp quốc tế”, VN Nhật Báo, San Jose, 5-8-2000].