Trương Vĩnh Ký: Một trí thức buồn
| |
Vietsciences- Hồng Lê Thọ | 01/09/2008 |
MỘT TRÍ THỨC BUỒN
Trước khi qua đời, Pétrus Ký đã để lại những dòng thơ tự sự đầy cảm khái:
“Quanh quanh quẩn quẩn lối đường quai,
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gởi tên: con mọt sách,
Công danh rốt cuộc cái quan tài.
Dạo hòn, lũ kiến mau chơn bước,
Bò xối, côn trùng chắt lưỡi hoài.
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.”
Xô đẩy người vô giữa cuộc đời.
Học thức gởi tên: con mọt sách,
Công danh rốt cuộc cái quan tài.
Dạo hòn, lũ kiến mau chơn bước,
Bò xối, côn trùng chắt lưỡi hoài.
Cuốn sổ bình sanh công với tội,
Tìm nơi thẩm phán để thừa khai.”
MISEREMINI MEI SATEM VOS AMICIC MEI
(Xin hãy thương tôi, ít ra những bạn hữu của tôi)
Rằng tuy ăn ở cùng Tần
Bâng khuâng nhớ Hán muôn phần xót xa
(Trương Vĩnh Ký)
Bâng khuâng nhớ Hán muôn phần xót xa
(Trương Vĩnh Ký)
Sĩ phu yêu nước hay “nàng Kiều” tây học ?
Vốn kiến thức uyên bác qua trên 118 tác phẩm để lại, tuy không phải là kiệt tác hay công trình học thuật độc đáo mà chủ yếu là những khảo sát, đúc kết lịch sử một cách có hệ thống mặc dù về hành văn còn pha trộn biền ngẫu, nhưng về nhiều phương diện, các trước tác của Trương Vĩnh Ký là đóng góp không thể xem thường: lần đầu tiên một tác phẩm sử học về Việt Nam viết bằng tiếng Pháp (Petit Cours d’histoire d’Anam xuất bản 1875/1877) và hai công trình sử học khác viết bằng tiếng Việt là Truyện đất Nam Kỳ lịch sử đàng trong (1864), Đại nam Việt quốc triều sử ký (1879) đều dựa theo những nguồn thư tịch và truyền thuyết cổ, được biên soạn theo phương pháp mới vào thời đó; hàng loạt tác phầm cổ điển của dân tộc bằng chữ Nôm được phiên âm sang quốc ngữ như Truyện Kiều (1875), Lục Vân Tiên, Phan Trần, Lục súc tranh công…nhiều bộ sách dịch Tứ thư, Ngũ Kinh của Trung Quốc…vào buổi bình minh của nền văn chương quốc ngữ ở nửa thế kỷ thứ 19, xứng đáng nâng tác giả lên tầm cỡ “một nhà bác học, một thủy tổ nghề làm báo, một nhà ngôn ngữ học” như nhiều người ca ngợi(1) . Được tiếp xúc với văn hóa phương tây, thông qua việc học trường đào tạo Thầy tu của các Giáo sĩ thừa sai công giáo, phương pháp tư duy của Trương Vĩnh Ký đã chịu ảnh hưởng rất lớn tư tưởng Khai sáng của Âu tây, khác với tư tưởng Khổng Mạnh của hầu hết nhân sĩ nước Việt thời bấy giờ. Chính nguồn gốc xuất thân đặc biệt của ông và cái vốn tây học phong phú nầy đã quyết định thân phận của một người trí thức thuộc địa, day dứt Trương Vĩnh Ký cho đến ngày tàn hơi mà chúng ta đã thấy ở lời thơ trên. Người mà sự nghiệp chính trị (nếu có) và sự nghiệp văn học luôn đứng giữa làn ranh, đôi bờ của những phê phán, khen-chê gay gắt, không tiếc lời từ trăm năm nay kể từ khi Ông qua đời (1/9/1898) đến ngày nay, khi mà tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ hoàn chỉnh, bác học(2) trong đó có phần đóng góp không nhỏ của những trí thức “tây học” như Huỳnh Tịnh Của, Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký …vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.Lê Đình Bảng đã ghi lại những ý kiến khá ấn tượng về Trương Vĩnh Ký, rằng “bên cạnh những hào quang mà người đọc đã tâm phục, đã tôn vinh ông là nhà bác học, nhà văn hóa, nhà ngôn ngữ, nhà Đông phương học, nhà chính trị, nhà ngoại giao…thì trong chừng mực nào đó, Trương Vĩnh Ký lại là “kẻ đưa chân đạp mũi nhọn”, là “cái bia cho người ta vấp phạm” chẳng những bị xóa sổ như người-không-có-công-lênh-gì, mà Trương Vĩnh Ký còn bị lên án, kết tội là một “tên cơ hội, hoạt đầu chính trị, đứa con hoang Nam kỳ gốc La mã; tên học trò ngoan đạo, tay sai, đặc vụ tình báo phục vụ đắc lực cho chủ nghĩa thực dân…”(3) với cái lẽ đơn giản là khi Pháp chiếm Gia Định(1859), “tại sao Trương Vĩnh Ký, một thức giả, một sĩ phu lại khoanh tay đóng vai bàng quan mà không tham gia cứu quốc, mà lại còn trùm chăn, tích cực hoạt động giúp quân địch ? Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn, có khác gì tình báo, chỉ điểm, bày mưu lập kế để giặc chóng đạt mưu đồ xâm lược”(4) . Những ghi chép của Ông trong chuyến đi thăm ở Bắc Kỳ(1876) có phải là bản báo cáo do thám “tiền trạm” cho quân Pháp tiến quân chiếm đóng sau này như từng bị kết tội ?
Nhận xét của Trương Vĩnh Ký về vai trò của chữ quốc ngữ, rằng việc la-tinh hóa tiếng Việt sẽ giúp cho “xứ sở nghèo khốn không được thừa kế nầy…bước vào cộng đồng các dân tộc và hệ quả to lớn mà phương tây đem lại cho thế giới”(5) có khác gì những phát biểu cùng thời và tương tự của Fukuzawa Yukichi trong “Thoát á luận” thời Minh Trị duy tân mở đường phát triển của nước Nhật vào hậu bán thế kỷ thứ 19, chỉ tiếc rằng, khác với Fukuzawa, Ông đã không gặp được một đấng minh quân và hàng quan lại thức thời của triều đình(6), biết lắng nghe gợi ý tâm huyết của quần thần như Minh Trị Thiên hoàng để phò tá … Còn nhiều lời lẽ phê phán gay gắt của nhiều nhà “sử học” viết về Trương Vĩnh Ký như Tô Minh Trung, Trần Huy Liệu(7)… vào những năm 1960 của thế kỷ trước, hay Nguyễn Đắc Xuân, Võ Xuân Đàn… sau nầy theo quan điểm mác-xít máy móc, có chung một lối nhận định, rằng ông là “con đẻ về mặt ý thức của bọn gián điệp đội lốt thầy tu…của chủ nghĩa thực dân xâm lược Pháp…” tuy nhiên theo chúng tôi, đây là một sự áp đặt phi biện chứng, thể hiện một quan điểm hẹp hòi trong phê phán, không đặt đối tượng vào bối cảnh lịch sử và tình huống mà họ đã sống và gặp phải, nghiên cứu theo lối một chiều, quên rằng Chủ nghĩa Mác-Lê Nin được du nhập vào nước ta sau đó gần hơn ba thập niên, kể từ khi đảng Cộng sản Đông Dương ra đời. Nếu áp dụng phương pháp luận nầy, ai không chống Pháp, ở trong “thành” làm việc cho Pháp đều là tay sai của chúng cả sao? Nói khác đi lối chụp mũ “cá mè một lứa” như vậy sẽ không giúp ích gì cho việc tìm hiểu sự phong phú và đa dạng của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, nhất là công cuộc đấu tranh chống Pháp và kháng Mỹ kéo dài hơn một thế kỷ trong đó có những phong trào đấu tranh dưới nhiều dạng thức của nhân dân thành thị sau nầy, một tư duy bao biện máy móc “ai không theo ta là địch” theo kiểu “người làm việc cho Tây, Mỹ đều là kẻ phản động” của chủ nghĩa lý lịch “cách mạng” hẹp hòi. Điều giúp chúng ta phủ nhận sự đánh giá đó, lý giải được tại sao khi toàn dân đứng lên vác tầm vông vạc nhọn chống xâm lăng vào năm 1945, tất cả tượng đồng tưởng niệm thực dân trong thành phố bị triệt hạ thì riêng tên trường học và tượng đài của Trương Vĩnh Ký vẫn còn nguyên vẹn(8), phản ánh tình cảm của nhân dân kính trọng Ông đến thế nào.
Rồi 100 năm sau…nhìn lại
Trở lại với Trương Vĩnh Ký từ thời tấm bé, mồ côi Cha (là một lãnh binh) , mẹ là tín đồ Thiên chúa giáo, vì vậy bị xem là “tội đồ” khi nhà Nguyễn công khai “cấm đạo” buộc Cha ông trốn sang Cao miên và mất ở đây. Có thể nói đây là chính là “thân phận” hay “định mệnh” khắc nghiệt bám đuổi suốt cuộc đời Ông, một mâu thuẫn giữa hiện thực và đạo lý, giữa “ân “ và “oán” luôn dằn vặt và thể hiện rất rõ trong chọn lựa tiến thân của một chàng thanh niên ngoan đạo trước sự đàn áp của một triều đại phong kiến đang suy tàn. Trương Vĩnh Ký được theo các giáo sĩ tây phương ăn học trong một bối cảnh lịch sử vô cùng phức tạp, lúc người Pháp mang chiến thuyền và quân đội sang uy hiếp vua quan Nhà Nguyễn, buộc phải mở cửa giao thương, chấm dứt việc đàn áp người theo Đạo ( Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức đã áp dụng chính sách cứng rắn đối với giáo dân, cấm giao thương với Âu Mỹ, 6 lần ra chiếu cấm đạo từ năm 1848-1861, không cho người công giáo ra làm quan và xử thắt cổ nếu không bỏ đạo theo Chỉ dụ số 13 năm 1860)…đến khi quân Pháp chiếm đóng lục tỉnh ở Nam kỳ, dựa vào hòa ước Nhâm Tuất (1862) sau đó, đặt nền móng thống trị thực dân lâu dài. Thời kỳ mâu thuẩn địch-ta (Pháp và dân tộc Việt) căng thẳng, đối kháng một mất một còn… trên 300 cuộc nổi dậy lớn nhỏ ở khắp nơi (9) chống chế độ cai trị hà khắc, bóc lột đến tận xương tủy của bọn thực dân lẫn vua quan phong kiến đã phản ánh sự hờn căm và uất hận của nhân dân thời bấy giờ, đặc biệt là các phong trào “Bình Tây sát tả”, chống giáo dân quyết liệt hơn cả chống Tây gây ra vấn đề mâu thuẫn lương giáo diễn ra rất gay gắt(10). Chính sự hèn hạ bất lực, không thức thời trước trào lưu của thế giới của vua quan thời nhà Nguyễn, đặc biệt là hoạt động của thương nhân và giáo sĩ phương tây triển khai rầm rộ, lập hệ thống thuộc địa và thống trị thực dân khắp nơi từ thế kỷ 16-17…thì Pétrus Ký, người theo đạo công giáo, đã trở thành một đối tượng luôn bị hoài nghi, tội lỗi—là tay sai của bọn thực dân hay nhà trí thức muốn hòa hoãn, mong Việt nam sống chung trong sự bảo hộ của chúng(11)---mà cả đời Pétrus Ký vẫn không biện minh nổi . Nếu chỉ dựa vào những ghi chép “ báo cáo” thành tích của vài nhân vật thuộc kẻ địch (như đề đốc De la Grandière) trong đó nhắc đến vai trò “hữu dụng” của Trương hay lá thư Ông gửi cho Trung tá Hải quân Jauréguiberry(12) , cầu cứu “ngoại viện” trước việc bị kết tội “theo giặc” để qui chụp Ông đã câu kết với thực dân để đồng hóa dân tộc trong hệ thống cai trị (chính trị lẫn văn hóa) của Pháp liệu có thỏa đáng không ? Lúc triều đình nhà Nguyễn (vua Tự Đức) cử Phan Thanh Giản sang Pháp(1863) để đàm phán “chuộc” lại ba tỉnh miền đông không thành, cho rằng Ông đã bị mua chuộc hay lung lạc thậm chí qui chụp là “tình báo” chỉ vì là thông ngôn cho phía Pháp !(13) . Thời gian Trương Vĩnh Ký làm việc cho vua Đồng Khánh ở Huế, người “tốt” với Trương như Paul Bert(a), luôn phụ họa với những suy nghĩ của Ông trong mấy tháng đầu nhưng Trương vẫn bị bọn “xấu” như Paulin Vial--- là giám đốc Nội vụ, cấp trên của Trương Vĩnh Ký ở Nam-kỳ(14)--- không ưa, luôn tìm cách đố kị dèm pha, nghi ngờ , chống đối ra mặt(b). Há Ông đã nhiều lần nói “ ta làm việc cho họ nhưng không theo họ” và thực tế đã chứng minh điều đó khi nhận chức vụ Đốc Học(Hiệu trưởng) Trường Thông ngôn(Collège des Interprêtes) hay Thầy giáo trường Quản trị Tập sự (Collège des Administrateurs Stagières) lẫn lúc rút về Nam sống ẩn dật đó sao. Những huy chương mà nhà nước Pháp trao tặng (Bắc đẩu Bội tinh…), những chức tước (hàm quan-Hàn lâm Thị Giảng học sĩ để dạy Vua học tiếng Pháp hay biệt hiệu Nam Trung Ẩn sĩ và khi trở về Nam, Kim Khánh Bội Tinh và Chức hàm Lễ Bộ Thượng Thư (theo Trương Vĩnh Lễ - Việt Nam, Đâu là sự thật- Où est la vérité ?) của Đồng Khánh ban cho Ông là gì ?(c). Bên nào cũng “tưởng thưởng” cho Ông huy chương hay hàm tước vinh danh để kéo Ông nghiêng hẳn về phía họ…nhưng nếu nhìn vào cuộc sống bệnh tật, nghèo túng của Trương Vĩnh Ký thì rõ ràng Ông đã bị cả hai phía ruồng rẫy vào những ngày cuối đời, cho thấy những lập luận nầy không chính xác, hay quá ư khắt khe. Nếu như thế thì Trương Vĩnh Ký đã có dinh cơ kèm theo chức tước đem lại quyền lợi cụ thể và một cuộc sống đầy đủ sung túc, hơn cả người bình thường vì khả năng đóng góp “to lớn” của Ông(d).Thực tế, cuộc sống “vinh thân, phì gia” hoàn toàn xa lạ đối với Trương. Trong một bức thư gửi bác sĩ Chavannes ngày 8/4/1887, Ông viết “…về danh vọng thì nó không còn quyến rũ được con sư tử già bị đè nặng dưới niềm chua chát…” , còn với vợ mình ( Bà Vương Thị Thọ) Ông tâm sự như trăn trối ” Mọi việc tôi làm còn lưu lại đó. Việc đúng, việc sai hãy để cho đời phán xét, đời nầy chưa tỏ thì đời sau tiếp tục…Trong sáng như cụ Nguyễn Du mà còn phải kêu lên không biết 300 năm sau có ai hiểu được mình huống gì thân phận tôi ! Nếu tôi ra đi trước, bà nhắc con cháu là cả đời tôi cần mẫn, chăm chút để lại cho chúng toàn là sách….”(15)
Vậy Pétrus Ký là ai, một trí thức đau khổ của thời cuộc, của một dân tộc trong chế độ phong kiến suy tàn nằm dưới gọng kìm của đế quốc sài lang ? Trong cuộc trao đổi với Paul Bert trên đường ra kinh thành Huế vào tháng 4/1886, trên tàu thủy, Trương đã phê phán:
“Nhiều lần tôi có nói với thống đốc, những người kháng cự họ có lý do vì chủ nghĩa yêu nước của họ. Một là sự thù hằn đối với đám người theo đạo mà họ coi là những người chạy qua hàng ngũ người Pháp làm chỉ điểm, dẫn đường. Hai là sự ngờ vực sự tráo trở như úp ngửa bàn tay, coi mình như những ông chủ của nhà nước An Nam. Họ có mặt khắp nơi trong thành quách bị chiếm đóng, họ đuổi quan An Nam ra khỏi nha môn, và khi ấy mấy ông quan này mất hết quyền thế, phẫn uất mà hút gió thổi bùng lên ngọn lửa kháng cự”(16).
Và rằng:
“Người ta trách Đại nhân xài quá nhiều tiền và đã đem nhiều người từ Pháp sang, vào thẳng bộ máy của Đại nhân, nhưng họ ngơ ngáo trước công việc của bổn xứ, trong khi có bao nhiêu người Nam kỳ có tài, ngồi đó, không ai coi ra gì Người ta luận xét, Đại nhân có chính sách thiên vị và không để tâm về phía Nhà nước. Tôi mong các nhà Giám sát ghé mắt.”(17)
Thử hỏi một tên “tay sai” hay “siêu Việt gian” , đáng bị “đời đời nguyền rủa” (chữ dùng của Nguyễn Đắc Xuân, xem chú thích 12 & 22) có thể nói với người “chủ” của mình như thế không ? Đau đớn thay cho Trương Vĩnh Ký khi phải hứng chịu những lời lẽ thô bạo như vậy.
Tiêu chí của lòng yêu nước không chỉ có một
Qua những trước tác về lịch sử, văn hóa, báo chí của Ông mà ta đọc được ngày nay thì có thể nói những lời qui kết của cả hai phía đều không thỏa đáng. Phải chăng vì Trương Vĩnh Ký không tham gia vào các phong trào chiến đấu của tầng lớp sĩ phu trong khởi nghĩa Yên Thế, chiến lũy Bãi Sậy(1885-1889), khởi nghĩa Văn Thân (1878), Phan đình Phùng… hay phong trào Cần vương theo Vua Hàm Nghi mà ta có thể qui tội cho Ông ? Đành rằng đây là phong trào kháng Pháp, phò vị vua yêu nước quyết liệt, không những hàng vạn người bị chúng cầm tù, tàn sát, truy diệt--- trong đó ba vị Vua nhà Nguyễn đã bị lưu đày tận đảo ở Châu Phi---và đã thất bại hoàn toàn khuất phục trước họng súng của thực dân Pháp. Ngay chủ trương “Pháp việt đề huề” sau nầy cũng đã làm tê liệt Phan Chu Trinh, biến Phan bội Châu thành “ông già bến Ngự”…cho thấy thủ đoạn của bọn thực dân nham hiểm và cay độc với tầng lớp sĩ phu đến nhường nào. Trong tình thế như vậy Trương Vĩnh Ký dù có “yêu nước”, sớm giác ngộ nhận thức về độc lập dân tộc đến mấy cũng phải ngậm ngùi. Đã có bao sĩ phu khác trong các phong trào yêu nước đấu tranh bằng vũ lực như sự kiện “Đầu độc Hà Thành”(1908),“Tiếng bom Sa Diện”(1924) của Phạm Hồng Thái, Khởi nghĩa Yên Bái(1930) trong phong trào Quốc dân đảng sau nầy đã bị quân đội Pháp đưa lên máy chém , tù đày ở Côn Lôn, Phú Quốc và các vùng đất đảo xa xôi tận Châu Phi như chúng ta đã biết.
Tiếc thay, quan điểm đánh giá những nhân vật trong lịch sử kháng Pháp vào hậu bán thế kỷ 19 ở nước ta vẫn còn loay hoay trên một nhận thức kinh điển bao biện, xem “kháng cự (sự đề kháng) như một thước đo phẩm hạnh cũng bao hàm những nguy cơ xuyên tạc nghiêm trọng tương tự” nếu theo lời “cáo” nổi tiếng từ thế kỷ 15 “hào kiệt đời nào cũng có”( Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi)…thì đánh giá nầy cũng có thể áp dụng cho thế kỷ 19(18). Hai chữ “hào kiệt” ở đây đâu chỉ là người cầm gậy gộc, tầm vông chiến đấu với quân thù mà thôi. Chính việc lấy “kháng cự”(bằng vũ lực) làm “tiêu chí” nầy đã phủ lấp mặt tích cực của một trí thức yêu nước, một sĩ phu uyên bác nhưng chất chứa nhiều mâu thuẫn của một thời kỳ đen tối của dân tộc, thậm chí còn chụp lên Ông—một con chiên của Ki tô giáo-- vai trò của một Việt gian(19) mà cơ sở “phán xét” của nó là dựa vào những cuốn sách mỵ dân, bịt mắt người đọc, lẫn lộn “chính”, “tà” của phía mà Trương Vĩnh Ký cộng tác(20) hay chọn lựa những câu chữ cắt xén từ những tài liệu lưu trữ ở Sở Văn khố thuộc địa Pháp theo một ý đồ chính trị đã có sẵn.
Hãy nghe lý lẽ mà Trương Vĩnh Ký đã từ chối quốc tịch Pháp lẫn ân huệ khác của chính quyền thực dân, nói lên nỗi niềm bất hạnh nầy:
“Nước Nam ta tổ tiên Hồng lạc…gia phả truyền lại bồn ngàn năm nay, nhứt đán ta dân tịch theo Tây, phục sắc theo Tây, biến hết làm Tây, không còn cái dấu tích chi là người nam nữa, đó là loài Tịch đàm vong tổ, rồi tới đời con cháu ta nó theo gia phả mới của ta mà đốt quách cái gia phả cũ của tổ tiên, quên đứt là người nam, thì giống ta còn cũng như mất, mà cái cơn diệt chủng tự ta treo lên trước…Người ta sẽ cho tôi là nhu nhược, nhút nhát; tôi đã làm như vậy vì tôi sợ muốn thoát thân ra khỏi một hoàn cảnh khó khăn. Vào dân tây tôi sẽ mất hết uy tín, uy lực của tôi và đã mất hết tín nhiệm của Vua, của triều đình và của đồng bào tôi. Không lý trời sanh tôi ra là con quạ, bây giờ biểu thì một hai nói tôi là con cò sao đặng ? Nên là điều trái tự nhiên hết sức”(21)
Mấy lời kết
Ngồi bên cạnh ngôi mộ Trương Vĩnh Ký vắng lạnh, điêu tàn và lặng lẽ trên mãnh đất của gia đình người vợ ông ở góc đường Trần Bình Trọng và Trần Hưng Đạo (quận 5, TPHCM), trong căn lều bán bia và ốc”núi” luộc(đặc sản của vùng núi Tây Ninh) lụp xụp, nghèo nàn của người cháu nội năm đời của ông trong khuôn viên vào một buổi chiều cuối tháng 7 năm 2008, chúng tôi ngậm ngùi biết bao dù biết rằng Ông đã yên giấc từ trăm năm nay, để lại cho thế hệ đời sau những công trình và tư liệu mà hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi về mặt học thuật cũng như tồn tại mối nghi ngờ về thái độ và hợp tác của Trương Vĩnh Ký với cả hai phía, Pháp và triều đình nhà Nguyễn chưa được xóa tan. Thời gian ngắn ngủi bên cạnh Vua Đồng Khánh(22) và Toàn quyền(Khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ) Paul Bert của Ông đã bị một số nhà nghiên cứu qui kết tội làm “tay sai”, ”phản quốc”… mà không thấy ngay bản thân Trương Vĩnh Ký cũng đã bị Paul Bert— thống đốc toàn quyền của bộ máy cai trị thực dân, người bạn hiểu Ông nhất-- “trở giọng” vì chủ trương siết chặt thuộc địa bằng sức mạnh quân sự của Hoàng đế “chính quốc”. Trước sự ép buộc và cưỡng chế lộ liễu thực hiện chính sách phân chia Việt nam làm ba phần (Nam, Trung, Bắc kỳ) trong khi Ông đang ra sức thuyết phục Paul Bert và bênh vực Vua Đồng Khánh--- mặc dù hàng ngũ quan lại trong triều vẫn khư khư phủ nhận Trương--- phản đối việc bó hẹp ảnh hưởng của triều đình trong chính sách “chia để trị” của nhà cầm quyền thực dân, thì giới quân đội trong hàng ngũ thống trị thuộc địa đã gây sức ép(23) đè nặng lên Ông sau khi Paul Bert đột ngột qua đời ( ngày 11/ 11/1886). Trương Vĩnh Ký thất vọng đắng cay và “tỉnh ngộ” trong việc hợp tác với Pháp(24), tìm cách lui về Nam sống ẩn dật(25) và biên soạn sách vở cho hậu thế với tất cả tâm huyết và tài năng.
Chúng ta có thể thấy lối nhận định “phê phán” của một số nhà sử học phát xuất từ định kiến hay ý đồ chính trị với một cách nhìn hằn học, phiến diện, sai lệch, thiếu chiều sâu về một giòng lịch sử chống quân xâm lược vô cùng phong phú của dân tộc ta, phủ nhận công lao của tầng lớp trí thức, sĩ phu. Nói khác đi, cuộc chiến đấu để bảo vệ tổ quốc không chỉ có những nông dân, sĩ phu kể cả hàng ngũ quan lại… đứng lên cầm súng, tuốt gươm, vác tầm vông, xây chiến lũy chống giặc mà còn có những con người khiêm tốn, thủy chung âm thầm đóng góp và chịu nhiều hàm oan khắc nghiệt giữa hai gọng kìm thực dân lẫn phong kiến như Trương Vĩnh Ký, một kẻ sĩ thức thời Việt nam trước thời cuộc trong thế kỷ thứ 19.(26)
”Ở với họ mà không theo họ”
(Sic Vos Non Vobis)(27)
Hồng Lê Thọ
7/2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét