Hoàng Nguyên dịch
Vietnam produces many PhDs and few
inventions
Việt Nam Sãn Xuất Nhiều Tiến Sĩ và Ít Bằng Sáng Chế
VietNamNet Bridge – Vietnam is the country
which has the highest number of doctors in the region and has the lowest number
of scientific research works.
VietnamNet Bridge – Việt Nam là nước có số lượng tiến sĩ cao nhất trong khu vực và có số lượng thấp nhất các công trình nghiên cứu khoa học.
Few scientific research works
Ít công trình nghiên cứu khoa học.
According to the Ministry of Science and Technology (MST),
Vietnam now has 24,300 PhDs and 101,000 masters, with the number of PhDs and
masters increasing by 11.6 percent per annum (7 percent for PhDs and 14 percent
for masters).
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ (MST), Việt Nam hiện có 24.300 tiến sĩ và 101.000 thạc sĩ, với số lượng tiến sĩ và thạc sĩ tăng 11,6% mỗi năm (7% cho tiến sĩ và 14% cho thạc sĩ).
Dr Pham Bich San, Deputy Secretary General of the Vietnam Union
of Science and Technology Associations (VUSTA), said while Vietnam has the most
professors and PhDs in South East Asia, but no Vietnamese university has been
listed in the world’s top 500 universities. The number of scientific articles
of the 90-million-people published on prestigious journals every year is just
equal to the number of articles of one university in Thailand.
Tiến sĩ Phạm Bích San, Phó Tổng Thư ký Liên minh Hiệp hội Khoa học và Kỹ thuật (VUSTA) của Việt Nam, cho biết trong khi Việt Nam có hầu hết các giáo sư và tiến sĩ tại Đông Nam Á, nhưng không có trường đại học Việt Nam nào được liệt kê trong số 500 trường đại học hàng đầu thế giới. Số lượng các bài báo khoa học của 90 triệu người được công bố trên các tạp chí có uy tín hàng năm chỉ bằng số lượng bài viết của một trường đại học ở Thái Lan.
A report of MST showed that in 2006-2010, Vietnam only had 200
patents and utility solutions granted by the National Intellectual Property
Office and five patents registered in the US, which means that Vietnam only had
one patent granted every year. Especially, in 2011, no Vietnamese patent was
registered in the country.
Một báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ (MST) cho thấy, năm 2006-2010, Việt Nam chỉ có 200 bằng sáng chế và các giải pháp thiết thực được Sở Tài Sãn Trí Tuệ quốc gia cấp và 5 bằng sáng chế đăng ký tại Mỹ, có nghĩa là Việt Nam chỉ có một bằng sáng chế được cấp mỗi năm. Đặc biệt, trong
năm 2011, không có bằng sáng chế Việt Nam nào đã được đăng ký trong nước.
Meanwhile, Singapore, a 4.8 million people South East Asian
country had 647 patents, Malaysia 161 patents (27.9 million people), Thailand
53 patents (68 million). The Philippines, which is believed to have the similar
economic development as Vietnam’s, had 27 patents.
Trong khi đó, Singapore, một nước Đông Nam Á có 4,8 triệu dân lại có 647 bằng sáng chế, Mã Lai có 161 bằng sáng chế (27.900.000 người), Thái Lan 53 bằng sáng chế (68 triệu). Philippines, được tin là có kinh tế phát triển tương tự như Việt Nam, có 27 bằng sáng chế.
Dr San said that Vietnam nearly does not have any scientist with
brilliant scientific life-works, i.e. those who have devoted all their lives to
the scientific research and have been recognized by big international prizes.
Tiến sĩ San cho biết rằng Việt Nam gần như không có bất cứ nhà khoa học nào có sự nghiệp khoa học cả đời rực rỡ cả, tức là, những người đã cống hiến tất cả cuộc đời của họ cho các nghiên cứu khoa học và đã được công nhận bởi các giải thưởng quốc tế lớn.
Dr Ho Uy Liem from VUSTA has also noted that Vietnam has never
calculated how many scientific research works have been conducted and how many
percent of the works have been utilized in reality.
Tiến sĩ Hồ Uy Liêm thuộc Hiệp hội Khoa học và Kỹ thuật (VUSTA) cũng đã lưu ý rằng Việt Nam chưa bao giờ tính toán có bao nhiêu công trình nghiên cứu khoa học đã được thực hiện và bao nhiêu phần trăm của các công trình ấy đã được ứng dụng vào thực tế.
Research themes lag behind the world by tens
of years
Các đề tài nghiên cứu tụt hậu so với thế giới hàng chục năm
At a scientific forum organized in October 2005, Dr Dang Xuan
Thi from the Mechanical Engineering Institute said that most of the scientific
research works by that time had just aimed to utilize the world’s inventions
and achievements in Vietnam. Meanwhile, the themes chosen for scientific
research projects by Vietnamese always lagged behind the world by tens of
years.
Tại một diễn đàn khoa học được tổ chức vào tháng 10 năm 2005, Tiến sĩ Đặng Xuân Thị thuộc Viện Kỹ Sư Cơ khí cho biết rằng hầu hết các công trình nghiên cứu khoa học vào thời điểm ấy chỉ nhằm mục đích sử dụng các phát minh và thành tựu của thế giới tại Việt Nam thôi. Trong khi đó, các
chủ đề được lựa chọn cho các dự án nghiên cứu khoa học của người Việt Nam luôn luôn tụt lại phía sau thế giới hàng chục năm.
Regarding the significance of the research works, Dr Thi said
that the number of works which could be utilized in reality just accounted for
several percent of the total works. Ironically, a lot of works were recognized
as “excellent” could not be brought into the life and they have still been left
on the shelf.
Về tầm quan trọng của các công trình nghiên cứu, Tiến sĩ Thi nói rằng số lượng công trình có thể được ứng dụng vào thực tế chỉ chiếm vài phần trăm tổng số các công trình. Trớ trêu thay, rất nhiều công trình đã được công nhận là “tuyệt vời” lại không thể đưa vào cuộc sống được và họ vẫn còn bị bỏ lại trên kệ.
Dr Dao Duy Huan from the HCM City Finance and Marketing
University also said at a workshop in 2010 that the scientific research works
in economics cannot be utilized in reality; therefore, they have been refused
by businesses. This has caused the waste of tens of billions of dong a year to
the state.
Tiến sĩ Đào Duy Huân thuộc Trường Đại học Tài chính và kinh doanh thị trường của thành phố HCM cũng cho biết tại một hội thảo trong năm 2010 rằng các công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực kinh tế không thể sử dụng được trong thực tế, do đó, những công trình đó đã bị các doanh nghiệp từ chối. Điều này đã gây ra sự lãng phí hàng chục tỷ đồng một năm cho nhà nước.
According to Minister of Science and Technology Nguyen Quan,
Vietnam spends two percent of the state budget on science and technology
development every year, estimated at 13 trillion dong.
Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Kỷ Thuật Nguyễn Quân, Việt Nam chi tiêu hai phần trăm của ngân sách nhà nước về phát triển khoa học và kỷ thuật mỗi năm, ước tính khoảng 13000 tỷ đồng.
Of this amount, 90 percent has been spent on investment and
development, and regular expenses, i.e. the sum of money has been paid to feed
the apparatus of research institutes and scientists, or to buy equipment or
machines. The other 10 percent has been spent on research projects.
Trong số này, 90 phần trăm đã được chi cho đầu tư phát triển và chi phí thường xuyên, tức là số tiền đã được trả để nuôi bộ máy của các viện nghiên cứu và các nhà khoa học, hoặc để mua thiết bị, hoặc máy móc. 10% khác đã được chi cho các dự án nghiên cứu.
Quan has also pointed out that Vietnam still cannot mobilize the
grey matter from 400 universities and junior colleges with 7000 PhDs for
scientific development. The lecturers at the universities now only give
lectures, while they do not carry out scientific research as required.
Quan cũng đã chỉ ra rằng Việt Nam vẫn không thể huy động chất xám từ 400 trường đại học và cao đẳng với 7000 tiến sĩ cho phát triển khoa học. Các giảng viên tại các trường đại học chỉ giảng lý thuyết, trong khi họ không thực hiện nghiên cứu khoa học theo yêu cầu.
COMMENT
BÌNH LUẬN
Professor T.K.Raja
Giáo Sư T.K. Raja
Inventions are not made on daily or weekly or monthly or yearly
basis. All inventions and discoveries in science are accidental. No scientist
in the world is working towards Nobel Prize. All noteworthy discoveries in
science were made by very ordinary people who were not well educated
scientists. There is no link between the number of PhDs and the inventions made
in a country. It is always important tnat any scientific finding should serve
the common man and alleviate his sufferings. This kind of socially relevent
research is good enough for all developing countries including Vietnam.
Otherwise the developing countries will be wasting their precious resources in
non-productive researches. This should be avoided at all cost. Professor
T.K.Raja, INDIA.
Sáng chế không được thực hiện trên cơ sở hàng ngày hoặc hàng tuần hoặc hàng tháng hoặc hàng năm. Tất cả các sáng chế và phát minh khoa học là tình cờ. Không có nhà khoa học nào trên thế giới đang làm việc hướng tới giải Nobel cả. Tất cả các khám phá đáng ghi nhận về khoa học đều được thực hiện bởi những người rất bình thường, những người không phải là những nhà khoa học đươc học hành đầy đủ. Không có mối liên hệ giữa số lượng tiến sĩ và những phát minh được thực hiện trong một quốc gia. Điều luôn luôn quan trọng là bất cứ khám phá khoa học nào đều nên phục vụ người bình thường và làm giảm bớt các đau khổ của họ. Không có mối liên hệ giữa số lượng tiến sĩ và những phát minh được thực hiện trong một quốc gia. Nó luôn luôn là quan trọng tnat bất kỳ phát hiện khoa học nên phục vụ người đàn ông thông thường và giảm bớt đau khổ của Người. Loại nghiên cứu có liên quan đến xã hội là đủ tốt cho tất cả các nước đang phát triển kể cả Việt Nam. Nếu không, các nước đang phát triển sẽ được lãng phí nguồn tài nguyên quý giá của họ trong sự nghiệp nghiên cứu. Điều này nên tránh bằng mọi giá nên tránh bằng mọi giá.
Giáo sư T.K.Raja, Ấn Độ.