Ðập thủy điện Sơn La đang nứt dần: Ai chịu trách nhiệm khi 15 triệu người miền Bắc thiệt mạng trong đại hồng thủy CS gây nên?
Gia Ðịnh
Trong một báo cáo vừa được gửi đến ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng CSVN, hội đồng nghiệm thu các công trình xây dựng quốc gia chính thức thông báo “có nhiều vết nứt tại đập không tràn bờ của công trình thủy điện Sơn La”. Những vết nứt này xuất hiện tại cả hai đập không tràn bên bờ trái lẫn bờ phải.
Thông tin kể trên làm dư luận rúng động và có vẻ những cảnh báo cách nay vài năm về một “đại thảm họa”, có nguồn gốc từ Thủy điện Sơn La, sẽ đến sớm hơn dự kiến...
Cấm bàn lui: Ðã ngu muội lại ngông cuồng
Năm 1999, Tập Ðoàn Ðiện Lực Việt Nam (EVN) bắt đầu tiến hành khảo sát để lập dự án xây dựng công trình thủy điện Sơn La. Thủy điện Sơn La là một phần trong hệ thống thủy điện bậc thang trên sông Ðà. Trước đó, chính quyền CSVN từng cho chặn đoạn giữa của sông Ðà làm thủy điện Hòa Bình. Với dự án thủy điện Sơn La, sông Ðà sẽ bị chặn thêm một lần nữa ở đoạn phía trên thủy điện Hòa Bình để lập nhà máy thủy điện Sơn La.
Khi dự án được đệ trình, trên giấy tờ, thủy điện Sơn La trở thành nhà máy thủy điện lớn nhất Ðông Nam Á (hồ chứa nước có diện tích 224 km2, dung tích 9.26 tỉ khối nước, công suất 2 400 MW, sản lượng điện 9.429 tỉ kWh/năm, tổng vốn đầu tư là 42,476 tỉ đồng - khoảng 2.5 tỉ USD). Ðể thực hiện công trình khổng lồ đó, sẽ có 19,669 gia đình, với trên 100,000 dân, cư trú tại ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, Ðiện Biên (đa số là người thiểu số) bị buộc phải chuyển đi nơi khác.
Dù được quảng bá rằng sẽ tăng thêm nguồn điện, giảm lũ trong mùa mưa, cấp thêm nước cho đồng bằng sông Hồng trong mùa khô nhưng dự án xây dựng công trình thủy điện Sơn La tạo ra nhiều âu lo hơn là sự vui mừng.
Kể từ khi dự án xây dựng công trình thủy điện Sơn La được công bố, giới khoa học trong và ngoài nước đã cùng lên tiếng cảnh báo liên tục về một đại thảm họa, tác động nghiêm trọng tới kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như tương lai Việt Nam để kêu gọi chính quyền CSVN phủ quyết dự án...
Theo các chuyên gia, Sơn La nằm trong khu vực có thể bị động đất rất mạnh. Ngoài động đất trong tự nhiên, các hồ chứa nước lớn còn là nguyên nhân tạo ra những cơn địa chấn khi chúng bắt đầu tích nước (trường hợp đập Kremasta ở Hy Lạp năm 1966, đập Koyna ở Ấn Ðộ năm 1967,...). Song hành với động đất, hồ chứa nước của thủy điện Sơn La còn bị đe dọa bởi những trận lũ bất thường, khó dự đoán. Bên cạnh đó, hồ chứa nước của thủy điện Sơn La còn tạo ra vô số tác động bất lợi đến môi trường: thay đổi về vi khí hậu, hệ động vật, hệ thực vật, đất bị trượt, vận tải chất rắn, suy giảm chất lượng nước, bệnh sốt rét, bệnh Bilharziose (tên một bác sĩ người Ðức, đã khám phá loại vi trùng độc hại này ở các hồ chứa nước). Chưa kể cuộc sống, sinh hoạt của hàng trăm ngàn người sẽ bị xáo trộn hoàn toàn.
Trong bối cảnh, đa số các trung tâm đông dân cư ở vùng châu thổ sông Hồng đều nằm dưới mực nước lũ, do rừng đã mất, biến đổi khí hậu khiến mưa bão càng ngày càng nhiều và càng lớn, Sơn La lại là vùng có động đất thường xuyên và mạnh nhất Việt Nam (giới chuyên môn xác định có sáu nếp gấp địa chất chính, có thể phát sinh động đất, ảnh hưởng đến công trình thủy điện Sơn La: đứt gãy sông Hồng, Lai Châu-Ðiện Biên, Sơn La, sông Mã-Pu Mây Tun, sông Ðà, Phong Thổ-Nậm Pìa, theo kết quả đo đạc thì từ năm 1990 đến năm 2003, trên khu vực có bán kính 200km quanh công trình thủy điện Sơn La đã xảy ra 1.089 vụ động đất, trong sáu nếp gấp vừa kể, nếp gấp Phong Thổ-Nậm Pìa chỉ cách đập chính của thủy điện điện Sơn La 5 cây số và trên thực tế, những địa chất ở nếp gấp này đã từng gây ra những trận động đất mạnh đến 5 độ Richter), nên đập thủy điện Sơn La rất dễ vỡ, nếu đập thủy điện Sơn La vỡ, đập thủy điện Hòa Bình cũng sẽ vỡ theo và như thế hồ chứa nước của thủy điện Sơn La thực sự là một “đại thảm họa”, treo lơ lửng trên đầu châu thổ sông Hồng...
Ðáng lưu ý không kém là việc xây dựng thủy điện Sơn La còn kéo theo vô số hệ lụy về mặt chính trị và quân sự, trong tương quan Việt-Trung. Trung Quốc đã và đang xây dựng nhiều đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong. Khi toàn bộ các đập nước của Trung Quốc hoàn tất, vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ đối diện với một thảm họa về môi sinh, theo sau đó là những thảm họa về kinh tế và xã hội. Các chuyên gia thắc mắc, trong tình thế ấy, tại sao chính quyền CSVN lại ngửa tay vay tiền Trung Quốc với lãi suất ưu đãi để xây dựng thủy điện Sơn La (?). Ðiều này sẽ khiến chính quyền CSVN “ngậm tăm”, không thể phản đối Trung Quốc hay tham gia phản đối Trung Quốc “giết sông Mekong”.
Khi dự án thủy điện Sơn La được công bố, Bộ Quốc Phòng CSVN từng đòi Bộ Kế Hoạch-Ðầu Tư phải “chừa” lại tỉnh lộ 12 và thị xã Lai Châu, không để con đường và vị trí chiến lược này chìm dưới nước. Tuy nhiên, khi dự án được phê duyệt, cả hai đều nằm trong khu vực bị nước nhấn chìm. Không chỉ nhấn chìm những vị trí và đầu mối giao thông chiến lược, vào lúc phê duyệt dự án thủy điện Sơn La, chính quyền CSVN còn “hiến” cho Trung Quốc một “quả bom nước” khổng lồ, nằm cách biên giới Việt-Trung đúng 16 cây số. Khi cần, Trung Quốc có thể kích nổ “quả bom nước” này và sức công phá của 10 tỉ khối nước từ trên cao tràn xuống, chắc chắn không thua gì bom nguyên tử.
Do 47% lưu vực sông Ðà nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, Bộ Ngoại Giao CSVN từng gửi công hàm, đề nghị Trung Quốc trả lời về quy hoạch khai thác nguồn nước sông Ðà nhưng Trung Quốc không trả lời... Trong một cuộc họp Quốc Hội, CSVN diễn ra vào năm 2005, để “bàn về dự án thủy điện Sơn La”, một đại biểu quốc hội CSVN đồng thời là sĩ quan quân đội CSVN, lo ngại: “Nếu đập Sơn La vỡ, một chiếc xe tăng 4 tấn ở Sơn Tây có thể bị thổi... bay như một chiếc lá”. Còn các chuyên gia khác ước tính: “Nếu đập Sơn La vỡ, sau 30 phút, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ sẽ bị chìm sâu dưới mực nước từ 4m đến... 60m và sẽ có khoảng 15 triệu người thiệt mạng...”
Bất chấp các phân tích thiệt-hơn, cũng như những cảnh báo về “đại thảm họa”, Bộ Chính Trị Ðảng CSVN vẫn chỉ đạo phải thực hiện thủy điện Sơn La. Thậm chí, tại một kỳ họp Quốc hội hồi cuối năm 2005, Phan Văn Khải, thủ tướng CSVN lúc đó đã chỉ mặt những đại biểu Quốc Hội CSVN dám nêu thắc mắc rồi nạt: “Không được bàn lùi!”
Ngày 2 tháng 12 năm 2005, công trình thủy điện Sơn La chính thức khởi công tại xã Ít ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Việc chặn dòng sông Ðà bắt đầu...
Ðại thảm họa là điều khó tránh
Chiều 12 tháng 5 năm 2008, một trận động đất 8 độ richter (theo nghiên cứu địa chất của Hoa Kỳ, cường độ này tương đương 1.01 tỉ tấn chất nổ TNT), xảy ra tại Tứ Xuyên, Trung Quốc đã gây thiệt hại nặng nề cho 44 huyện, trên diện tích 65,000 km2. Trận động đất đã khiến khoảng 80,000 người thiệt mạng, hơn 10 triệu người trở thành vô gia cư...
Giới nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc và trên thế giới đã đưa ra nhiều chứng cứ chứng minh, hồ chứa nước Tử Bình Phô (Zipingpu) ở Tứ Xuyên có thể là nguyên nhân chính dẫn đến đại thảm họa đó. Ðập Tử Bình Phô (cao 156m, trọng lượng của hồ chứa nước Tử Bình Phô lên đến 315 triệu tấn) nằm cách đường nứt gãy, gây ra địa chấn vỏn vẹn 550m.
Ông Phạm Hiểu (Fan Xiao), trưởng nhóm kỹ sư của Cục Ðịa Chất và Khoáng Sản Tứ Xuyên, cho rằng, có thể trọng lượng khổng lồ của hồ chứa nước Tử Bình Phô đã làm đường nứt gãy mong manh hơn, ảnh hưởng đến thời điểm xảy ra động đất và cường độ của nó. Dù động đất không phải là chuyện hiếm ở Tứ Xuyên nhưng theo ông Phạm Hiểu: “Ðịa chấn có cường độ mạnh đến thế chưa từng xuất hiện strong cả ngàn năm qua. Ðộng đất sẽ xảy ra khi không có đập nhưng con đập có thể đã thay đổi thời điểm và cường độ địa chấn khiến nó trở nên mạnh hơn rất nhiều”.
Tháng 1 năm 2009, báo chí Trung Quốc đăng tải một nghiên cứu, kết luận đập Tử Bình Phô thật sự đã tạo ra các rung động địa chấn trong khu vực.
Giới khoa học cho biết phần lớn các trận động đất tại Trung Quốc là kết quả của việc kiến tạo địa tầng Ấn Ðộ di chuyển về phía Bắc va vào địa tầng Âu - Á. Ðường nứt gãy gây động đất ở Tứ Xuyên là đường ranh giới chủ chốt giữa lòng chảo Tứ Xuyên và cao nguyên Tây Tạng. Ông David Schwartz, một nhà địa chất làm việc tại Cơ quan Nghiên cứu địa chất Mỹ (USGS) nhận xét: “Nếu được xây ở Mỹ, con đập đó không thể gần một đường nứt gãy đang hoạt động đến thế”.
Ða số chuyên gia cùng tin rằng hồ chứa nước Tử Bình Phô là yếu tố khiến đại thảm họa diễn ra sớm hơn dự kiến. Ông Christian Klose, một nhà địa chất làm việc tại Ðại Học Columbia (Hoa Kỳ) ước tính: “Ðập Tử Bình Phô tạo ra áp lực cao gấp 25 lần so với áp lực đường nứt gãy tích tụ trong một năm, dù rất nhỏ so với áp lực tự nhiên tích tụ trong hàng ngàn năm nhưng áp lực phụ do con đập tạo ra có thể là đủ để trận động đất xảy ra sớm hơn hàng chục năm so với 'thời biểu' tự nhiên”. Ông David Schwartz ví von: “Nó giống như một tòa lâu đài trên cát rung chuyển trong gió mạnh, bạn chạm rất nhẹ vào nó và nó sụp đổ”. Trong vài thập niên vừa qua, chính quyền Trung Quốc liên tục cho xây dựng nhiều hồ chứa nước lớn để phục vụ các nhà máy thủy điện, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về điện năng, giảm lũ lụt. Giới khoa học trong và ngoài Trung Quốc đã nhiều lần cảnh báo về việc xây dựng các con đập khổng lồ có thể tác hại nghiêm trọng đến cấu trúc tự nhiên của các con sông, dẫn đến những thảm họa sinh thái và cũng giống như chính quyền CSVN, giới cầm quyền Trung Quốc đã phớt lờ tất cả những khuyến cáo này. Sau trận động đất 8 độ richter xảy ra hôm 12 tháng 5 năm 2008, ngày 30 tháng 8 năm 2008, một trận động đất 6.1 độ richter xảy ra tại thành phố Phán Chi Hoa, cũng thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, làm chết thêm khoảng 30 người, làm bị thương thêm khoảng 360 người, phá hủy 180,000 ngôi nhà và ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh hoạt của 600,000 dân ở hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.
Vào lúc này, đập Tam Hiệp, dự án thủy điện lớn nhất thế giới, được xây dựng để phát điện và ngăn lũ trên sông Dương Tử đã gây ra vô số vấn nạn đau đầu cho chính quyền Trung Quốc. Nguy cơ vỡ các đập nước do tác động của động đất đang đe dọa dân chúng ở quốc gia này. Chính quyền Trung Quốc thú nhận, Trung Quốc đã và đang có 400 đập nước hoặc đã bị phá hủy hoặc có thể vỡ vì trở thành rất yếu sau nhiều vụ động đất lớn, nhỏ.
Nhìn lại Việt Nam, thủy điện Sơn La cũng đang tạo ra hàng loạt vấn nạn tương tự. Thậm chí, thời gian xây dựng thủy điện Sơn La đã được rút ngắn từ 10 năm (2005 - 2015) theo dự kiến xuống còn 7 năm (2005 - 2012). Việc giảm gần 1/3 thời gian thi công một nhà máy thủy điện có diện tích lưu vực khoảng 44,000 km2, diện tích vùng hồ khoảng 224 km2 không phải là thành tích. Nó chỉ tăng thêm nguy cơ vì việc kiểm tra đòi hỏi phải chặt chẽ, việc giám sát tất cả các phản ứng của đập, bảo đảm chất lượng công trình sẽ khó khăn hơn. Ðối với các hồ chứa nước, bảo đảm an toàn của đập nước không phải chỉ đòi hỏi sự cẩn trọng trong nghiên cứu sơ khởi, tính toán, thiết kế, xây cất chu đáo mà còn phải kiểm tra, tu bổ nghiêm khắc trong suốt thời gian khai thác. Thế nhưng chính quyền CSVN không thèm bận tâm.
Trong vụ “xuất hiện nhiều vết nứt tại đập không tràn bờ cả hai bên phải, trái của công trình thủy điện Sơn La”, một công ty có tên là Colenco, đảm trách vai trò tư vấn cho chủ đầu tư là EVN, đã biện bạch rằng những vết nứt ấy... không đáng ngại. Hội đồng nghiệm thu các công trình xây dựng quốc gia không tán thành lối biện bạch rằng. Trong báo cáo gửi Thủ tướng CSVN, họ nhận định: “Những nhận định của Colenco về nguyên nhân nứt ở các khối đổ và ảnh hưởng của các vết nứt đến an toàn chịu lực của đập chưa thuyết phục. Ðể có biện pháp ngăn ngừa nứt cho các khối đổ tiếp theo cũng như biện pháp xử lý vết nứt, yêu cầu chủ đầu tư chỉ đạo tư vấn thiết kế tính toán, kiểm tra, khảo sát đầy đủa về các thông số môi trường (nhiệt độ không khí, độ ẩm tương đối, bức xạ nhiệt...), hồ sơ hoàn công các lớp đổ. Ngoài ra, phải kiểm tra độ ổn định và độ bền của đập trong điều kiện vẫn tồn tại các vết nứt.”
Dù sự kiện này rất nghiêm trọng nhưng chưa ai biết những vết nứt này có được “bỏ qua” hay không (?) Cung cách quản lý, điều hành của chính quyền CSVN vốn đầy những khiếm khuyết cả do thiếu hiểu biết, thiếu khả năng lẫn bị chi phối bởi vô số gian ý. Vào ngày 10 tháng 2 năm 2009, khi đề cập đến thủy điện Sơn La, tờ Công An Nhân Dân cho biết: “Theo Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, chương trình di dân khỏi lòng hồ thủy điện Sơn La đang bộc lộ hàng loạt bất cập, không chỉ chậm chạp về tiến độ, mà ngay cả những nơi đã tái định cư thành công, hàng ngàn gia đình vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn do cơ sở hạ tầng xuống cấp... Tỷ lệ gia đình đã được di dời so với mục tiêu chung chỉ đạt khoảng 64.3%. Trong số 19,669 gia đình cần phải di dời, mới có 12,650 gia đình được tái định cư. Tờ Công An Nhân Dân dẫn lời ông Lê Văn Thành, phó văn phòng Ban Tái Ðịnh Cư Thủy Ðiện Sơn La, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cho biết: “Trong năm 2009, chính phủ đã giao chỉ tiêu cho ba tỉnh Sơn La, Ðiện Biên, Lai Châu phải di dời và tái định cư gấp 5,998 gia đình nhưng các tỉnh vẫn chưa lập được kế hoạch di dời”.
“Ðại thảm họa” Sơn La vẫn hiện hữu. Hãy nhớ: “Nếu đập Sơn La vỡ, sau 30 phút, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ sẽ bị chìm sâu dưới mực nước từ 4m đến... 60m và sẽ có khoảng 15 triệu người thiệt mạng...” Thay vì vật nài xin hung thủ xem lại hoặc câm nín, nhẫn nhục chờ đợi hàng loạt “đại thảm họa” như Sơn La, bauxite,... người Việt vẫn còn cách khác: Ðứng dậy, buộc những hung thủ đang tàn phá quốc gia, dân tộc dừng tay ngay lập tức trước khi quá trễ!
Thông tin kể trên làm dư luận rúng động và có vẻ những cảnh báo cách nay vài năm về một “đại thảm họa”, có nguồn gốc từ Thủy điện Sơn La, sẽ đến sớm hơn dự kiến...
Cấm bàn lui: Ðã ngu muội lại ngông cuồng
Năm 1999, Tập Ðoàn Ðiện Lực Việt Nam (EVN) bắt đầu tiến hành khảo sát để lập dự án xây dựng công trình thủy điện Sơn La. Thủy điện Sơn La là một phần trong hệ thống thủy điện bậc thang trên sông Ðà. Trước đó, chính quyền CSVN từng cho chặn đoạn giữa của sông Ðà làm thủy điện Hòa Bình. Với dự án thủy điện Sơn La, sông Ðà sẽ bị chặn thêm một lần nữa ở đoạn phía trên thủy điện Hòa Bình để lập nhà máy thủy điện Sơn La.
Khi dự án được đệ trình, trên giấy tờ, thủy điện Sơn La trở thành nhà máy thủy điện lớn nhất Ðông Nam Á (hồ chứa nước có diện tích 224 km2, dung tích 9.26 tỉ khối nước, công suất 2 400 MW, sản lượng điện 9.429 tỉ kWh/năm, tổng vốn đầu tư là 42,476 tỉ đồng - khoảng 2.5 tỉ USD). Ðể thực hiện công trình khổng lồ đó, sẽ có 19,669 gia đình, với trên 100,000 dân, cư trú tại ba tỉnh Sơn La, Lai Châu, Ðiện Biên (đa số là người thiểu số) bị buộc phải chuyển đi nơi khác.
Dù được quảng bá rằng sẽ tăng thêm nguồn điện, giảm lũ trong mùa mưa, cấp thêm nước cho đồng bằng sông Hồng trong mùa khô nhưng dự án xây dựng công trình thủy điện Sơn La tạo ra nhiều âu lo hơn là sự vui mừng.
Kể từ khi dự án xây dựng công trình thủy điện Sơn La được công bố, giới khoa học trong và ngoài nước đã cùng lên tiếng cảnh báo liên tục về một đại thảm họa, tác động nghiêm trọng tới kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như tương lai Việt Nam để kêu gọi chính quyền CSVN phủ quyết dự án...
Theo các chuyên gia, Sơn La nằm trong khu vực có thể bị động đất rất mạnh. Ngoài động đất trong tự nhiên, các hồ chứa nước lớn còn là nguyên nhân tạo ra những cơn địa chấn khi chúng bắt đầu tích nước (trường hợp đập Kremasta ở Hy Lạp năm 1966, đập Koyna ở Ấn Ðộ năm 1967,...). Song hành với động đất, hồ chứa nước của thủy điện Sơn La còn bị đe dọa bởi những trận lũ bất thường, khó dự đoán. Bên cạnh đó, hồ chứa nước của thủy điện Sơn La còn tạo ra vô số tác động bất lợi đến môi trường: thay đổi về vi khí hậu, hệ động vật, hệ thực vật, đất bị trượt, vận tải chất rắn, suy giảm chất lượng nước, bệnh sốt rét, bệnh Bilharziose (tên một bác sĩ người Ðức, đã khám phá loại vi trùng độc hại này ở các hồ chứa nước). Chưa kể cuộc sống, sinh hoạt của hàng trăm ngàn người sẽ bị xáo trộn hoàn toàn.
Trong bối cảnh, đa số các trung tâm đông dân cư ở vùng châu thổ sông Hồng đều nằm dưới mực nước lũ, do rừng đã mất, biến đổi khí hậu khiến mưa bão càng ngày càng nhiều và càng lớn, Sơn La lại là vùng có động đất thường xuyên và mạnh nhất Việt Nam (giới chuyên môn xác định có sáu nếp gấp địa chất chính, có thể phát sinh động đất, ảnh hưởng đến công trình thủy điện Sơn La: đứt gãy sông Hồng, Lai Châu-Ðiện Biên, Sơn La, sông Mã-Pu Mây Tun, sông Ðà, Phong Thổ-Nậm Pìa, theo kết quả đo đạc thì từ năm 1990 đến năm 2003, trên khu vực có bán kính 200km quanh công trình thủy điện Sơn La đã xảy ra 1.089 vụ động đất, trong sáu nếp gấp vừa kể, nếp gấp Phong Thổ-Nậm Pìa chỉ cách đập chính của thủy điện điện Sơn La 5 cây số và trên thực tế, những địa chất ở nếp gấp này đã từng gây ra những trận động đất mạnh đến 5 độ Richter), nên đập thủy điện Sơn La rất dễ vỡ, nếu đập thủy điện Sơn La vỡ, đập thủy điện Hòa Bình cũng sẽ vỡ theo và như thế hồ chứa nước của thủy điện Sơn La thực sự là một “đại thảm họa”, treo lơ lửng trên đầu châu thổ sông Hồng...
Ðáng lưu ý không kém là việc xây dựng thủy điện Sơn La còn kéo theo vô số hệ lụy về mặt chính trị và quân sự, trong tương quan Việt-Trung. Trung Quốc đã và đang xây dựng nhiều đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong. Khi toàn bộ các đập nước của Trung Quốc hoàn tất, vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ đối diện với một thảm họa về môi sinh, theo sau đó là những thảm họa về kinh tế và xã hội. Các chuyên gia thắc mắc, trong tình thế ấy, tại sao chính quyền CSVN lại ngửa tay vay tiền Trung Quốc với lãi suất ưu đãi để xây dựng thủy điện Sơn La (?). Ðiều này sẽ khiến chính quyền CSVN “ngậm tăm”, không thể phản đối Trung Quốc hay tham gia phản đối Trung Quốc “giết sông Mekong”.
Khi dự án thủy điện Sơn La được công bố, Bộ Quốc Phòng CSVN từng đòi Bộ Kế Hoạch-Ðầu Tư phải “chừa” lại tỉnh lộ 12 và thị xã Lai Châu, không để con đường và vị trí chiến lược này chìm dưới nước. Tuy nhiên, khi dự án được phê duyệt, cả hai đều nằm trong khu vực bị nước nhấn chìm. Không chỉ nhấn chìm những vị trí và đầu mối giao thông chiến lược, vào lúc phê duyệt dự án thủy điện Sơn La, chính quyền CSVN còn “hiến” cho Trung Quốc một “quả bom nước” khổng lồ, nằm cách biên giới Việt-Trung đúng 16 cây số. Khi cần, Trung Quốc có thể kích nổ “quả bom nước” này và sức công phá của 10 tỉ khối nước từ trên cao tràn xuống, chắc chắn không thua gì bom nguyên tử.
Do 47% lưu vực sông Ðà nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, Bộ Ngoại Giao CSVN từng gửi công hàm, đề nghị Trung Quốc trả lời về quy hoạch khai thác nguồn nước sông Ðà nhưng Trung Quốc không trả lời... Trong một cuộc họp Quốc Hội, CSVN diễn ra vào năm 2005, để “bàn về dự án thủy điện Sơn La”, một đại biểu quốc hội CSVN đồng thời là sĩ quan quân đội CSVN, lo ngại: “Nếu đập Sơn La vỡ, một chiếc xe tăng 4 tấn ở Sơn Tây có thể bị thổi... bay như một chiếc lá”. Còn các chuyên gia khác ước tính: “Nếu đập Sơn La vỡ, sau 30 phút, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ sẽ bị chìm sâu dưới mực nước từ 4m đến... 60m và sẽ có khoảng 15 triệu người thiệt mạng...”
Bất chấp các phân tích thiệt-hơn, cũng như những cảnh báo về “đại thảm họa”, Bộ Chính Trị Ðảng CSVN vẫn chỉ đạo phải thực hiện thủy điện Sơn La. Thậm chí, tại một kỳ họp Quốc hội hồi cuối năm 2005, Phan Văn Khải, thủ tướng CSVN lúc đó đã chỉ mặt những đại biểu Quốc Hội CSVN dám nêu thắc mắc rồi nạt: “Không được bàn lùi!”
Ngày 2 tháng 12 năm 2005, công trình thủy điện Sơn La chính thức khởi công tại xã Ít ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn La. Việc chặn dòng sông Ðà bắt đầu...
Ðại thảm họa là điều khó tránh
Chiều 12 tháng 5 năm 2008, một trận động đất 8 độ richter (theo nghiên cứu địa chất của Hoa Kỳ, cường độ này tương đương 1.01 tỉ tấn chất nổ TNT), xảy ra tại Tứ Xuyên, Trung Quốc đã gây thiệt hại nặng nề cho 44 huyện, trên diện tích 65,000 km2. Trận động đất đã khiến khoảng 80,000 người thiệt mạng, hơn 10 triệu người trở thành vô gia cư...
Giới nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc và trên thế giới đã đưa ra nhiều chứng cứ chứng minh, hồ chứa nước Tử Bình Phô (Zipingpu) ở Tứ Xuyên có thể là nguyên nhân chính dẫn đến đại thảm họa đó. Ðập Tử Bình Phô (cao 156m, trọng lượng của hồ chứa nước Tử Bình Phô lên đến 315 triệu tấn) nằm cách đường nứt gãy, gây ra địa chấn vỏn vẹn 550m.
Ông Phạm Hiểu (Fan Xiao), trưởng nhóm kỹ sư của Cục Ðịa Chất và Khoáng Sản Tứ Xuyên, cho rằng, có thể trọng lượng khổng lồ của hồ chứa nước Tử Bình Phô đã làm đường nứt gãy mong manh hơn, ảnh hưởng đến thời điểm xảy ra động đất và cường độ của nó. Dù động đất không phải là chuyện hiếm ở Tứ Xuyên nhưng theo ông Phạm Hiểu: “Ðịa chấn có cường độ mạnh đến thế chưa từng xuất hiện strong cả ngàn năm qua. Ðộng đất sẽ xảy ra khi không có đập nhưng con đập có thể đã thay đổi thời điểm và cường độ địa chấn khiến nó trở nên mạnh hơn rất nhiều”.
Tháng 1 năm 2009, báo chí Trung Quốc đăng tải một nghiên cứu, kết luận đập Tử Bình Phô thật sự đã tạo ra các rung động địa chấn trong khu vực.
Giới khoa học cho biết phần lớn các trận động đất tại Trung Quốc là kết quả của việc kiến tạo địa tầng Ấn Ðộ di chuyển về phía Bắc va vào địa tầng Âu - Á. Ðường nứt gãy gây động đất ở Tứ Xuyên là đường ranh giới chủ chốt giữa lòng chảo Tứ Xuyên và cao nguyên Tây Tạng. Ông David Schwartz, một nhà địa chất làm việc tại Cơ quan Nghiên cứu địa chất Mỹ (USGS) nhận xét: “Nếu được xây ở Mỹ, con đập đó không thể gần một đường nứt gãy đang hoạt động đến thế”.
Ða số chuyên gia cùng tin rằng hồ chứa nước Tử Bình Phô là yếu tố khiến đại thảm họa diễn ra sớm hơn dự kiến. Ông Christian Klose, một nhà địa chất làm việc tại Ðại Học Columbia (Hoa Kỳ) ước tính: “Ðập Tử Bình Phô tạo ra áp lực cao gấp 25 lần so với áp lực đường nứt gãy tích tụ trong một năm, dù rất nhỏ so với áp lực tự nhiên tích tụ trong hàng ngàn năm nhưng áp lực phụ do con đập tạo ra có thể là đủ để trận động đất xảy ra sớm hơn hàng chục năm so với 'thời biểu' tự nhiên”. Ông David Schwartz ví von: “Nó giống như một tòa lâu đài trên cát rung chuyển trong gió mạnh, bạn chạm rất nhẹ vào nó và nó sụp đổ”. Trong vài thập niên vừa qua, chính quyền Trung Quốc liên tục cho xây dựng nhiều hồ chứa nước lớn để phục vụ các nhà máy thủy điện, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về điện năng, giảm lũ lụt. Giới khoa học trong và ngoài Trung Quốc đã nhiều lần cảnh báo về việc xây dựng các con đập khổng lồ có thể tác hại nghiêm trọng đến cấu trúc tự nhiên của các con sông, dẫn đến những thảm họa sinh thái và cũng giống như chính quyền CSVN, giới cầm quyền Trung Quốc đã phớt lờ tất cả những khuyến cáo này. Sau trận động đất 8 độ richter xảy ra hôm 12 tháng 5 năm 2008, ngày 30 tháng 8 năm 2008, một trận động đất 6.1 độ richter xảy ra tại thành phố Phán Chi Hoa, cũng thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, làm chết thêm khoảng 30 người, làm bị thương thêm khoảng 360 người, phá hủy 180,000 ngôi nhà và ảnh hưởng đến cuộc sống, sinh hoạt của 600,000 dân ở hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.
Vào lúc này, đập Tam Hiệp, dự án thủy điện lớn nhất thế giới, được xây dựng để phát điện và ngăn lũ trên sông Dương Tử đã gây ra vô số vấn nạn đau đầu cho chính quyền Trung Quốc. Nguy cơ vỡ các đập nước do tác động của động đất đang đe dọa dân chúng ở quốc gia này. Chính quyền Trung Quốc thú nhận, Trung Quốc đã và đang có 400 đập nước hoặc đã bị phá hủy hoặc có thể vỡ vì trở thành rất yếu sau nhiều vụ động đất lớn, nhỏ.
Nhìn lại Việt Nam, thủy điện Sơn La cũng đang tạo ra hàng loạt vấn nạn tương tự. Thậm chí, thời gian xây dựng thủy điện Sơn La đã được rút ngắn từ 10 năm (2005 - 2015) theo dự kiến xuống còn 7 năm (2005 - 2012). Việc giảm gần 1/3 thời gian thi công một nhà máy thủy điện có diện tích lưu vực khoảng 44,000 km2, diện tích vùng hồ khoảng 224 km2 không phải là thành tích. Nó chỉ tăng thêm nguy cơ vì việc kiểm tra đòi hỏi phải chặt chẽ, việc giám sát tất cả các phản ứng của đập, bảo đảm chất lượng công trình sẽ khó khăn hơn. Ðối với các hồ chứa nước, bảo đảm an toàn của đập nước không phải chỉ đòi hỏi sự cẩn trọng trong nghiên cứu sơ khởi, tính toán, thiết kế, xây cất chu đáo mà còn phải kiểm tra, tu bổ nghiêm khắc trong suốt thời gian khai thác. Thế nhưng chính quyền CSVN không thèm bận tâm.
Trong vụ “xuất hiện nhiều vết nứt tại đập không tràn bờ cả hai bên phải, trái của công trình thủy điện Sơn La”, một công ty có tên là Colenco, đảm trách vai trò tư vấn cho chủ đầu tư là EVN, đã biện bạch rằng những vết nứt ấy... không đáng ngại. Hội đồng nghiệm thu các công trình xây dựng quốc gia không tán thành lối biện bạch rằng. Trong báo cáo gửi Thủ tướng CSVN, họ nhận định: “Những nhận định của Colenco về nguyên nhân nứt ở các khối đổ và ảnh hưởng của các vết nứt đến an toàn chịu lực của đập chưa thuyết phục. Ðể có biện pháp ngăn ngừa nứt cho các khối đổ tiếp theo cũng như biện pháp xử lý vết nứt, yêu cầu chủ đầu tư chỉ đạo tư vấn thiết kế tính toán, kiểm tra, khảo sát đầy đủa về các thông số môi trường (nhiệt độ không khí, độ ẩm tương đối, bức xạ nhiệt...), hồ sơ hoàn công các lớp đổ. Ngoài ra, phải kiểm tra độ ổn định và độ bền của đập trong điều kiện vẫn tồn tại các vết nứt.”
Dù sự kiện này rất nghiêm trọng nhưng chưa ai biết những vết nứt này có được “bỏ qua” hay không (?) Cung cách quản lý, điều hành của chính quyền CSVN vốn đầy những khiếm khuyết cả do thiếu hiểu biết, thiếu khả năng lẫn bị chi phối bởi vô số gian ý. Vào ngày 10 tháng 2 năm 2009, khi đề cập đến thủy điện Sơn La, tờ Công An Nhân Dân cho biết: “Theo Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, chương trình di dân khỏi lòng hồ thủy điện Sơn La đang bộc lộ hàng loạt bất cập, không chỉ chậm chạp về tiến độ, mà ngay cả những nơi đã tái định cư thành công, hàng ngàn gia đình vẫn đang phải đối mặt với những khó khăn do cơ sở hạ tầng xuống cấp... Tỷ lệ gia đình đã được di dời so với mục tiêu chung chỉ đạt khoảng 64.3%. Trong số 19,669 gia đình cần phải di dời, mới có 12,650 gia đình được tái định cư. Tờ Công An Nhân Dân dẫn lời ông Lê Văn Thành, phó văn phòng Ban Tái Ðịnh Cư Thủy Ðiện Sơn La, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn cho biết: “Trong năm 2009, chính phủ đã giao chỉ tiêu cho ba tỉnh Sơn La, Ðiện Biên, Lai Châu phải di dời và tái định cư gấp 5,998 gia đình nhưng các tỉnh vẫn chưa lập được kế hoạch di dời”.
“Ðại thảm họa” Sơn La vẫn hiện hữu. Hãy nhớ: “Nếu đập Sơn La vỡ, sau 30 phút, toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ sẽ bị chìm sâu dưới mực nước từ 4m đến... 60m và sẽ có khoảng 15 triệu người thiệt mạng...” Thay vì vật nài xin hung thủ xem lại hoặc câm nín, nhẫn nhục chờ đợi hàng loạt “đại thảm họa” như Sơn La, bauxite,... người Việt vẫn còn cách khác: Ðứng dậy, buộc những hung thủ đang tàn phá quốc gia, dân tộc dừng tay ngay lập tức trước khi quá trễ!
Hậu quả có thể tệ hại hơn tấm ảnh trên nếu nhà nước không tìm biện pháp bây giờ
Xuất hiện vết nứt ở đập ngăn sông Thuỷ điện Sơn La
VietNamNet - Dù bám sát được mục tiêu tiến độ chung, nhưng theo kết quả kiểm tra của Hội đồng nghiệm thu nhà nước thì chất lượng công trình Thuỷ điện Sơn La là điều đáng báo động, doxuất hiện các vết nứt bê tông RCC tại các khối C2, C3, L1, C4, C5 đập không tràn bờ trái và bê tông thường tại khối 26 đập không tràn bờ phải.
Thông tin trên từ báo cáo của Bộ Xây dựng với Thủ tướng vào chiều 11/2 về tình hình các công trình trọng điểm Quốc gia.
Từ công trình thuỷ điện đến giao thông đều có vấn đề về chất lượng
Theo báo cáo này, về công trình Thuỷ điện Sơn La, ngay sau khi phát hiện vết nứt bê tông RCC tại các khối C2, C3, L1, C4, C5 đập không tràn bờ trái và bê tông thường tại khối 26 đập không tràn bờ phải của công trình, chủ đầu tư đã chỉ đạo các bên liên quan tổ chức khảo sát, đánh giá, xác định nguyên nhân gây nứt và đề ra giải pháp khắc phục.
Song, Hội đồng nghiệm thu nhà nước cho rằng, những nhận định của tư vấn về nguyên nhân tình trạng nứt ở các khối đổ và ảnh hưởng của các vết nứt ở các khối đổ đến an toàn chịu lực của đập chưa mang tính thuyết phục.
Liên quan đến vấn đề này, ngày 11/2, báo Thanh Niên đưa tin, từ tháng 9/2008 tại đập chính ngăn sông Đà của công trình thủy điện Sơn La đã xuất hiện vết nứt ở thân đập. Mới đây các đơn vị thi công lại phát hiện thêm 2 vết nứt nữa. Cả 3 vết nứt chạy dọc thân đập, vết dài nhất là 31,5m, chỗ sâu nhất hơn 6m, rộng khoảng 1 mm.
Ông Nguyễn Kim Tới, Giám đốc Ban điều hành dự án xây dựng thủy điện Sơn La đã xác nhận thông tin về các vết nứt trên thân đập và nói phía tư vấn giải thích nguyên nhân nứt có thể do sốc nhiệt (ví dụ khối bê tông đang phát triển cường độ, đang nóng, bất ngờ có trận mưa thì bề mặt lạnh đột ngột có thể gây nứt).
Ông Tới giải thích thêm với báo Thanh Niên: “Vết nứt sâu 6m so với khối bê tông bình thường là lớn nhưng nếu so với khối bê tông ở thủy điện Sơn La (thân đập khoảng 80m) thì lại không lớn. Chúng tôi đã đặt một lớp thép phi 20 trên bề mặt để cô lập vết nứt”.
Ông Tới nói dạng vết nứt này không nguy hiểm, thường xảy ra ở một số đập thủy điện khác trên thế giới, và khẳng định “theo đánh giá của đơn vị thiết kế, các vết nứt như ở Sơn La không có vấn đề gì. Về nguy cơ gây thấm nước, các vết nứt đều nằm ở phía hạ lưu nên cũng không đáng lo”.
Được biết, khi trao đổi với báo chí, một vị lãnh đạo Bộ Xây dựng cho biết, Bộ này đang yêu cầu các đơn vị liên quan báo cáo, ngoài ra cũng giao các chuyên gia đầu ngành nghiên cứu và đánh giá tác động từ các vết nứt đối với an toàn của đập.
Tuy nhiên, không chỉ Thuỷ điện Sơn La mà theo báo cáo của Hội đồng nghiệm thu Nhà nước, thì hàng loạt công trình trọng điểm khác cũng “có vấn đề”!
GS.TSKH Nguyễn Văn Liên, Phó Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu nhà nước các công trình xây dựng cho biết, trong năm 2008, Hội đồng đã tổ chức trên 120 đợt kiểm tra đối với 62 công trình xây dựng trọng điểm trên địa bàn cả nước. Qua công tác kiểm tra, Hội đồng đã phát hiện được không ít vấn đề nổi cộm trong công tác quản lý chất lượng công trình và tồn tại về chất lượng công trình.
Dự án Đại lộ Đông Tây (nguyên Giám đốc BQL Dự án đại lộ Đông Tây và môi trường nước TP.HCM Huỳnh Ngọc Sĩ và ông Lê Quả, nguyên Phó Giám đốc Ban quản lý dự án này vừa bị bắt tạm giam chiều 11/2) được khởi công từ tháng 1/2005 và dự kiến sẽ hoàn thành sau 3 năm, nhưng đến nay vẫn chưa thể đưa vào nghiệm thu toàn bộ dự án.
Nguyên nhân một phần là do chất lượng công trình chưa đạt chuẩn. Chỉ tính trong năm 2008, Hội đồng đã tổ chức 10 đợt kiểm tra hiện trường thi công các hạng mục công trình và phát hiện những tồn tại đáng quan ngại.
Cụ thể, tại gói thầu Hầm Thủ Thiêm, đoạn hầm dẫn (gồm hầm dẫn kín và hầm dẫn hở chữ U) tồn tại chất lượng chủ yếu là hiện tượng lún quá mức cho phép của nền hầm hở chữ U phía Thủ Thiêm.
Đáng quan ngại nhất là hiện tượng nứt rạn bê tông trên bề mặt và một số vết nứt xuyên các đốt hầm dìm. Sau khi sự cố xảy ra, Hội đồng đã tổ chức nhiều đợt kiểm tra công trình và đã có báo cáo ban đầu lên Thủ tướng Chính phủ về tình hình chất lượng toàn bộ dự án vào tháng 10/2008. Tuy nhiên, kể từ khi các vết nứt được phát hiện đến nay, một số vết nứt vẫn phát triển cả về chiều rộng và chiều dài.
Tiếp đến là công trình đường cao tốc TP.HCM – Trung Lương. Công trình dự kiến hoàn thành cơ bản tuyến cao tốc vào tháng 6/2009, các tuyến nối vào tháng 8/2009 và hoàn thành toàn bộ công trình vào tháng 9/2009.
Tiến độ công trình chậm 6 tháng so với tiến độ do Thủ tướng Chính phủ yêu cầu. Qua kiểm tra, chất lượng các hạng mục công trình đã thi công và được chủ đầu tư nghiệm thu cơ bản đạt yêu cầu thiết kế.
Tuy nhiên, lần kiểm tra gần đây Hội đồng nghiệm thu Nhà nước đã phát hiện tồn tại về chất lượng đáng lưu ý là hiện tượng các rầm Super T sử dụng cho các cầu cạn trên tuyến bị nứt ở đầu rầm. Ngoài ra, do tuyến đường nằm trên khu vực nền đất yếu, trong quá trình thi công đã xảy ra một số vấn đề kỹ thuật phải xử lý như: hiện tượng trượt sâu nền đường ở Km 40 tuyến chính cao tốc; độ lún cố kết sau thời gian gia tải theo thiết kế không đạt yêu cầu trên tuyến nối Tân Tạo – Chợ Đệm …
Một công trình thuỷ điện khác, công trình Thuỷ điện Tuyên Quang, phần xây dựng công trình cơ bản đã hoàn thành trong năm 2008, tuy nhiên cho đến nay tồn tại chủ yếu về chất lượng vẫn là hiện tượng thấm khu vực Tổ máy số 1 do rò rỉ nước từ đường ống áp lực vào gian máy và một số thiết bị quan trắc bị hư hỏng hoặc cho số liệu đo chưa đủ độ tin cậy, nếu không sớm khắc phục sẽ ảnh hưởng đến việc theo dõi trạng thái làm việc của công trình…
Hậu quả sẽ khó lường !
Đánh giá về chất lượng của một số công trình trọng điểm cơ bản trong năm 2008, GS.TSKH Nguyễn Văn Liên cho rằng, về cơ bản đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Song những vấn đề nổi cộm như: nứt bê tông các đốt hầm dìm tại Dự án Đại lộ Đông Tây; thấm qua nền đập công trình Thủy điện Buôn Kuốp; nứt bê tông tại các khối đổ RCC đập không tràn bờ trái công trình Nhà máy Thủy điện Sơn La; cường độ của khối RCC một phần đập chính công trình Thủy điện Bản Vẽ không đạt yêu cầu thiết kế liên quan đến chất lượng thì cần phải có biện pháp xử lý kiên quyết, triệt để nếu không hậu quả sẽ khó lường.
Ngoài chất lượng công trình thì vấn đề về công tác quản lý chất lượng công trình cũng có nhiều điểm cần sớm khắc phục như công tác lập và phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công ở một số công trình vẫn còn chậm, nhất là các công trình thủy điện, giao thông.
Các tồn tại này đã được Hội đồng nghiệm thu Nhà nước nhắc nhở nhiều lần nhưng việc khắc phục của chủ đầu tư và các nhà thầu chưa triệt để nên đã ảnh hưởng đến tiến độ thi công. Chủ đầu tư các dự án, đặc biệt là các công trình trọng điểm, cần quan tâm hơn đến việc lựa chọn tư vấn thiết kế có đủ năng lực và kinh nghiệm để sản phẩm thiết kế đạt được chất lượng tốt hơn.
Căn cứ tiêu chí lựa chọn công trình do Hội đồng tổ chức nghiệm thu, kiểm tra và tình hình thực tế triển khai các công trình, Hội đồng nghiệm thu nhà nước đề nghị tổng số công trình đưa vào danh mục công trình nghiệm thu và kiểm tra năm 2009 là 67 công trình, trong đó có 54 công trình chuyển tiếp từ năm 2008 và 13 công trình mới bổ sung trong năm 2009.
* Hà Lê
Xuất hiện các vết nứt bê tông tại thủy điện Sơn La
(Dân trí) - Theo báo cáo của Hội đồng nghiệm thu nhà nước các công trình xây dựng, việc nứt bê tông tại các khối đổ RCC đập không tràn bờ trái công trình Nhà máy thủy điện Sơn La là một trong 4 vấn đề nổi cộm trong năm 2008 cần kiên quyết xử lý.
Báo cáo của Hội đồng nghiệm thu cho thấy, công tác thi công xây dựng các hạng mục công trình cơ bản bám sát được mục tiêu tiến độ chung của công trình. Công tác chống đã được thực hiện đảm bảo theo sơ đồ chống lũ và tần suất, lưu lượng tính toán được duyệt.
Tuy nhiên, tại công trình này đã xuất hiện các vết nứt bê tông RCC (bằng công nghệ bê tông đầm lăn) tại các khối C2, C3, L1, C4, C5 Đập không tràn bờ trái và bê tông thường (CVC) tại khối 26 Đập không tràn bờ phải.
Trước sự việc này, chủ đầu tư đã chỉ đạo các bên liên quan tổ chức khảo sát, đánh giá, xác định nguyên nhân gây nứt và đề xuất giải pháp khắc phục. Hội đồng đã tổ chức họp với Chủ đầu tư và các nhà thầu để trao đổi, đánh giá nguyên nhân và biện pháp xử lý.
Sau đó, tư vấn Colenco đã có báo cáo ban đầu về nguyên nhân gây rạn nứt ở đập RCC Sơn La, nhưng Hội đồng cho rằng những nhận định của Tư vấn về nguyên nhân tình trạng nứt ở các khối đổ và ảnh hưởng của các vết nứt đến an toàn chịu lực của đập chưa mang tính thuyết phục.
Để có đủ cơ sở kết luận cuối cùng về nguyên nhân gây nứt và đề xuất các biện pháp ngăn ngừa nứt cho các khối đổ tiếp theo, cũng như biện pháp xử lý vết nứt, Hội đồng đã yêu cầu Chủ đầu tư chỉ đạo Tư vấn thiết kế tính toán kiểm tra dựa trên các số liệu khảo sát đầy đủ về các thông số môi trường (nhiệt độ không khí, độ ẩm tương đối, bức xạ nhiệt…), hồ sơ hoàn công các lớp đổ (thời gian thi công mỗi lớp, nhiệt độ vữa RCC…), thí nghiệm về co ngót bê tông v.v… Ngoài ra, cũng cần phải tính toán kiểm tra độ ổn định và độ bền của đập trong điều kiện vẫn tồn tại các vết nứt.
Hiện nay, Tư vấn Colenco đang nghiên cứu và hoàn thiện báo cáo. Các chuyên gia của Hội đồng đang phối hợp với Chủ đầu tư và các bên để tạo được sự thống nhất về đánh giá nguyên nhân cũng như biện pháp khắc phục.
Theo đánh giá của Hội đồng nghiệm thu nhà nước, sự cố nứt bê tông tại các khối đổ RCC đập không tràn bờ trái công trình Nhà máy thủy điện Sơn La là một trong 4 vấn đề nổi cộm về chất lượng các công trình xây dựng trong năm 2008, cần phải có biện pháp xử lý kiên quyết, triệt để.
Lan Hương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét