-
Trong lãnh vực thương mại, khi muốn bán được những hàng hóa người ta thường hay quảng cáo qua những phương tiện truyền thông, từ tờ giấy in, báo chí, truyến hình, phim ảnh, mạng v.v., ngay cả rỉ tai đến những người mới quen biết. Tuy nhiên, có một biệt lệ riêng trong vấn đề thương mại là “không nên quảng cáo” nhưng vẫn thu được lợi, mà lại là món lợi to lớn hơn những danh hiệu nổi tiếng khác. Biệt lệ đó chỉ dành riêng trong thị trường “bán nước”.
Trong thị trường đó, nếu nhiều người biết đến, thì không thể phát triển vấn đề trao đổi mua bán giữa hai đối tác chính; nên cần sự bí mật, giữ kín, và làm sai lạc cảm nhận về thông tin đối với người tiêu thụ. Hay nói đúng ra, họ là những người “phải chịu tiêu thụ” vì không thể có sự lựa chọn nào khác. Và không những thế, họ phải tỏ ra rất hài lòng với những sản phẩm được cung cấp theo quy hoạch một cách có hệ thống. Một khi những sản phẩm đó được tung ra rộng rãi, những hội đoàn bên trong thị trường đó rầm rộ phát động những phong trào tuyên truyền quảng cáo một cách tích cực. Người tiêu thụ bị thu hút quay cuồng như lạc vào con xoáy, và càng lúc càng mê mẩn tâm thần hơn, như đang say thuốc phiện hay bạch phiến. Cái ảo tưởng tuyệt vời đó vẫn tồn tại lâu dài từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, họ hồ hởi thi nhau hưởng thụ và cổ động những ai chưa biết qua, trong cũng như ngoài nước.
Quả thật đó là một sự thành công lợi lộc nhất trong lãnh vực thị trường bán nước, mà đảng đang tận dụng rất điêu luyện. Đó là cả một thời gian dài trong kinh nghiệm và học hỏi từ các nước “bạn” như Liên Sô, Trung Cộng. Để có thể hiểu và nhìn thấy qua một góc nhìn nhỏ nhoi nhất, chúng ta thử xem lại câu phát biểu của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, bên lề cuộc Đối thoại với báo chí tại Hội nghị An ninh châu Á – Thái Bình Dương lần thứ 10 (Đối thoại Shangri-La 10) tổ chức tại Singapore, trong bản tin của http://vietbao.vn, “Tướng Nguyễn Chí Vịnh nói về đề nghị thay tên biển Đông” ra ngày Thứ hai, 06 Tháng sáu 2011:
“Tôi khẳng định, Việt Nam không hoạt động ở những vùng biển đang tranh chấp. Đó là những vùng hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam. Ví dụ như vụ việc của tàu Bình Minh 02, ngay sau khi sự việc xảy ra, tàu đã khắc phục sự cố và tiếp tục hoạt động thăm dò. Hải quân nhân dân Việt Nam có nhiệm vụ bảo vệ vùng trời, vùng biển của Việt Nam. Tuy nhiên, những vụ việc liên quan tới trách nhiệm dân sự, sẽ do những cơ quan pháp luật giải quyết vấn đề này”.
Nếu những vùng biển đang tranh chấp đó hoàn toàn thuộc chủ quyền Việt Nam (VN), thì tại sao VN không thể hoạt động ở những nơi đó ? Hoạt động không có nghĩa là phải đưa quân đội ra dàn trận; như thế chỉ làm nhọc công bộ đội hải quân, và nhất là đến vị Thứ trưởng Quốc phòng, lại bị hiểu lầm là hiếu chiến. Và nếu xét sự việc dây cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02 bị tàu Trung cộng cắt là chỉ là vấn đề dân sự, thì có phải chăng tập đoàn dầu khí VN hoàn toàn không có sự đầu tư của nhà cầm quyền VN ? Vì lý do đó, sự xét xử là do cơ quan pháp luật… dân sự giải quyết (?) thì không cần đem cái luật UNCLOS quốc tế ra bàn cãi chi cho mệt. Mà có gì phải đem cái luật quốc tế đó ra, khi thị trường bán nước đang quan hệ tốt. Đó có phải là một sự nhìn nhận mặc nhiên quyền sở hữu của trung cộng trước thế giới, dù chưa có văn bản nghị quyết ? Điều nầy cũng đã cho biết tại sao những con thuyền của ngư dân luôn bị bắt bớ, phá vỡ, thậm chí họ bị giết chết, cũng chỉ là vấn đề… dân sự với Trung cộng; nên không bao giờ có sự bao che, bảo vệ hay tiềng nói phản đồi từ quân đội hải quân VN.
Trong thương trường, dịch vụ làm vừa lòng người mua luôn là điểm quan trọng. Sự phục vụ đó bày tỏ lòng hiếu khách, cũng như mua chuộc sự mến mộ, ưa thích của đối phương. Thí dụ, khi khách đặt mua vài ngàn áo lông mắc tiền, và yêu cầu nhãn hiệu trên đó là của công ty nhập hàng. Qua thương lượng vì lợi ích giữa hai bên, nên khách hàng được như ý. Và điều nầy cũng không ngoại lệ trong thị trường bán nước, mà chúng ta có thể hiểu qua lời phát biểu trước đó của vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng qua câu hỏi của báo chí theo nguyên văn như sau:
- (Phóng viên):” Tôi được biết một nhóm người Việt ở Ca-li-pho-ni-a (Mỹ) có vận động đề nghị đổi tên Biển Đông mà tiếng Anh là South China Sea (biển Hoa Nam) thành Southeast Asia Sea (biển Đông Nam Á). Tôi thắc mắc, liệu đây có phải là nguyện vọng chung của toàn dân Việt Nam?”
(Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) : “Cùng một vùng biển, Trung Quốc gọi biển Hoa Nam, chúng tôi gọi Biển Đông. Đó chỉ là cái tên gọi. Còn đề nghị từ một nhóm người Việt Nam nào thì tôi cho đó cũng là xuất phát từ lòng yêu nước, nhưng tôi không cho đấy là một vấn đề lớn. Tôi không cho đó là nguyện vọng chung của Việt Nam. Việt Nam chỉ có một nguyện vọng là vùng biển nào theo luật pháp quốc tế là của Việt Nam thì phải được thừa nhận là lãnh thổ Việt Nam.”
Chắc chắn một điều là vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ta, nghe và hiểu được câu tiếng Anh “South China Sea”, vì với cương vị đó, không ai dám nói vị Thứ trưởng… không biết đến một tên gọi thông thường trên bản đồ thế giới như thế. Hai chữ “thông thường” ở đây có nghĩa là hàng chữ “South China Sea” luôn luôn được viết trên bản đồ, theo thói quen tên gọi của Tây phương để chỉ về một vùng biển trong vùng Đông Dương, mà không có hàm chứa ý nghĩa nào về chủ quyền thuộc về Trung Quốc (hay trung cộng theo tên gọi hôm nay). Tuy nhiên, không bao giờ thấy hai chữ “Biển Đông” – được dịch ra là “Southeast Asia Sea” – trên bất kỳ bản đồ thế giới nào.
Dĩ nhiên, dân Việt Nam muốn gọi tên vùng biển đó ra sao cũng được, hay dân Trung Quốc gọi thế nào cũng chẳng sao, như vị Thứ trưởng nói ở trên. Nhưng vấn đề trong câu hỏi không phải chỉ đơn giản như vị Thứ trưởng đã nghĩ như thế, mà là vấn đề xác minh lại tên gọi trong tất cả bản đồ trên thế giới, khắp mọi nước, trong tất cả học viện, giáo dục, nghiên cứu khoa học, kinh tế, luật, hành chánh, v.v. Đó là một nghị định ảnh hưởng sâu rộng theo chiều dài lịch sử của nhân loại và tương lai. Một sự thay đổi nhận thức đúng ý nghĩa theo tên gọi vùng biển đó, không chỉ giới hạn trong hai nước Việt Nam và Trung Quốc qua nhiều thế hệ sau nầy. Hơn nữa, dòng chữ “Southeast Asia Sea” được dịch lại theo xác chữ và nghĩa của hai từ “Biển Đông” – như theo ý muốn tên gọi mà Thứ trưởng muốn – hơn là “South China Sea”:
Thứ nhất, trong dòng chữ “South China Sea” không có chữ nào có nghĩa hướng Đông (East). Thứ hai, nó mang chữ “China” (Trung Quốc) lại càng làm sai lạc hai từ “Biển Đông”. Thứ ba, trong dòng chữ “Southeast Asia Sea” chỉ định rõ phương hướng vùng biển đó qua từ “Southeast” (Đông Nam) và xác minh vị trí trong vùng Á Châu qua từ “Asia” (Á Châu). Cũng như danh từ “Đông Nam Á” (Southeast Asia) tự nó đã nói lên ý nghĩa chính xác nhất theo địa lý, mà dân Việt Nam, cả người ngoại quốc, đang dùng trong sách.
Đi xa hơn nữa, khi dòng chữ “South China Sea” được Trung cộng dùng như một lợi khí trong vấn đề tranh chấp chủ quyền biển Đông. Họ dựa vào đó và lý luận rằng vùng biển Đông đã được quốc tế hoá sự nhìn nhận chủ quyền thuộc về Trung cộng, với chữ “China” trong dòng chữ trên, dù không có văn bản chính thức. Để bày tỏ sự phản đối từ phía VN nói riêng, và cộng đồng khối ASEAN nói chung, nghị định thay đổi nêu trên cũng là một phương diện về mặt tâm lý chống lại sự đòi hỏi chủ quyền phi lý của Trung cộng. Và nếu được quốc tế nhìn nhận, thì đó cũng là một bước thắng lợi trong vấn đề tranh chấp.
Chữ “nếu” sở dĩ được đưa ra vì vị Thứ trưởng cho là nghị định thay đổi đó không phải là nguyện vọng chung của VN, dù nhà cầm quyền chưa bao giờ công bố và thăm dò dân ý. Có nghĩa, đảng đã quyết định dùm dân về nguyện vọng đó. Có lẽ, cũng chỉ vì nghị định đó là do… nhóm người Việt bên Cali nào đó, đã “cả gan” đưa ra mà không tham khảo ý và thông qua lệnh đảng, nên dù là một ý kiến hay, “xuất phát từ lòng yêu nước” (như vị Thứ trưởng nói), thì chẳng bao giờ được đảng nhất trí. Đó chỉ là nghị định của nhóm Việt “tài lanh” xen vào việc đảng! Không phải là đảng luôn giáo dục nhân dân qua câu nói “đừng lo, cứ để nhà nước lo” được lập đi lập lại từ trên thông suốt tận cùng quần chúng sao?
Trở lại vấn đề thương trường và nhãn hiệu qua thí dụ trên. Khách hàng Trung cộng trong thị trường bán nước, muốn giữ lại cái nhãn hiệu mà họ ưa thích nhất là “South China Sea” để phủ trùm những vùng hải đảo Hoàng Sa, Trường Sa, mà chúng là sản phẩm của VN. Vì vậy, VN luôn phải làm vừa lòng người khách trong chủ trương “cùng nhau phát triển”. Tuy nhiên, trên mạng vnexpress.net, ra ngày Thứ tư, 29/6/2011, với tiêu đề “Học giả Việt Nam nói về Biển Đông trên truyền hình Trung Quốc”, đăng lại nội dung của chính tác giả là tiến sĩ Vũ Cao Phan, về những đối đáp của ông với phỏng vấn viên Đài truyền hình Phượng Hoàng, Hong Kong, Trung Quốc, có đoạn như sau :
- (Phỏng vấn viên) : “Bản chất của sự tranh chấp Trung – Việt, theo ông, là vấn đề kinh tế hay chủ quyền? Việt Nam nhìn nhận nguyên tắc “gác tranh chấp, cùng khai thác” như thế nào?”
(Ts Vũ Cao Phan) : “Đây là một câu hỏi thú vị. Các sự kiện ở Biển Đông cho thấy có cả màu sắc tranh chấp về kinh tế lẫn tranh chấp chủ quyền. Quan sát khách quan thì thấy Trung Quốc có vẻ nghiêng về lý do kinh tế, còn Việt Nam nghiêng về lý do chủ quyền nhiều hơn. Cách nhìn vấn đề như vậy sẽ giải thích được tại sao Việt Nam không mặn mà lắm với việc “gác tranh chấp, cùng khai thác”.
Ta thử phân tích xem tại sao nhé. Và đây là ý kiến của cá nhân tôi thôi. Lý do thứ nhất là tài nguyên thì có hạn, một khi khai thác hết rồi điều gì sẽ xảy ra? Liên quan đến nó là lý do thứ hai: “gác tranh chấp, cùng khai thác” mà các bạn vừa nêu mới chỉ là một nửa lời căn dặn của ông Đặng Tiểu Bình mà nguyên văn là: “Chủ quyền của ta, gác tranh chấp, cùng khai thác”, có đúng không? Như thế có nghĩa là khi đã cạn kiệt tài nguyên khai thác rồi, Việt Nam chẳng còn gì và Trung Quốc thì vẫn còn cái cơ bản là “chủ quyền”! Mà những hòn đảo và vùng biển ấy đâu chỉ có giá trị về tài nguyên?”
Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng đã khẳng định theo đường lối đảng, như những cấp lãnh đạo khác, là Việt Nam theo đuổi chính sách giải quyết căng thẳng bằng đối thoại hòa bình. Qua bài viết trên http://vietbao.vn, với tiêu đề “Tướng Vịnh: Nếu bạo lực vũ trang thì QĐ sẽ tham gia”, ra ngày Chủ nhật, 05 Tháng sáu 2011, cũng trong cuộc phỏng vấn với báo chí tại diễn đàn an ninh châu Á – Thái Bình Dương ở Singapore,
- (Phóng viên) : “Thưa Trung tướng, trong tất cả các cuộc họp từ khi diễn đàn khai mạc tới nay, vấn đề biển Đông luôn được nhắc đến với hàm ý không đồng tình về sự vô lý của Trung Quốc (TQ). Ông có nghĩ rằng, ngay tại hoặc sau diễn đàn, TQ sẽ có những điều chỉnh phù hợp?”
(Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) : ” … Tiếng nói của cộng đồng quốc tế tại đây, theo tôi hiểu, là họ nói vấn đề chung đó, rằng đây là “sân” chung, trước hết phải tôn trọng chủ quyền của các nước theo luật pháp quốc tế, không ai được quyền giữ làm “sân” riêng của mình, không ai được quyền khống chế biển Đông, không ai được quyền tài phán ở các khu vực tranh chấp.
Tôi nhắc lại, đưa ra tòa án quốc tế cũng là một lựa chọn. Nhưng trước hết và sau cùng vẫn là giải quyết với TQ. Và vì vậy, sự lựa chọn của Đảng và Nhà nước ta sẽ giải quyết được vấn đề, dù là rất lâu dài.
Trước hết, TQ đâm tàu, cắt cáp của ta, ta phản đối, đòi bồi thường, sửa xong ta lại tiếp tục thăm dò ở chỗ ấy, ta có bỏ chỗ ấy đâu!”
Vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng dường như… hay “quên” những gì đã phát biểu trước đó, làm người đọc thêm nhiều nghi vấn, hay là vị Thiếu tướng ta chưa có một định kiến rõ ràng về vấn đề chủ quyền vùng quần đảo, nên lúc bấy giờ còn xem đó chỉ là “sân” chung (?), và tin tưởng trong vấn đề giải quyết song phương với Trung cộng, như là sự thương lượng mặc cả trong thương trường, kẻ bán người mua, kẻ trao người đổi, thêm hai bớt một, hơn là đưa ra trước quốc tế phân giải. Trong những “gặt hái” vừa qua, giữa những thương lượng song phương với Trung cộng, từ Hiệp ước biên giới (30/12/1999) đến Hiệp định Vịnh Bắc bộ (25/12/2000), đảng đã “chia sẻ” với Trung cộng bằng những dãy đất, và thác “biếu không”, và Vịnh Long Vĩ cũng “nhờ” nước bạn giữ hộ, bao gồm vùng đánh cá đặc quyền của VN.
Sự quấy phá tàu Bình Minh 02 từ phía Trung cộng, được xem như là một sự “lầm lẫn” nào đó, “vô tình” gây nên sự bức xúc từ dư luận VN. Đó không phải là một sự sỉ nhục về thể diện quốc gia, như bọn “kích động” hay rêu rao, lợi dụng thời cơ phá hoại, bôi nhọ “16 chữ vàng”. Đảng cũng đã lên tiếng… than phiền nước bạn bằng văn thư, như một biện pháp phản đối đủ tích cực (“…Tóm lại, tôi muốn nói, hãy nhìn sự kiện 26/5 một cách tích cực về phía VN”), vì kèm theo đó, là sự đòi hòi bồi thường (dù Trung cộng không buồn trả lời VN, hay nói đúng hơn là không thèm điếm xỉa đến văn thư đó).
Để minh chứng cho thái độ của mình, nên ngày 9/6/2011, Trung cộng lại tái diễn màn cắt dây cáp thăm dò dầu khí của tàu Viking II phía VN mướn, trước mặt vị thuyền trưởng ngoại quốc, với một kỹ thuật điêu luyện hơn lần trước.
(Xin được ngừng lại ở đây để nhảy đến phần kết luận một cách vội vã hơn, vì nếu viết thêm, chắc chắn sẽ dài hơn 10 trang, và vì còn quá nhiều chi tiết khó có thể khơi ra hết trong vài ngàn chữ. Và nhất là khiến bạn đọc mệt mỏi)
Thị trường bán nước luôn nóng bỏng, dù nó được che đậy rất kín đáo bằng nhiều hình thức khác nhau tùy theo tình hình thay đổi, và qua những ngữ vựng được sử dụng một cách khéo léo trong những lời phát biểu trước báo chí, để đánh lạc hướng những cái nhìn dư luận, và sự tò mò của những kẻ phản động. Thật ra, thị trường nầy đã hình thành từ lâu đời, để thoả mãn vấn đề cung cầu. Vì vậy dù hình thức có nhiều thay đổi, nhưng trong cùng mục đích là làm sao thu được nhiều lợi nhất, qua bản chất vẫn giống nhau là bán nước.
© Hành Khất
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét