1/3/11

Lòng thành của bà lão hành khất và đảng phí

Ở quê, từ nhỏ tôi được những người lớn kể cho nghe một câu chuyện răn đời, như là có thật, xảy ra ở chính vùng quê đó, về sự trân trọng tầm lòng thành, rằng ngay cả đối với quỉ thần trời Phật, tấm lòng thành quí hơn nhiều so với lễ vật to tát cao sang. Chuyện kể rằng tại một ngôi chùa quê nọ, sau khi hoàn tất việc xây dựng, mọi người góp tiền của để mua đồng, mướn thợ về đức tượng Phật. Mỗi nhà phong kiệm khác nhau cùng góp theo hảo tâm; nhiều phú gia có khoản góp lớn. Một bà lão hành khất đi qua, thấy vậy ném vào nồi đồng sôi một đồng bạc. Khi đổ tượng, đồng bạc đó không tan chảy đi mà nằm ngay trước trái tim Phật. Người ta cho đấy là Phật giữ lấy vì tấm lòng thành thuần khiết của bà lão vô danh.
Tác giả chuyện khuyết danh có thể được nhiều người đóng vai. Nếu đó là sự chia sẻ của tất cả mọi người, lòng thành là giá trị phổ quát và tuyết đối. Nếu vai kể chuyện là những người nghèo, ngụ ý kể chuyện như là một kiểu tự vệ, tư an ủi vế sự đóng góp ít của mình trước các bậc phú gia kia. Thôi thì sao cũng được; truyện kể như một phần ký ức tuổi thơ, trầm trầm trong một vùng quê nghèo sương khói gió mưa thời trẻ lịm vào cả một đời thương hải biến vi tang điền sau này.
Ấy là tôi nghĩ về việc đóng đảng phí hiện nay của đảng viên Đảng CSVN. Theo qui định mới nhất từ tháng 12/2010, mức đảng phí được phân chia làm nhiều cấp loại theo điều kiện thu nhập của người đóng. Theo đó, đảng viên là công chức viên chức đang làm việc, hưởng lương từ ngân sách sẽ đóng 1% từ lương và các khoản phụ cấp; đảng viên hưởng lương bảo hiểm xã hội đóng 0,5% từ lương; đảng viên trong các doanh nghiệp đóng 1% từ tổng thu nhập trước thuế thu nhập; đảng viên nông dân, thất nghiệp… đóng từ 5000 đồng đến 30.000 đồng; đảng viên khó khăn có thể xét miễn giảm.
Như vậy giá trị tuyệt đối của từng mức đảng phí sẽ rất khác nhau; thấp nhất là 0 đồng (do miễn) và cao nhất là vô hạn vì hiện nay có những đảng viên cộng sản là chủ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá và sắp đến là chủ các doanh nghiệp tư nhân có mức thu nhập hàng tháng rất cao, đến hàng trăm triệu. Đến cuối năm, các đảng viên này lại còn tự thưởng cho mình hàng trăm triệu nữa. Như vậy là trong một đảng cộng sản, theo phạm vi rộng, và ngay trong một doanh nghiệp, có cả mức đóng góp từ 0 đồng cho đến hàng triệu đồng. Đó là chưa nói đến một éo le khác là những đảng viên có thu nhập hàng trăm triệu đồng đó có thể thuê những đảng viên khác làm ôsin giúp việc trong nhà mình.
Tôi không biết những đảng viên có mức đóng đảng phí thấp có yên tâm, giữ vững ý chí chiến đấu và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của mình với tình cảnh chênh lệch về sự đóng góp đó không, hoặc có giải thích mức đóng đó bằng giá trị lòng thành như trong câu chuyện kể trên không. Chắc là khó, vì như đã có lần một vị lãnh đạo đảng cao nhất đã nói rằng đảng viên mà không biết làm giàu để làm gương là có tội; dĩ nhiên cách làm giàu được gắn vào cái đuôi chính đáng, song mấy chục năm nay chưa ai xác định sự chính đáng đó là gì và vị lãnh đạo đó cũng không biết được một chân lý của lịch sử người rằng mọi sự giàu lên trong một xã hội nghèo đều có bản chất không chính đáng, thậm chí có người còn gọi là ăn cắp.
Riêng tôi thì xin được nói thật là chẳng yên tâm chút nào. Sau gần nửa thế kỷ tính từ ngày cách mạng chuyển hướng sang mục tiêu giai cấp, công hữu hoá mọi tài sản, tước đoạt quyền tư hữu hàng nghìn năm của nhân dân, tốn rất nhiều xương máu, tiền của đất nước, để tìm đường đến một xã hội được giả định là không giai cấp, bình đẳng, hết phân biệt giàu nghèo, ra đường thấy đồng tiền rơi không nhặt làm gì… để đến bây giờ, về lý luận thì vừa đi vừa tìm đường, về thực tế thì ngay mức đảng phí, một nghĩa vụ có tính cộng sản rất cao, cũng khác nhau. Tôi, cho rằng là một đảng viên có mức đóng thấp, thấy rõ rằng, những đồng chí có thu nhập cao của tôi, là những người đang rất có quyền, và có nhiều tiền để có thể cho con cái của họ học tập đến nơi bằng chính đôi chân của những cô chiêu cậu ấm ấy, thậm chí đi học ở các nước tư bản giẫy chết, để rồi khi trở về, họ có toàn quyền và thế để kế cận sự nghiệp cách mạng cha anh họ, đưa đất nước tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Tôi tin điều đó từ kết quả của đại hội đảng lần thứ XI vừa qua.
Còn con cái chúng tôi thì chắc không lấy gì vinh dự với tấm lòng thành cỏn con của bố mẹ trong mức đảng phí hàng tháng, và vì hoàn cảnh, chúng cũng chỉ biết tìm một cái chùa, không phải để trải tấm lòng thành truyền thống, mà là để quét lá đa. Một vạn năm nữa – tức là muôn năm, dẫu đất nước có thành chủ nghĩa xã hội, chắc chắn của cải và thành trì quyền lực luỹ kế kia của các đồng chí lãnh đạo của tôi sẽ không bị ai tước bỏ được, và bản thân các vị ấy cũng không sẵn lòng nộp lại cho nhân dân.
Lệ Dân

Từ Cách mạng Khoa học Công nghệ đến Cách mạng Nhân quyền

I. Từ Cách mạng Công nghệ

Tính đến nay, chỉ mới 24 năm kể từ ngày hệ thống điều hành máy vi tính cá nhân Windows của công ty Microsoft chào đời năm 1986, nhưng cuộc cách mạng công nghệ vi tính đã làm thay đổi diện mạo cả thế giới này (1). Trong những năm cuối của thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, máy vi tính cá nhân vẫn là những thứ xa xỉ với người dân trong xã hội – kể cả ở các quốc gia phát triển. Vào thời điểm đó, máy vi tính chỉ dùng trong công việc nghiên cứu khoa học, giảng dạy, hay các ngành sản xuất công nghệ cao bởi vì giá thành máy vi tính ở vào thời điểm đó quá cao cũng như phần mềm áp dụng (application software) không có nhiều.
Vào những năm đầu thập niên 80 ở thế kỷ XX, máy vi tính cá nhân rất thô, cồng kềnh, và những cơ phận bên trong như bảng mạch chủ (motherboard), bộ xử lý trung tâm (central processing unit – CPU), bộ nhớ (Random-access memory – RAM), ổ cứng (hard disk drive – HDD) còn rất hạn chế về dung lượng, tốc độ xử lý, và cũng như chất lượng. Năm 1984, công ty IBM sản xuất ra loại máy vi tính cá nhân hiệu AT với bộ xử lý vi mạch do công ty Intel chế tạo là chip “Intel 80286 microprocessor” với tần số chỉ có 6MHz (2). 9 năm sau, vào năm 1993, công ty Intel – một công ty chuyên sản xuất CPU cho máy vi tính cá nhân hàng đầu thế giới đã trình làng với bộ xử lý vi mạch mới mang tên Pentium với tần số lên đến 60MHz – nghĩa là gấp 10 lần của bộ vi mạch xử lý năm 1984 và từ đây đã mở ra một kỷ nguyên mới trong ngành công nghệ vi tính và công nghệ thông tin (3).
paul_and_bill.jpgPaul Allen và Bill Gates – ngày 19 tháng 10 năm 1981
Ngày nay, dung lượng và tốc độ xử lý của những cơ phận chính để lắp ráp máy vi tính cá nhân (gồm cả máy để bàn và máy xách tay) như bộ mạch chủ, bộ vi mạch xử lý, bộ nhớ, và ổ cứng được tính bằng đơn vị GB (tỉ) chứ không phải là kB (ngàn) hay MB (triệu) như vào thời điểm cách đây hai thập kỷ. Chất lượng của máy vi tính cũng được nâng cao do sự cạnh tranh khốc liệt để chiếm lĩnh thị trường giữa các công ty sản xuất máy vi tính hàng đầu thế giới như Dell, HP, Sony… và nhiều công ty khác.
Ngoài ra, giá thành của máy vi tính cũng tương đối dễ chịu với người tiêu dùng trong khoảng thời gian 10-15 năm trở lại đây. Bởi thế, ngày nay chúng ta có thể thấy máy vi tính cá nhân hiện hữu khắp mọi nơi và có thể nói là thứ không thể thiếu trong đời sống con người. Cộng với sự phát triển ở một tốc độ chóng mặt trong ngành chế tạo vi mạch điện tử, ngày nay máy vi tính nhìn nhỏ gọn, đẹp, và đầy đủ các phần mềm áp dụng nên sự hữu ích của máy vi tính đối với đời sống con người tăng lên gấp bội.
Ngoài những thành công mang tính chiến lược của những công ty chế tạo chip hàng đầu thế giới như Intel và AMD trong khoảng thời gian 1990 – 2000 đã đưa ngành công nghiệp sản xuất máy vi tính sang một kỷ nguyên mới. Sự ra đời của internet (mạng) được chào đời năm 1995 để kết nối các máy vi tính với nhau đã làm thay đổi hoàn toàn đời sống thường nhật của con người trên trái đất này. Theo chân của phát minh internet, những công ty như yahoo, google, ebay, và amazon… đã ra đời đã khiến trái đất này trở thành quá nhỏ bé đối với con người – cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Ngày nay, bạn có thể sống ở Mỹ và mua một món hàng ở tận bên Nga mà chỉ tốn chừng vài phút. Với sự hỗ trợ của google, bạn có thể tìm hiểu lịch sử của người Inca ở Nam Mỹ mà không cần phải rời một ngôi làng nhỏ bé nào đó tại Việt Nam. Ngồi ở một quán cà phê – internet ở Hà Nội, bạn có thể đọc những tài liệu viết về những người đã sống cách đây nhiều thế kỷ và ở khắp cả 5 châu chứ không giới hạn ở một nơi nào. Chỉ cần vài phút, bạn có thể phát hiện căn bệnh “tự sướng” của tay phóng viên XYZ thuộc tờ báo nào đó trong nước mà không cần đi Mỹ, hay đi Đức để tìm bằng chứng. Chỉ một cái nhấn của con chuột, bạn có thể gởi thư cho người quen, hay bạn bè sống mãi tận bên Nga mà không phải tốn tiền tem hay thời gian đi ra bưu điện – và tất nhiên là lá thư của bạn sẽ đến tay người nhận trong vòng dăm bảy phút.
Trên đây chỉ là một vài minh chứng sự ảnh hưởng của Khoa học Công nghệ đến đời sống của con người ở thế kỷ XXI này. Vâng. Không có gì là quá đáng nếu nói rằng cuộc cách mạng Khoa học Công nghệ đã làm thay đổi đời sống của chúng ta – không từ một ai và đang sống ở đâu trên trái đất. Nhưng chưa hết, cuộc cách mạng Khoa học Công nghệ tạo ra một cuộc cách mạng khác và cuộc cách mạng mới này cũng làm thay đổi diện mạo cả thế giới này. Đó là cuộc cách mạng Nhân Quyền.

II. Đến Cách mạng Nhân Quyền.

Sau khi chiến tranh Thế giới thứ II kết thúc, cơ quan Liên Hiệp Quốc – United Nations đã ra đời vào năm 1945. Tôn chỉ tối thượng của cơ quan Liên Hợp Quốc là để giúp các quốc gia trên thế giới xích lại gần nhau thông qua những điều luật chung của Quốc tế, để giải quyết những xung đột giữa các quốc gia có thể dẫn đến đe dọa nền An ninh của Thế giới, để giúp phát triển Kinh tế ở những quốc gia còn lạc hậu, để giúp đỡ các vấn đề Xã hội, Nhân quyền, và tạo ra nền Hòa bình chung cho cả Thế giới (4).
Ngày 12 tháng 10 năm 1948, Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã được Liên Hiệp Quốc được phê chuẩn hòng bảo đảm mọi công dân trên trái đất này có được cuộc sống tốt đẹp hơn – không cần biết người đó sống ở tại đâu, mang quốc tịch nước nào, hay theo tín ngưỡng tôn giáo nào. Có thể nói, Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã được Liên Hiệp Quốc được phê chuẩn vào ngày 12 tháng 10 năm 1948 là một trong những văn kiện quan trọng nhất của thế kỷ XX vì nó là nền tảng để xây dựng xã hội mà không có sự phân biệt giữa người và người trong xã hội –hay bị xã hội ruồng bỏ bởi giới tính hay tín ngưỡng.
Trong khoảng thời gian chiến tranh thế giới thứ II xảy ra và kết thúc, nhiều quốc gia thuộc địa ở châu Phi, châu Á, và châu Mỹ đứng lên làm cuộc cách mạng giành độc lập. Những cuộc cách mạng giành độc lập của các nước thuộc địa đã hạ huyệt chủ nghĩa thực dân và đem Tự Do và Dân Chủ đến cho người dân ở những quốc gia thuộc địa.
Điều đáng buồn là ở tại một số quốc gia ở trên thế giới, chế độ bù nhìn và chế độ phong kiến được thay thế bởi những chế độ độc tài. Do đó, người dân ở những xứ sở này năm xưa bị áp bức bị bóc lột bởi chủ nghĩa thực dân thì giờ đây lại bị áp bức cũng như bị bóc lột bởi người mà chính họ đã đổ xương máu để gầy dựng nên. Và tất nhiên, năm xưa khi còn chế độ thực dân thì người dân ở những quốc gia này có thể đứng lên đánh đuổi bởi tinh thần Dân tộc cũng như có một lý do chính đáng. Nhưng lúc này thì không. Bởi người cai trị của họ hôm nay chính là “phe ta” chứ không phải là “phe địch”!
Điểm thường thấy ở những chế độ độc tài là thường dùng những chiêu “thắt bao tử, nhà tù, khủng bố, không cho tự do ngôn luận và tự do báo chí, bưng bít, ngu dân, và mị dân”! Một khi “bao tử” đói quá thì con người phải đi bằng hai cái đầu gối của mình. Một khi “nhà tù” luôn rộng mở thì mọi người trong xã hội đều sợ hãi hay làm sờn lòng những người trung nghĩa. Một khi bị “khủng bố” thì tinh thần của con người sẽ xuống thấp bởi sợ hãi. Một khi cấm tiệt “tự do ngôn luận và tự do báo chí” thì người dân sẽ không được chỉ trích, phản đối nhà cầm quyền trước những vấn nạn tham nhũng, hay bị cướp đất cướp tài sản. Tệ hơn, những ai dám phản đối, dám chỉ trích có thể bị nhà quyền bỏ tù mà không cần xét xử. Một khi bị “bưng bít” thì người dân trong xã hội không biết những điều gì đã xảy ra bên ngoài. Một khi bị “mị dân” thì những người dân đen –vốn chiếm số nhiều trong xã hội sẽ dễ tin tưởng vào những điều hoang tưởng, sẽ dễ tin tưởng vào những cái bánh vẽ nơi thiên đường hạ giới. Một khi bị “ngu dân” thì đám dân đen trong xã hội sẽ không đủ trí khôn, không đủ sáng suốt để phân biệt đâu là thực, đâu là hư. Từ đó, chỉ cắm cúi đi theo cái lề đường đã có sẵn.
Từ những điều đã trình bày trên đây, không quá khó khăn để nhận ra những chế độ độc tài luôn bị “dị ứng” với Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã được Liên Hiệp Quốc được phê chuẩn vào ngày 12 tháng 10 năm 1948. Bởi lẽ, những chế độ độc tài đã chà đạp một cách thô bạo lên Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền để tước đi những quyền được sống thiêng liêng của một con người.
Tính đến nay thì các chế độ độc tài trên thế giới đã tồn tại một thời gian hơn nửa thế kỷ. Điều này đồng nghĩa với nhiều thế hệ của các quốc gia đang bị cai trị bởi bọn độc tài đã bị ngu dân, bị tù đày, bị khủng bố, bị bưng bít. Và tất nhiên một khi nhiều thế hệ bị đọa đày bởi những điều trên thì những quốc gia đó sẽ bị tụt hậu so với những quốc gia láng giềng đi theo con đường Tự Do – Dân Chủ – Pháp Quyền. Người dân tại những quốc gia được cai trị bởi các chế độ độc tài thường rất nghèo bởi sự bóc lột từ cả một hệ thống, một bộ máy cai trị. Bởi thế, người dân tại những quốc gia này phải luôn sống trong lầm than đói khổ. Trong khi đó, những người cai trị thì rất giàu do tham nhũng (6).
Dù là độc tài ở châu Phi, châu Á, hay châu Mỹ, và dù là thể chế độc tài 1 người hay là thể chế độc tài tập thể –nhưng các chế độ độc tài thường có một luận điệu luôn rất giống nhau khi nói đến Nhân quyền. Đó là gọi “Nhân quyền phương Tây” để đánh lận con đen, để ám chỉ Nhân quyền này là sản phẩm của Âu Mỹ chứ không phải là Nhân quyền đã được nêu ra trong Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc. Như vậy, sẽ không còn tính chính danh khi nói đến Nhân quyền. Tiếp đến là kể lể công lao trong công cuộc đấu tranh giành độc lập trước đây. Kể lể kinh tế đi lên, người dân có cơm ăn áo mặc cũng là những điệp khúc thường thấy ở dưới những chế độ độc tài. Kế đến là điệp khúc “dân trí mỗi nơi mỗi khác” nên chưa thể áp dụng Nhân quyền Âu Mỹ… vân vân và vân vân.
Điều khiến chúng tôi buồn cười là, khi nói đến Nhân quyền thì các chế độ độc tài chối đay đẩy những gì đến từ phương Tây. Nhưng khi có ai nói đến tham nhũng thì các quan lại trong những chế độ độc tài thường hay đáp lại rằng “tham nhũng ở đâu cũng có”! Khi ai đó bàn về hiệu quả “gói kích cầu” thì “ờ ờ, ở chính phủ Mỹ cũng đưa ra gói kích cầu”! Khi nói đến nhân quyền thì các chế độ độc tài thường viện dẫn “mỗi nơi mỗi khác”! Thế nhưng khi nói đến tăng học phí, hay tăng giá vật giá thì các chế độ độc tài thường đưa ra “giá cả thị trường, giá điện, xăng dầu của chúng ta vẫn rẻ hơn Lào đó thôi”! Bộ máy tuyên truyền dưới các chế độ độc tài thì “chúng ta là vô địch từ giáo dục, y tế… vân vân” . Nhưng con cái của các “gộc” thì đều tốt nghiệp đại học, thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài!
Những tưởng các chế độc độc tài có thể tiếp tục ngồi mát ăn bát vàng bởi chính sách “thắt bao tử, nhà tù, khủng bố, không cho tự do ngôn luận và tự do báo chí, bưng bít, ngu dân, và mị dân”! Nhưng quả là ông trời đã không dung cho kẻ ác. Cuộc cách mạng Khoa học Công nghệ đã khiến người dân vượt qua được bức tường bưng bít do các chế độ độc tài dựng lên để ngu dân. Người dân sống dưới các chế độ độc tài hôm nay có thể biết được người dân ở xứ văn minh, dân chủ có cuộc sống tốt đẹp như thế nào. Chỉ với một cái nhấp con chuột, người dân có thể biết được những chuyện xảy ra cách xa họ cả ngàn cây số. Qua trang mạng xã hội facebook, những người thanh niên chưa từng biết mặt, chưa từng gặp gỡ nhưng có thể kết bạn và trao đổi những chuyện đang xảy ra quanh họ. Qua điện thoại di động, người dân có thể liên lạc với nhàu mà không cần ra khỏi nhà. Qua email, người dân có thể gởi cho nhau những lời kêu gọi đồng hành mà không cần tốn một giọt mực hay một tờ giấy trắng. Do đó, các chế độ độc tài thường siết chặt internet cũng là điều thường thấy ở những quốc gia được cai trị bởi các chế độ độc tài.
Ngoài ra, ru ngủ bằng kinh tế cũng là cách các chế độ độc tài thường làm. Trong tuần này, nhà vua của Arab Saudis cố gắng xoa dịu người dân bằng cách chi ra 38 tỉ đô la để lo nhà cửa, công ăn việc làm cho người nghèo (7). Thế nhưng, liệu đây có phải là hành động khôn ngoan, là chính sách đúng đắn?
Xin thưa là không. Bởi lẽ, người làm vua của một nước cũng là một con người và người dân thường cũng là một con người. Dẫu cho các chính quyền độc tài có lo cho người dân đầy đủ nhà cửa, cơm no, áo ấm nhưng không cho phép họ được Tự Do trong suy nghĩ –được Dân Chủ trong lời nói. Bảo họ đi đông thì họ đi đông, bảo họ đi tây thì họ đi tây thì thử hỏi họ có còn là Con Người nữa hay không? Hay chỉ là một đàn chim trong lồng kín – được ăn no, phải hót theo ý chủ, nhưng cả đời sẽ mãi không được sãi cánh để bay bổng trong bầu trời. Vậy thì có gì khác người dân ở những xứ này đang bị cầm tù! Vậy có khác gì người dân đang ở những xứ này là một bầy cừu! Đàn gà công nghiệp đang ở trong trại nuôi gà luôn được ăn no, ngủ ấm nhưng chúng mãi là một lũ gà để người ta làm thịt. Bởi thế, ăn no mặc ấm tuy rất quan trọng đối với nhân loại nhưng sự Tự Do Ngôn Luận và Tự Do Tri Thức cũng quan trọng không kém.
Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã được mở đầu như sau:
[Xét rằng: Sự công nhận nhân phẩm của tất cả con người trong đại gia đình nhân loại và những quyền bình đẳng không thể tước đoạt của họ là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.
Xét rằng: Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Việc tiến đến một thế giới trong đó tất cả mọi người được hưởng sự tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, không còn lo sợ hãi và nghèo khó, phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người.
Xét rằng: Nhân Quyền cần phải được bảo vệ bằng luật pháp, để con người không bị bắt buộc phải sử dụng đến biện pháp cuối cùng là vùng dậy chống lại độc tài và áp bức.
Xét rằng: Mối quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia cần được khuyến khích và mở rộng.
Xét rằng: Trong Hiến Chương, các dân tộc của cộng đồng Liên Hiệp Quốc đã lại một lần nữa xác định niềm tin vào những quyền căn bản của con người, vào nhân phẩm và giá trị con người, vào quyền bình đẳng nam nữ và cũng đã quyết định cổ vũ cho các tiến bộ xã hội và cải tiến mức nhân sinh trong bối cảnh ngày càng tự do hơn.
Xét rằng: Các quốc gia hội viên đã cam kết hợp tác với Liên Hiệp Quốc, nhằm cổ vũ việc tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do căn bản.
Xét rằng: Sự hiểu biết chung về nhân quyền và tự do là điều tối quan trọng để có thể thực hiện đầy đủ sự cam kết trên…]
Do đó, người dân đang sống dưới những chế độ độc tài có quyền đòi hỏi những quyền sống căn bản mà đã được Liên Hiệp Quốc công nhận là một điều hết sức chính đáng. Chỉ trong vòng hai tháng mà hai chế độ độc tài đã cắm rễ 21 năm ở Tunisia và 31 năm ở Ai Cập đã bị người dân hai nước này đưa lên giàn hỏa. Và cuộc Cách mạng Nhân quyền cao cả này đang lan tỏa đến nhiều quốc gia khác. Và tất nhiên, với những chế độ độc tài chưa bị “hỏa táng” bởi tham quyền cố vị như Gadhafi của Libya chắc chắn sẽ không có một kết cục tốt đẹp là điều đương nhiên.

III. Thay cho lời kết

Các cuộc Cách mạng đều luôn đem lại những bài học quý báu cho nhân loại. Do đó, cuộc cách mạng Khoa học Công nghệ và cuộc cách mạng Nhân quyền hiện đang diễn ra cũng không là ngoại lệ. Trước khi Microsoft chào đời, IBM là một công ty danh tiếng không có đối thủ. Mải say mê trên hào quan chiến thắng của mình, IBM vẫn giữ lối tư duy cũ kỹ trong chiến lược phát triển, kinh doanh công nghệ nhu liệu của mình. Ra đời từ năm 1986, chỉ chưa đầy 10, Micrsoft của Bill Gates đã đánh bật người khổng lồ IBM ra khỏi lãnh vực nhu liệu một cách ngoạn mục.
Mải say mê với những con số tăng trưởng GDP mà ông cựu Tổng thống Mubarak của Ai Cập đã chắc mẩm người dân nước mình hài lòng với cuộc sống hiện tại.
ai_cap.jpg Tăng trưởng kinh tế của Ai Cập (9)
Nhưng ông Mubarak đã lầm to. Và từ cái sai lầm tai hại này mà chỉ trong vòng 18 ngày đã khiến trang sử 31 năm cầm quyền độc tài của ông Mubarak trở thành quá khứ. Nhưng có lẽ cũng khó trách ông Mubarak đã mắc phải sai lầm này. Bởi lẽ, ông ta sở hữu một tài sản khổng lồ khoảng chừng từ 40 -70 tỉ đô la. Do đó, ông Mubarak không thể hiểu được, thấy được, cũng như biết được đời sống cơ cực của người dân nghèo Ai Cập là điều dễ hiểu.
Ngoài ra, là người luôn tự cho mình là một tổng thống vĩ đại, do dân, vì dân để ông Mubarak có thể ung dung ngồi trên cái ghế quyền lực của mình thì dĩ nhiên là ông Mubarak luôn nghĩ rằng đời sống của người dân Ai Cập luôn tốt đẹp là điều đương nhiên. Mà có lẽ, không chỉ một mình đồng chí “Mu” đang mắc căn bệnh “cỡi ngựa xem hoa và tự sướng” này. Những đồng chí “Mu” khác ở những xứ sở khác cũng có chung căn bệnh này. Có thế, họ mới không cảm thấy xấu hổ khi nói rằng “người dân không có nhu cầu sung sướng”! Có thế, họ mới không cảm thấy xấu hổ khi rao giảng những điều tốt đẹp trên ở trên Thiên đàng với những người dân cùng khổ đang sống trong địa ngục do họ cai quản.
Bài học ngủ quên trên hào quang chiến thắng của IBM năm nào, và bài học những con số tăng trưởng GDP sơ cứng của Ai Cập hôm nay cho thấy sự quan trọng của Tri thức. Nhất là trong thời đại toàn cầu hóa này. Chỉ có Tri thức mới có thể đưa một quốc gia hưng thịnh. Chỉ có Tri thức mới có thể khiến cho Nhà nước vững mạnh. Ngược lại, chà đạp Nhân quyền hay cai trị đất nước bằng chính sách ngu dân thì sẽ đi vào con đường thất bại là điều không thể tránh khỏi. Mà muốn cai trị bằng Tri thức và tôn trọng Nhân quyền thì phải có một Nhà nước Pháp quyền và một Xã hội Dân chủ – đó là con đường duy nhất.
N.T

RÙA HỒ GƯƠM VÀ MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI

àHỘI

Phạm Đình Trọng
Theo BBCVietnamese
Cả xã hội đồng lòng gọi rùa Hồ Gươm là Cụ không phải chỉ vì rùa Hồ Gươm tuổi cao đáng bậc Cụ. Nếu chỉ nhiều tuổi, người ta có thể gọi rùa già Hồ Gươm là đã thỏa đáng. Đồng lòng gọi Cụ Rùa là cả xã hội đã không coi rùa Hồ Gươm thuộc thế giới động vật nữa mà đã coi rùa Hồ Gươm thuộc thế giới thần linh, là hiện thân của thế giới thần linh. Chính vì thế việc cứu chữa cho Cụ Rùa Hồ Gươm đang bị đau yếu mới trở thành sự kiện lớn của quốc dân, của tâm linh, của lòng người và của cả chính trị nữa.
Chỉ là động vật thì rùa này chết đi sẽ thả rùa khác vào thay. Như ông giám đốc, công chủ tịch, ông bí thư này nghỉ sẽ có ngay ông khác thay, có gì quan trọng đâu! Có khi chưa có cớ gì phải nghỉ, nhiệm kì còn dài, sức khỏe còn dai, công việc đang ngon trớn, nhưng đã có nhiều ông khác lăm le muốn thay rồi! Với thế giới trần tục đó, rùa già Hồ Gươm đang bệnh tật có mệnh hệ gì, cũng chẳng cần thả rùa khác vào thay vì trong hồ đã có sẵn hàng ngàn rùa tai đỏ nhập khẩu từ nước ngoài về sẽ thay thế rùa bản địa già yếu! Học thuyết cách mạng vô sản, chủ nghĩa Mác Lê nin được nhập khẩu từ nước ngoài về đang thống trị đất nước này thì rùa tai đỏ nhập khẩu từ nước ngoài về thống trị Hồ Gươm, đâu có sao! Kẻ bất lương còn mong rùa tai đỏ thống trị Hồ Gươm để Hồ Gươm có nhiều rùa cho họ câu trộm!
Nhưng Cụ Rùa Hồ Gươm đang đau yếu lại là Rùa lịch sử, Rùa truyền thuyết, Rùa thần linh. Vì thế phải cứu chữa cho Cụ như cứu ngôi đền thiêng trong đám cháy! Cũng may là Rùa lịch sử, Rùa truyền thuyết, Rùa thần linh Hồ Gươm lại hiển hiện trong thân xác vật thể rùa sinh vật nhìn thấy được. Nhờ thế chúng ta mới biết Rùa thần linh Hồ Gươm phải sống trong rốn đọng rác rưởi, nhơ nhớp của một môi trường tự nhiên và cả môi trường xã hội đầy ô nhiễm làm cho sức khỏe Rùa thần linh Hồ Gươm giảm sút nghiêm trọng, đe dọa đến tính mạng, cần cứu chữa khẩn cấp!
Các nhà khoa học thống kê cho thấy tầm vóc thể xác của con người Việt Nam đang ngày càng to lớn hơn. Con số trẻ em béo phì đang ngày càng nhiều cũng là một thông số về tầm vóc thể xác đang tăng tiến của người Việt Nam.
Sự đau yếu bệnh hoạn của con người xã hội Việt Nam hôm nay còn trầm trọng hơn cả sự đau yếu bệnh hoạn ở thân xác Cụ Rùa thần linh Hồ Gươm!
Nhưng nhìn vào đời sống xã hội thì thấy rõ nguy cơ của đất nước, của dân tộc trước sự nhỏ bé thảm hại và sự đau yếu bệnh hoạn về con người xã hội của người Việt Nam hôm nay. Sự đau yếu bệnh hoạn của con người xã hội Việt Nam hôm nay còn trầm trọng hơn cả sự đau yếu bệnh hoạn ở thân xác Cụ Rùa thần linh Hồ Gươm!
Bước sang thế kỉ 21 rồi mà xe lửa Việt Nam vẫn ì ạch chạy trên khổ đường một mét của đường sắt thế kỉ 19, vừa lạc hậu tội nghiệp, vừa liên tục gây ra tai nạn làm chết chóc, thương tật cho bao người! Nhưng quan đầu ngành đường sắt, quan đầu bộ giao thông vận tải không màng đến nâng khổ đường sắt lên để tăng tốc độ chạy tàu, tăng an toàn cho dân, tăng hiệu quả cho nền kinh tế! Vì tăng khổ đường sắt chỉ phải nhập về mấy thanh ray, mấy đầu máy thông thường rẻ bèo, chỉ là việc giãn rộng làn đường ray do đội ngũ lao động đơn giản trong nước làm, tiền bạc không nhiều, có phết phảy chia chác cũng chẳng bõ bèn gì! Phải làm đường sắt cao tốc hiện đại, kĩ thuật tiên tiến nhất, phải mua toàn bộ từ thiết bị công nghệ đến chất xám thiết kế tổ chức thi công của nước ngoài với hàng chục tỉ đôla! Đã thành thông lệ kinh doanh, đã mua bán là có hoa hồng, chẳng có gì khuất tất! Tiền hàng càng lớn, hoa hồng càng đậm! Thế là quan giao thông hăm hở làm dự án đường sắt cao tốc, đi thẳng lên hiện đại, bất chấp gánh nợ chồng chất đè gãy lưng nền kinh tế đất nước, bất chấp cả nguy cơ thua lỗ của đường sắt cao tốc cầm chắc trong tay! Quan ở cấp triều đình như thế, làm sao đất nước không nguy khốn, làm sao môi trường xã hội không ô nhiễm!
Chủ trương xây đường sắt cao tốc ở Việt Nam
  gây nhiều tranh cãi



Quan đầu tỉnh được phân vùng quản lí lãnh thổ. Rừng quý, đất hiểm phên giậu quốc gia trong tay, quan không lo chăm sóc giữ gìn và khai thác làm lợi cho dân cho nước mà giao béng cho người nước ngoài thuê với giá rẻ như cho không! Quan hệ kinh tế bao giờ cũng phải hai bên đều có lợi. Đất nước mất rừng! Quốc gia mất phên giậu! Người dân mất nơi làm ăn sinh sống! Thiệt hại dồn hết lên đất nước và nhân dân để cái lợi dồn cả cho quan đầu tỉnh! Quan hàng tỉnh như thế, làm sao đất nước không nguy khốn, làm sao môi trường xã hội không ô nhiễm!
Bà già dẫn cháu vào khu vui chơi giải trí. Người chen chúc đông quá, bà già vướng cháu phải nhờ người đàn ông nhởn nhơ đứng gần đó mua hộ tấm vé vào cửa. Người đàn ông mặt mày béo tốt, quần áo bảnh bao, tưởng là một con người văn hóa hào hoa, lịch sự. Nhưng bất ngờ ông trừng mắt nhìn bà già rồi cánh tay ông vung lên giáng xuống bà già tội nghiệp để bà già phải mở to mắt nhận ra ông quan hàng thứ nhì huyện! Nhận ra để rồi biết thân biết phận, không thể láo, sai khiến quan huyện! Quan hàng huyện mà nhân cách thảm hại như thế, làm sao đất nước không nguy khốn, làm sao môi trường xã hội không ô nhiễm!
Quan là hình mẫu của xã hội. Quan lương thiện, con người xã hội hiển hiện rõ trong mọi ứng xử của quan, con người xã hội của dân cũng theo đó hiển hiện trong xã hội, làm chủ xã hội, xã hội sẽ tốt đẹp, tử tế. Ở quan chỉ thấy con người sinh vật, không thấy con người xã hội thì trong xã hội, con người sinh vật sẽ thắng thế, sẽ làm chủ xã hội!
Hai người đi xe máy chỉ va quệt nhẹ, không hề hấn gì. Nếu có con người xã hội trong sự việc đó, một lời xin lỗi là sự việc kết thúc nhẹ nhàng. Nhưng con người xã hội vắng bóng! Mũi dao nhọn vung lên! Một người chết và một người ngồi tù! Đó là hai con vật hung dữ trong hình hài hai con người! Người sửa xe bên đường mang đinh ra đường rải để bán ruột xe giá cắt cổ cho người đi xe bị đinh cào rách ruột xe! Đó là sự kiếm sống của con người sinh vật không biết đến đạo lí của con người xã hội!
Cụ Rùa thần linh Hồ Gươm bị thương tích đau yếu suy kiệt ở thân xác rùa sinh vật. Nhờ thế con người nhìn thấy mà cứu chữa.
Con người Việt Nam hôm nay đau yếu suy kiệt trầm trọng ở con người xã hội và chỉ những con người xã hội mới nhìn thấy sự đau yếu suy kiệt đó.
Quan có quyền lực thì không nhìn thấy sự đau yếu suy kiệt đó! Những người nhìn thấy sự khốn cùng của con người xã hội Việt Nam hôm nay thì không có vị thế xã hội, không có quyền lực nên đành bó tay!
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, đang sống ở TP. HCM, Việt Nam.

SỞ HỮU TOÀN DÂN QUÁ MÙ MỜ

QUÁ MÙ MỜ

LTS: Tại hội nghị tổng kết thi hành Luật Đất đai 2003 ở Đà Nẵng vào cuối năm 2010, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Phạm Khôi Nguyên nêu quan điểm cá nhân: “Tốt nhất là cho sở hữu tư nhân đất ở vì thực chất đã sở hữu tư nhân rồi mà ta cứ nói là sở hữu toàn dân, thành ra bao nhiêu chính sách ra không rõ!”.
Ngoài quyền sử dụng ghi trên giấy đỏ, Nhà nước đã trao hầu hết các quyền định đoạt tài sản cho người sử dụng đất như quyền chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, cho thuê, thế chấp, góp vốn. Như vậy, có đến 80% nội dung đã là sở hữu tư nhân rồi.
Cương lĩnh 2011 của Đảng đã không còn xác định “công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu” như Cương lĩnh 1991. Nhiều ý kiến cho rằng như vậy là đã “mở” ra cho việc sửa Hiến pháp và Luật Đất đai theo hướng cho sở hữu tư nhân về đất đai. Với mong muốn góp thêm những thông tin đa chiều về vấn đề lớn này, Pháp Luật TP.HCM khởi đăng loạt bài nêu quan điểm riêng của một số chuyên gia xung quanh chế độ sở hữu đất đai ở Việt Nam.
“Sở hữu toàn dân về đất đai có phải có nghĩa là bất kỳ một m2 đất nào trên lãnh thổ Việt Nam cũng là của chung, của hơn 80 triệu người dân Việt Nam?” – luật gia Vũ Xuân Tiến đặt câu hỏi. Thực tế cho thấy hàng triệu thửa đất trên cả nước về danh nghĩa thuộc sở hữu toàn dân. Song hơn 80 triệu dân trong nước không thể thực hiện được một cách tập thể các quyền của chủ sở hữu, họ không thể cùng định đoạt và cùng hưởng lợi.
Khi thất thoát khó quy trách nhiệm
“Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu là không chuẩn về mặt khái niệm. Vì không rõ toàn dân là ai, những ai có quyền nhân danh Nhà nước để nắm quyền sở hữu đó. Do vậy, trong thực tế, quyền sở hữu này trở nên mù mờ và rất dễ bị lạm dụng” – chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chỉ rõ.
Theo đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, sở hữu về đất đai là vấn đề rất hệ trọng. “Trong khi đó, cụm từ “đất đai thuộc sở hữu toàn dân” theo tôi là hết sức mơ hồ! Ở Quốc hội khóa XI, khi thảo luận về dự thảo Luật Đất đai năm 2003, tôi đã phát biểu thế này: “Quyền sở hữu toàn dân là một thứ hư quyền, là chẳng phải của ai cả. Trong khi đó, về lý thuyết, người dân chỉ có quyền sử dụng đất. Đó là một thứ quyền rất mỏng manh”” – ông Quốc nói.

Ngoài quyền sử dụng ghi trên giấy đỏ, người dân rất có nhiều quyền định đoạt nhà đất của mình. Trong ảnh: Làm thủ tục nhà đất tại xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh. Ảnh: HTD
Ông Đào Trung Chính, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Quản lý Đất đai (Bộ TN&MT), cũng cho rằng quy định đất đai là sở hữu của toàn dân nhưng Nhà nước lại là đại diện chủ sở hữu nên khi xảy ra thất thoát hoặc có vấn đề gì thì việc xác định trách nhiệm không được rạch ròi, thường là quy trách nhiệm tập thể. “Như vậy thì không quy trách nhiệm được cho cá nhân. Trách nhiệm của người đại diện của chủ sở hữu như thế nào? Người này là ai? Phải cụ thể chức danh, vị trí chứ không phải là một ủy ban chung chung. Cuối cùng thì chả ai chịu trách nhiệm cả” – ông Chính nêu bất cập.
Tạo ra những khái niệm “giả vờ”
Theo GS-TSKH Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ TN&MT, ở nước ta, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai hiện nay đã không còn nguyên nghĩa là chế độ công hữu về đất đai. Tức là về bản chất, sở hữu toàn dân về đất đai không còn nữa. Ngoài quyền sử dụng ghi trên giấy đỏ, Nhà nước đã trao hầu hết các quyền định đoạt tài sản cho người sử dụng đất như quyền chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, cho thuê, thế chấp, góp vốn. “Như vậy, có đến 80% nội dung đã là sở hữu tư nhân rồi. Thực tế, quyền định đoạt của người dân đối với đất đai ở ta hiện nay không khác mấy so với quyền sở hữu tư nhân về đất đai ở các nước tư bản. Nhà nước chỉ còn giữ lại quyền quy hoạch sử dụng đất và quyền cưỡng chế thực hiện quy hoạch sử dụng đất như thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho chuyển mục đích sử dụng đất, gia hạn sử dụng đất” – ông Võ phân tích.
Ông Võ cũng chỉ rõ sự không thống nhất về lý luận và thực tiễn đã tạo nên những khái niệm “giả vờ” như quyền sử dụng đất là tài sản của người sử dụng đất, thị trường quyền sử dụng đất, giá trị quyền sử dụng đất… “Sự không rõ ràng về khái niệm dẫn tới khả năng thực thi sai pháp luật” – ông Võ nói.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cũng phân tích, khi còn danh nghĩa sở hữu toàn dân thì trên mỗi mảnh đất có hai ông chủ: Một ông chủ Nhà nước có quyền sở hữu về nguyên tắc nhưng rất chung chung. Một ông chủ thực sự là người dân hay tổ chức nhưng chỉ có quyền sử dụng đất, tuy nhiên quyền này trên thực tế lại rộng gần bằng quyền sở hữu.
Trong lòng người dân nghĩ khác
Thực tế cho thấy ở nhiều vùng, người dân định cư lâu đời, họ coi đất đai của gia đình là do tổ tiên, ông cha khai phá và sở hữu hàng trăm năm trước để lại cho họ. “Do vậy, dù có quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân thì trong lòng người nông dân họ cũng không nghĩ như vậy. Mặt khác trên thực tế, ngay cả với danh nghĩa Nhà nước thay mặt toàn dân sở hữu đất đai thì sau khi Nhà nước đã giao đất, cho thuê đất, Nhà nước cũng không còn giữ quyền định đoạt hoàn toàn đối với phần đất đó nữa” – bà Lan nói.
“Về mặt pháp lý, hiện người dân chỉ có quyền sử dụng đất thôi. Chúng ta không nói mua bán đất đai, mà nói rằng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Nhưng bản chất là việc mua bán đất đai. Đó là một cách nói tránh, làm cho vấn đề hóa ra phức tạp” – ông Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thẳng thắn. (Còn tiếp)
HOÀNG VÂN
Những kẽ hở lớn
Việc bố trí nhà ở, đất ở cho cán bộ, công chức có nơi còn tùy tiện. Việc quản lý, sử dụng đất công sở của cơ quan nhà nước, tổ chức còn lỏng lẻo. Cụ thể là cho thuê, cho mượn đất, sử dụng đất không đúng mục đích. Cùng với đó, một số tổ chức chưa xác định giá trị quyền sử dụng đất hoặc xác định với giá trị thấp khi cổ phần hóa doanh nghiệp… Những điều trên đã tạo ra kẽ hở lớn để tham nhũng phát triển.
(Trích báo cáo của Bộ TN&MT tại cuộc đối thoại về phòng, chống tham nhũng trong lĩnh vực đất đai tháng 11-2010)

Chưa hiểu hết vấn đề…
Tới Hiến pháp 1980, ta đưa ra chủ trương quốc hữu hóa đất đai. Tức là, biến đất đai trong cả nước, trước thuộc sở hữu cá nhân, thành sở hữu toàn dân, có nghĩa là của Nhà nước, do Nhà nước thống nhất quản lý.
Khi quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, bấy giờ có lập luận là đất đai dù thuộc quyền sở hữu của ai thì đó cũng là thành quả khai phá của nhân dân cả nước, là thành quả lao động chung của cả xã hội. Vì vậy, quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân là chính đáng nhất. Bản thân tôi cũng là người có lúc có trách nhiệm về vấn đề này, thấy rằng bản thân mình chưa hiểu hết vấn đề.
TS NGUYỄN ĐÌNH LỘC, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Sự kiện Bắc Phi

Sự kiện Bắc Phi – Trung Đông và nhu cầu bức thiết Tự Do – Dân Chủ ở Việt Nam

Nhân loại đã bước vào thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI trong một làn sóng “ Bão nổi lên rồi – từ Bắc Phi lan qua Trung Đông. Từ Iran vang lên tiếng nói căm thù, diệt trừ độc tài. Từ Bắc Kinh cho tới Sài Gòn và cả Hà Nội. Giờ vùng lên sục sôi muôn triệu người. Cờ Tự Do – Dân Chủ phấp phới bay rợp trời cùng toàn dân nổi dậy quyết phá tan bạo quyền. Cùng vùng lên hỡi các đô thị, làng xóm thân thương, ta quyết xuống đường diệt lũ tham quan, tiếng thét vang dội khắp nơi, bão nổi lên rồi” …
2010: Thế giới được ghi nhận là khá yên bình. Chỉ riêng vùng Đông Bắc Á từ những vụ khiêu khích của CS Bắc Hàn mà Bắc Kinh tính toán, đạo diễn đã suýt “vượt ra khỏi tầm tay”. Cũng vẫn còn nhiều điều “may mắn” cho Trung Cộng. Nếu, chiến sự Nam – Bắc Hàn nổ ra thì Trung Cộng sẽ mất hẳn, mất hết “tên lính tiền đồn trung thành và vùng đất mầu mỡ quan trọng nhất” ở phía Đông Bắc. CS Bình Nhưỡng là trung tâm “đối tác đặc biệt trao đổi, trả giá…“ với Cộng Hoà Nga hiện hữu (vùng đất rộng lớn nhất nước Nga – Xiberia đang liên đới), là vị thế “đầu sóng, ngọn gió” đối diện với Nhật Bản, Đài Loan đồng thời cũng là “con tin“ tin cậy nhất để “làm tiền, ăn vạ với Seoul + Washington. Điều đặc biệt khác là “miếng mồi” Bắc Hàn bằng mọi giá CS Trung Quốc phải giữ gìn “bảo kê” nó bởi mỗi năm chỉ đầu tư gần 3 tỷ mà Trung Cộng thu lời lãi đến hơn 30 tỷ USD. Mối lợi ấy CS Bắc Kinh đâu dễ để “sơ xuất”…?
Vấn đề giải Noel hoà bình cho nhà tranh đấu dân chủ, Lê Hiểu Ba đã làm “điên đầu” cho Bắc Kinh cố “nặn, đẻ” ra giải “Khổng Tử” thật trơ trẽn, lố bịch. Và gây “ sóng gió” cho tổ chức quốc tế nhân quyền, khiến tổng thống Hoa Kỳ, Barak Obama cũng đã phải lên tiếng. Trung Cộng đang “nuôi mộng” bá quyền từ nguồn kinh tài vơ vét, cướp bóc trên máu xương, mồ hôi nước mắt của hơn một tỷ dân lành nên đã có số ngoại tệ dự trữ lên tới 1, vài nghìn tỷ USD hiện đang “hung hăng” đòi biến đồng nhân dân tệ thay thế hay đối trọng với đồng Dollar của Mỹ. Cả thế giới đang chờ xem quyết định ?. Hiện tình đất nước Trung Cộng đang trong hiểm hoạ hạn hán nghiêm trọng nhiều vùng đất bình nguyên nay không còn khả năng canh tác, thủ đô Bắc Kinh với nạn nhân mãn vượt quá tải gấp hàng chục lần ( khả năng cư dân hữu dụng của Bắc Kinh chỉ khoảng 12 triệu người). Các biến động khó lường từ các khu vực tự trị, thực chất đây là những quốc gia, vùng, miền đã có lịch sử riêng biệt khác hẳn với văn hoá dân tộc Hán.
Năm 2010 cũng là thời điểm quyết định chuyển hướng chiến lược của Hoa Kỳ từ Iraq – Afghanitan sang Á Châu – Thái Bình Dương mà Biển Đông của Việt Nam đã là cái “lưỡi bò” của Trung Cộng chiếm giữ từ lâu, nay cũng đang trở thành điểm nóng của toàn vùng Asean.
Năm 2010 đánh dấu 20 năm sụp đổ các chế độ độc tài CS Đông Âu và nước Đức thống nhất cũng đã được nhiều nguyên thủ quốc gia tham dự, phát biểu ngay tại quảng trường “Cổng Thành” chia cắt đất nước thành hai miền Đông – Tây hơn 40 năm . Tại đây, nữ Thủ tướng CHLB Đức, Angela – Merkel đã tuyên bố: “Chủ nghĩa Cộng sản đã biến người dân trở thành gian dối” hay cựu Tổng thống Nga, Wladimir Putin tuyên bố: “Kẻ nào tin những gì CS nói là không có cái đầu, kẻ nào làm theo lời CS là không có trái tim”. Sự kiện quốc hội CHLB Nga vừa quyết định quy kết tội ác diệt chủng, sát nhân của tên tội đồ trùm lãnh đạo CS thế giới, Josef Stalin đã làm nức lòng nhân dân Nga và nhân loại tiến bộ toàn cầu. Ngay vấn đề thi hài Wladimir – Ilich Lenin cũng đã được bàn thảo đưa ra khỏi lăng ở khu quảng trường Đỏ ở Moskow.
Vấn nạn xẩy ra thiên tai nắng hạn, mưa giông, lụt lội , bão tuyết khắp năm châu, bốn biển cùng một nền kinh tế, tài chính đang “sáng, ấm” lại, nạn thất nghiệp ở Âu châu vẫn đang đe dọa ở phía trước, chỉ riêng CHLB Đức đã giảm thiểu xuống còn trên dưới 1 triệu người thất nghiệp (còn lại khoảng 3 triệu/ 84 triệu). Tuy nhiên, Pháp, Bồ Đào Nha và một vài quốc gia khác cũng vẫn đang trong tình trạng báo động.
Cả thế giới như bừng thức qua cuộc cách mạng “Hoa Nhài” đã làm rung chuyển Bắc Phi – Trung Đông vang tới Bắc Kinh, Thượng Hải trong công cuộc nổi dậy của toàn dân xuống đường chống tham nhũng, độc tài toàn cầu đã thành công rực rỡ từ Tunisie chuyển qua Ả rập, Lybia… những kẻ cướp hôm qua đang ngồi trên ngai vàng với hàng trăm tỷ Dollar, nay đang chạy tháo thân, trốn chui, trốn nhủi. Nhưng, lưới trời lồng lộng chúng sẽ khó thoát. Làn gió Tự Do – Dân Chủ đang thổi rất nhanh, mạnh đến các vùng đất hoang hoá đội lốt “Thánh chiến” hay còn mang theo cái đuôi khỉ chưa thành người như “định hướng XHCN”. Và, thời gian không xa nữa sẽ cũng quyét sạch tận gốc rễ bọn bạo quyền cùng những đám âm binh khắp nơi trên địa cầu này. Xu thế và quy luật ấy là không thể đảo ngược.
Khởi đầu 2011, Indonesia là chủ tịch luân phiên Asean. Nhưng, đã phải trực diện đối phó với thế lực hữu hình đang nấp trong bóng đen cố tình “bật tín hiệu” qua vụ bắn xẻ ở biên giới Thailan – Cambodia gây nên xáo trộn khu vực mà lý do không có gì mới so với vụ Nam – Bắc Hàn năm 2010, ai hay kẻ nào nổ súng trước ?
Cuộc chạy đua võ trang toàn khu vực Á châu, Úc châu đã và đang khởi động theo cấp độ mới. Một vài nguồn tin đang bán tín, bán nghi: J 20 phi cơ chiến đấu tàng hình, vũ khí mới của Trung Cộng xuất hiện trên một số các phương tiện truyền thông quốc tế. Trung Cộng ngày càng lấn lướt, gây áp lực mạnh xuống phương Nam và dự phóng mở đường hoả xa cao tốc xuyên Đông Dương vươn tới Singapor trong tương lai gần. Bắc kinh “không tiếc tiền” để mua đứt những khoảng đất đai đang giao thời của các chủ nhân tư nhân khắp các châu lục Á – Âu – Phi – Mỹ la tinh hoặc các hợp đồng dài hạn khai thác mỏ, tài nguyên từ Phi châu – Viễn Đông – Trung Đông … Tin tức nhận được từ vùng Đông và Trung Phi đã xuất hiện hàng trăm ngàn “gia đình” được phối ngẫu giữa đàn ông Trung Quốc với đàn bà bản xứ châu lục đen này ở hàng chục quốc gia xa xôi, hẻo lánh như ( Angola, Congo, Etiopie, Somani, Sudan. Chad…) hàng chục ngàn trẻ lai Chineses đã xuất hiện trên đường phố hay các học đường. Đàn ông Trung Quốc đang sinh sống và làm việc ở đây chủ yếu là các phạm nhân, tội phạm được CS Bắc Kinh tạm tha và được nhà cầm quyền Trung Cộng tuyên truyền, vận động, khuyến khích hay ép buộc phải làm đơn tình nguyện để chuyển tới các vùng đất này sinh sống thì sẽ cho phép giảm hạn hoặc xoá án tù. Nếu kẻ nào trong số những tội phạm này tình nguyện cưới vợ, lập gia sinh sống lâu dài ở đây sẽ được nhà nước Bắc Kinh đặc biệt quan tâm, nâng đỡ.
Úc châu: Những ngày cuối năm 2010 đã đối diện với một đợt “ nạn hồng thuỷ” chưa từng có trong lịch sử xứ này. Tuy không gây chết chóc nhiều nhưng thiệt hại về kinh tế khá lớn vì thời gian mưa lũ kéo dài.
Vấn đề an ninh khu vực, phòng thủ và khối quân sự Nam Đại Tây Dương này có thể sẽ hình thành một liên minh quân sự vô địch thế giới của nhiều thập niên thế kỷ thứ XXI. Trong tương lai có thể vượt lên tầm cao mới và vững vàng hơn nữa trong trục chính chi phối kinh tế, an ninh, quân sự toàn vùng Đông – Nam bán cầu . Tinh thần “gió Đông thổi bạt gió Tây” sẽ được khơi dậy. Nhưng, ý nghĩa nội hàm của nó khác hẳn sự tham vọng của Mao Trạch Đông và đảng CS Trung Quốc …
2011 – Cả thế giới đã có 7 tỷ người mà người Trung Quốc đã chiếm gần 1 tỷ 500 triệu. Nếu CS Bắc kinh vẫn tiếp đi theo con đường bạo quyền, độc đảng thì sẽ không có con đường giải thoát nhân bản và không thể tránh khỏi sự sụp đổ trong một ngày không xa. Lệnh cấm vận mua, bán vũ khí với Trung Cộng đang còn hiệu lực. Tuy nhiên, nếu chiến tranh lớn có xẩy ra trong thế kỷ này, chắc chắn không thể ở nơi nào khác mà là tại Á châu, bởi khu vực này đang còn chứa chấp quá nhiều bất ổn, bất đồng và bất bình khó có thể giải quyết qua thương thuyết, thương lượng. Số lượng chính thể độc tài, tàn bạo không giảm, nhiều hệ thống chính trị đang có cấu trúc, thực thi phi nhân bản, phản khoa học trong đó có những kẻ cầm quyền không sinh hoạt và làm việc vì dân, do dân bầu lên, thậm chí họ núp dưới chiêu bài “ nền văn hoá riêng” để chống lại nhân loại tiến bộ, chống lại quyền CON NGƯỜI.
Quy luật gần như bất hủ là tất cả bọn bạo chúa ( độc tài, cộng sản, quân chủ, cuồng tín, quá khích…) luôn tìm mọi mánh khoé quỷ quyệt nhằm cướp đoạt quyền sống căn bản, quyền làm người chính đáng của mỗi con người mà Tạo Hoá đã ban thưởng để chúng thoả chí phè phỡn, nhảy múa trên mồ hôi, nước mắt, máu xương của đồng loại.
Biến động Việt Nam ?
Chính trị: Đại hội XI của đảng CS VN đã diễn ra khá suông sẻ dưới sự chỉ đạo, bảo kê, theo dõi chặt chẽ của Cs Bắc Kinh. Sự kiện Hoàng Bình Quân, bí thư TW đảng phụ trách đối ngoại “bay vòng” qua Cambodia để hạ cánh xuống Bắc Kinh vừa được đích thân trùm CS thiên triều phương bắc, Hồ Cẩm Đào nhận bản báo cáo, tường trình và giao cho huấn thị mới, tiếp theo sẽ là những chuyến đi “con thoi” của cả Ba Đình cùng Thiên Triều, hành vi đó không thể lọt qua được giới quan sát tinh tường về những biến động toàn diện trong tương lai. Những cuộc họp khẩn cấp để đối phó với tình hình bất ổn, giá, lương. tiền, an ninh, quốc phòng. Những cuộc triệu tập khẩn trong “giao ban” để quán triệt chỉ thị, nghị quyết tối mật cho các cán bộ trung, cao cấp, chuyên viên bộ, ngành, địa phương theo từng thuộc cấp về sự kiện toàn dân những quốc gia Bắc Phi – Trung Đông đang nổi dậy, vùng lên lật đổ các chế độ độc tài, toàn trị khiến cho các ngôi vị độc đảng từ Bắc Kinh đến Hà Nội đang rúng động. Cả Bắc Kinh và Hà Nội đều tiến hành họp khẩn, tuyệt mật “Ban Nội Chính” để theo dõi và “nắm chắc” tình hình diễn biến, lập ra phương án đối phó.
Kinh tế: Chỉ vài tuần lễ gần đây mà nhà cầm quyền CS Hà Nội đã phải phá giá đến 2 lần đồng tiền giấy Việt Nam, Nguyễn Tấn Dũng đang đòi giảm thiểu ngân sách hành chánh 5%, Giấy bạc có thể in và phát hành tờ 1 triệu trong một ngày gần đây, nếu không sẽ phải tiến hành đổi tiền. Đồng tiền mất giá và nhập siêu phi mã như hiện nay khiến chế độ này sẽ không thể đứng vững trong vòng 1 tháng nếu Trung Cộng “sao nhãng” quan tâm. Tuy nhiên, số ngoại tệ, vàng, đá quý lại đang tiềm tàng trong túi tư nhân có giá trị đến hàng trăm tỷ USD, mà nhà nước CS tham nhũng vô độ này hoàn toàn không đủ khả năng, uy tín để huy động vào công việc phục hồi kinh tế, xây dựng đất nước. Hiện trạng điện lực đang bị cắt giảm như chưa từng xẩy ra hàng chục năm qua. Các chủ thầu, chủ doanh nghiệp đầu tư tư nhân luôn phụ thuộc vào cơ chế: XIN – CHO của hệ thống chính trị CS độc quyền, tàn bạo. Nhưng các công ty, xí nghiệp quốc doanh thì tha hồ “vung tay” khuynh đảo các nguồn kinh tài bất kể từ đâu đến và bất chấp lời, lỗ …
„ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có con người Xã hội chủ nghĩa“. Chỉ cần hiểu rõ „định lý“ này đã biết dã tâm và sự lừa đảo của lũ tư bản đỏ (Vậy thì, muốn đi theo kinh tế thị trường (Tư Bản) ắt phải có con người Tư Bản chủ nghĩa. Sự phản mệnh đề này đã đủ sự kết luận: Ðảng cộng sản Việt Nam trước, sau vẫn là một bọn phản động, phản dân, hại nước khôn lường.
Hiện tại CHXHCN Việt Nam đang nhập siêu của Trung Cộng gần 30 tỷ USD/ năm mà xuất khẩu qua Trung Quốc không đạt 5 tỷ USD và đang là một bãi rác thải công nghiệp của các nền kinh tế, khoa học, kỹ thuật, truyền thông của Trung Quốc hay nhiều quốc gia khác. Do đó, kế hoạch hiện đại hoá – công nghiệp hoá của đảng CSVN là một trò đại bịp. Và, cũng chỉ là một trò hề kệch cỡm trước nhân loại tiến bộ.
Xã hội – Cộng đồng: Vấn đề bất ổn do những hành vi bất nhân, bất công, phi lý cùng sự xuống cấp nghiêm trọng của một nền giáo dục, y tế với những sa đọa trong đạo lý, luân thường, toàn cảnh xã hội đã đánh mất văn hoá Dân Tộc Việt và đang đẩy tư tưởng, lối sống bất cần đời, hành xử man rợ giữa cá nhân, con người với cộng đồng, xã hội lâm vào đường cùng của sự bế tắc. Hiện tại, chỉ cần một vài triệu tù nhân hình sự của Trung Cộng được thả vào Việt Nam hay vài triệu tội phạm khác “được phép“ sinh hoạt tự do trên vùng hải phận hay biên giới giáp gianh 6 tỉnh Việt – Trung thì Cộng Ðồng – Xã hội Việt Nam sẽ luôn gặp bất trắc, bất ổn. Do đó, vấn đề triệt hạ nội xâm phải trở nên cấp thiết nhất.
Thể chế độc tài Cộng Sản Việt Nam phải sụp đổ là tất yếu lịch sử:
Đó là quy luật vận hành lịch sử chung của nhân loại, riêng Việt Nam đã được kiểm chứng qua hàng ngàn năm hưng, suy và xin được minh định từ thí dụ trong khoa học tự nhiên: “Một cây mà gốc không „tin“ lá, lá không „tin“ rễ, rễ không „tin“ thân…Cây đó sẽ chết hay phải chết là tất yếu”. Trong khoa học lịch sử: Các triều đại phong kiến Việt Nam ở vào thời điểm suy vong đều có sự tổng hợp tình hình đang diễn ra như Việt Nam hiện nay: Bọn cầm quyền chỉ tính chuyện bán nước + buôn dân + vơ vét của cải, vàng, tiền + tàn phá thiên nhiên + hãm hại dân lành. Tội ác của bạo quyền CS VN đang vượt qua tội ác của Hitler. Ngoài những sự kiện chủ động gây ra chiến tranh để giết chóc và hãm hại hàng chục triệu con người, chúng còn khủng bố tinh thần, lũng đoạn trí tuệ, bức tử thể xác, tâm linh, giết chết các tài năng của dân tộc, biến cả nước thành nhà tù khổng lồ để cai trị, biến con người thành bất nhân, vô cảm và ngay cả “nguyên thủ” chủ tịch nhà nước CSVN , Nguyễn Minh Triết cũng bị biến thành nhân vật chí phèo của thời đại cùng một bộ phận không nhỏ trong cộng đồng dân tộc thành hoang thú, dã thú và mạt nhược trước ánh sáng Sự Thật.
Tương lai Việt Nam:
Các cuộc nổi dậy lật đổ độc tài sẽ không ngừng lại ở bất cứ vùng đất, khoảng trời nào trên khắp thế gian này bởi “bất công, tàn ác với dân chúng và mâu thuẫn nội bộ không thể giải quyết bằng tình người của bọn bạo quyền tham nhũng chuyên cướp của, giết người, buôn dân, hại nước”
Hiện tình Việt Nam đã và đang từng bước hội đủ những yếu tố cần thiết để ánh sáng Tự Do tràn vào và làn gió Dân Chủ ào tới . Khác với các quốc gia Bắc Phi – Trung Đông, nhân dân Việt Nam phải chịu đựng ách độc tài đảng trị của bạo quyền CSVN hại dân, bán nước đã gần 66 năm. Bộ mặt thật hại dân bán nước của tập đoàn CS Ba Đình đã phơi bày trước ánh sáng công lý và sự thật.
- Hơn 65 năm qua, đất nước vẫn nghèo nàn, lạc hậu không theo kịp đà văn minh của nhân loại.
Nhân dân Việt Nam đang bị đẩy đến tận cùng của bất công, oan khuất đói nghèo, hiện tình không còn gì để mất nữa, dân chúng chắc chắn sẽ không còn sợ hãi và sẵn sàng xuống đường. Tất cả đang hội đủ những điều kiện cần thiết để bùng nổ một cuộc “cách mạng Xanh” trong nay mai. Một cuộc cách mạng của quần chúng đứng lên đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình, giành lại quyền tự do, dân chủ và quyền làm chủ thực sự của đất nước.
Bài học lịch sử của Việt Nam nói riêng và các nước chậm tiến nói chung, tiếng nói của giới trí thức, giới trẻ và lãnh đạo tinh thần các tôn giáo luôn được nhân dân tôn trọng. Chính vì vậy mà hàng ngũ sinh viên, học sinh là dường cột, tương lai của đất nước cần sớm nhận ra công lý, sự thật hãy dũng cảm đứng lên tranh đấu, sát cánh cùng các sĩ phu, nhân sĩ yêu nước như Đại Lão HT Thích Quảng Độ đến Linh mục Nguyễn văn Lý, Mục sư Nguyễn Công Chính, Nguyễn Trung Tôn, cụ Lê Quang Liêm… tất cả sẵn sàng xuống đường cương quyết bất hợp tác với nhà cầm quyền CS Hà Nội kêu gọi đình công, bãi thị, bãi khoá… để biểu dương ý chí, quyết tâm của toàn dân Việt Nam.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng, quân đội là những người con yêu quý của nhân dân sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ Quốc chống giặc ngoại xâm, luôn luôn đứng về phiá nhân dân, sẵn sàng bảo vệ nhân dân trước bất cứ thế lực độc tài, tàn bạo hay bọn nội, ngoại xâm nào. Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay dù đang bị sự khống chế của các chính trị viên hay quân ủy, nhưng một khi bão táp cách mạng đổi đời xảy ra, chắc chắn những người yêu nước ở đó sẽ đủ sự bình tĩnh, mưu lược, sáng suốt để nhận ra kẻ thù của nhân dân đang ở đâu hay những « người lạ », « kẻ lạ », « tổ chức lạ », « lực lượng an ninh, quân sự lạ » đang xuất hiện ở bất cứ nơi đâu, trọng điểm nào trong đất nước Việt Nam để những nòng súng luôn cảnh giác, kịp thời hướng về bảo vệ chân lý “Trung với Nước, Hiếu với Dân”.
Lực lượng cựu chiến binh Việt Nam đâu còn gì để mất sau bao năm chiến đấu, hy sinh nay, bị bọn độc tài tham nhũng tước đoạt, đánh tráo, lừa đảo tất cả mục đích, lý tưởng cao đẹp của một thời trai trẻ phải đổ biết bao máu xương vô ích. Giờ đây, các anh, chị em cần sáng mắt, sáng lòng nhận biết sự bố thí những đồng tiền xương máu nhận được mỗi tháng không phải là của đảng CS làm ra mà do chúng cướp từ mồ hôi, nước mắt của những người dân lao động chân chính.
Một nhóm cầm quyền độc tài đảng trị không thể được coi là TỔ QUỐC – Bọn QUAN THAM chỉ nhất thời – Và, NHÂN DÂN mới là VẠN ĐẠI.
Cuộc cách mạng vũ bão của truyền thông đã chuyển giao cho thế hệ trẻ cùng giới trí thức một loạt vũ khí mới hiện đại bách chiến, bách thắng, vượt cả không gian, thời gian và có sức công phá hữu hiệu gần như tuyệt đối vào các thành trì cố thủ của bọn độc tài, tham nhũng : Quyết « Không cho chúng nó thoát «
Bài học Tunisie, Ai Cập, Lybia…lực lượng vùng dậy đang tận dụng tối đa ưu thế của internet, emailgroups, những Facebook, Bloger, điện thoại di động để truyền bá tin tức, nhắc nhở anh em trong tất cả các lực lượng vũ trang cần thiết và chọn đúng thời điểm hiệu quả nhất đứng về phiá nhân dân, vận động lớp trẻ tập hợp sẵn sàng trên mạng để chờ thời cơ sẽ đến do những tác động toàn diện của đời sống vật chất, tinh thần như vật giá leo thang, đồng tiền mất giá, kinh tế khủng hoảng, thất nghiệp hay việc làm bất ổn đang lan tràn, hay những người bị công an bắt bớ đánh đập, tạm giam giữ. Dân oan hay anh, chị em công nhân, bà con tiểu thương bị an ninh, mật vụ khủng bố, trấn áp …
Sự kiện Bắc Phi – Trung Đông còn là bài học quý báu cần được rút tỉa kinh nghiệm đấu tranh với độc tài CS suốt gần 36 năm của các tổ chức chính trị, đảng phái, tôn giáo hội đoàn ở cả trong và ngoài nước : Yếu tố bí mật, bất ngờ, đoàn kết, quyết tâm cao, phân tán mục tiêu, phân bổ lực lượng, chọn điểm « tử huyệt », lựa nơi phát hoả, cùng phương châm, sách lược thích ứng, tương hợp hoặc tổng lực phù hợp tối ưu với thực tiễn của mỗi giai đoạn đến toàn. thắng …
Khi hiệu lệnh được phát là tất cả bước vào vị trí chiến đấu trong tư thế tự tin, can trường, chủ động và với niềm tin Tất Thắng cùng phối hợp nhịp nhàng, đồng loạt khắp mọi mặt trận trên cả nước cùng một thời khắc. Vấn đề quan trọng là cần đánh trúng, đánh điểm vào những mục tiêu hiểm yếu nhất, buộc đối phương phải bỏ chạy hay đầu thú, hoặc nhận biết được sai lầm của quá khứ để họ trở về đứng cùng phía với nhân dân, nhằm giành thắng lợi từng bước một hay kết hợp tổng lực, dốc sức thần tốc quyết dứt điểm cho đến thắng lợi hoàn toàn và mục tiêu cuối cùng là : TỰ DO – DÂN CHỦ cho mỗi con người và cho toàn thể nhân dân Việt Nam.
Hệ thống cai trị của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay với trên 3 triệu đảng viên. Nhưng, chúng không có sự tin cẩn. Và, ngay cả những tên chóp bu của CS Hà Hội với CS Bắc Kinh chúng chẳng bao giờ tin nhau, bởi CS Việt Nam đã bị Trung Cộng ghim trong tim, óc là bọn « ăn cháo đá bát » từ lâu, nên chúng vẫn phải phối trí những mạng lưới theo dõi lẫn nhau chằng chịt như thiên la, địa võng. Nhân dân cả hai nước Việt – Trung cũng cùng chung cảnh ngộ. Do sự bất tín trên, dưới, trong, ngoài xã hội, cộng đồng, dân tộc luôn bất nhất, khó kiểm soát chặt chẽ và một bộ máy an ninh, tình báo dày đặc với biện pháp khủng bố trấn áp từ bao lâu nay đã tạo ra nghi kỵ, e dè, sợ sệt lẫn nhau. Vợ, chồng cha, con, bạn bè, thân tộc, đồng chí luôn nghi ngờ, tố cáo lẫn nhau. Bà con phố, chợ, xóm, làng sợ sệt lẫn nhau gây nên tâm trí toàn dân luôn bất ổn, bất an, hoang mang, ly tán đến cao độ.
Tuy nhiên, một khi đồng bào đã nhận biết được CÔNG LÝ- SỰ THẬT và ngọn lửa yêu nước được khơi dậy từ những điểm bất công bùng lên, thì sự hiệu triệu từ lương tâm con người được hội tụ sẽ thôi thúc hàng vạn, triệu người đồng loạt xuống đường tạo thành một đợt sóng thần cuốn trôi, chôn vùi tất cả những bất công, những rác rưởi tàn dư của chế độ độc tài CS xuống lòng đất.
TỰ DO – DÂN CHỦ là ước mơ và xu thế tất yếu của thời đại, đồng thời là khát vọng cháy bỏng của dân tộc ta. Và, chỉ có một thể chế Tự Do – Dân Chủ mới đảm bảo cho tương lai Việt Nam trường tồn trong Độc Lập – Ấm No – Hạnh Phúc và Phát Triển toàn diện.
Khẩu hiệu trong đấu tranh : Tự Do cho Việt Nam – Dân Chủ cho Việt Nam – Việt Nam Tự Do muôn năm – Việt Nam Tự Do Dân Chủ muôn năm. Độc tài tham nhũng là TỘI ÁC…
Việt Nam Tự Do – Dân Chủ bất diệt !!!
Kính chúc Quý độc giả trong nước, hải ngoại cùng gia đình mạnh khoẻ, phát đạt trong niềm tin một ngày giải thể chế độ độc tài và tất thắng sẽ không xa.
Trần Tỉnh – Lê
Tháng 02-2011