12/7/10

Đại hội Đảng 11: Nguyễn Chí Vịnh, một mầm mống đại họa

Tiến Hồng
Tướng Nguyễn Chí Vịnh
Những ai theo dõi sát nội tình chính trị Việt Nam những năm gần đây hẳn không có gì xa lạ với cái tên Nguyễn Chí Vịnh, con trai đại tướng Nguyễn Chí Thanh, con nuôi đại tướng Lê Đức Anh, con rể tướng Đặng Vũ Chính, Tổng cục Trưởng Tổng cục Tình báo quốc phòng (TC2) siêu quyền lực (từ 2002 đến tháng 8/2009) và hiện là Trung tướng Thứ Trưởng quốc phòng (từ tháng 2/2009) quyền lấn át đại tướng Phùng Quang Thanh.
Nói “quyền lấn át đại tướng Phùng Quang Thanh” là kể từ khi ông Vịnh chủ trì cuộc họp báo công bố Sách trắng Quốc phòng Việt Nam lần thứ ba hồi tháng 12/2009, và sau đó, chủ toạ một cuộc họp báo công bố chính sách đối ngoại quốc phòng của Việt Nam đầu tháng 2/2010. Đầu tháng 3/2010, trung tướng Vịnh lại cầm đầu phái đoàn bộ Quốc phòng gặp gỡ trao đổi với Bộ trưởng quốc phòng Lương Quang Liệt nhân dịp kỷ niệm 60 năm quan hệ song phương. Trong khi phía Việt Nam hầu như không đề cập thì Tân Hoa Xã và báo chí Trung Quốc lại làm rùm beng. Theo Tân Hoa Xã, Trung tướng Vịnh nói: Việt Nam hy vọng sẽ thu gặt nhiều lợi ích từ quan hệ hữu nghị và hiệu quả giữa hai quân đội, vì an ninh khu vực. Trong hoàn cảnh của Việt Nam, khi mà mối nguy thật sự chỉ phát xuất từ Trung Quốc và tranh chấp Biển Đông, người ta có thể hiểu rằng chiến lược quốc phòng của Việt Nam đã mất tính chất độc lập tự chủ như vẫn rêu rao, và hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc với tất cả những hệ quả tai hại của nó. Ngoài ra, với tư cách Thứ trưởng đặc trách tình báo quốc phòng bao trùm TC2 (với Trung tướng Tổng cục trưởng Lưu Đức Huy vốn là tay chân), ông Vịnh có thể cho phía Trung Quốc biết rõ nội tình các nhân vật hiện đang tranh chức Tổng bí thư và chờ phía Trung Quốc cho ý kiến. Đó đã từng là công tác của ông cách đây 5 năm (cuối 2005) trong chuyến đi bí mật sang Bắc Kinh trước khi đại hội 10 nhóm họp năm 2006.
Một chỉ dấu về khả năng can thiệp này (qua TC2 và Nguyễn Chí Vịnh) là trường hợp ông Nguyễn Tấn Dũng có thể đã phải chịu sức ép để rút khỏi cuộc đua chứcTổng bí thư. Cách đây không lâu, ông Dũng đã được dự đoán sẽ được bầu làm Tổng bí thư qua một số biện pháp trình diễn trên thông tấn nhà nước. Ông Dũng còn tuyên bố lấy lòng phe tham nhũng đương quyền “Trong 7 năm làm thủ tướng, tôi chưa từng kỷ luật ai !”. Đây là một câu nói “lịch sử” của một thủ tướng “quyết tâm” chống tham nhũng, phù hợp với bản chất tham tiền cố hữu của ông. Chuyện ông Dũng nhận phong bì 5, 10 triệu đồng một cách thoải mái là điều ít ai không biết. Kể cả chuyện nhận 150 triệu đô của Trung Quốc về việc khai thác bô-xít.. Tuy nhiên, việc mất điểm gần đây của ông Dũng (với Trung Quốc) liên quan đến câu trả lời có vẻ mạnh miệng của ông với một giáo sư Harvard đến phỏng vấn về mối quan hệ Hoa-Việt: “Thời đại nước lớn bắt nạt nước bé đã lỗi thời!”. Báo điện tử VietnamNet đã phải cắt đoạn này chỉ it phút sau khi đăng. Chưa kể việc yêu cầu “báo chí cần chủ động thông tin bảo vệ chủ quyền”. Nhân dịp khai mạc Hội nghị Uỷ ban Trung ương đảng lần thứ 12 để bàn về nhân sự và các văn kiện, giới thạo tin trong đó có giáo sư Carlyle Thayer đã đề cập đến 5 uỷ viên Bộ Chính trị trong tầm ngắm chức Tổng bí thư (không có tên ông Dũng) mà nổi bật làTrương Tấn Sang (nhân vật mới lên số 2 Bộ chính trị) và chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng, một người có hỗn danh là “Trọng lú”, rất thân cận với Bắc Kinh.
Nguyễn Chí Vịnh là thứ trưởng Quốc phòng duy nhất không có chân trong Uỷ ban Trung ương đảng. Về cấp bậc cũng thua tất cả các thứ trưởng khác (Thượng tướng) và hiện đang được chuẩn bị để được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương khoá 11 cùng nắm giữ những chức vụ quan trọng.
Trong thực tế, Nguyễn Chí Vịnh hiện nay là nhân vật quyền uy nhất trong bóng tối của đảng cộng sản Việt Nam chủ yếu vì đã “bỏ túi” và nắm trong tay toàn bộ hồ sơ với những tì vết của các uỷ viên Bộ chính trị. Nhân vật quyền uy nhất đó lại là tay sai của cộng sản Trung Quốc. Đó là một khẳng định tuyệt đối. Người ta không quên Báo cáo của Bộ Quốc phòng tại Hội nghị Quân uỷ Trung ương mở rộng ngày 24 tháng 8 năm 2004 do Nguyễn Chí Vịnh soạn thảo: “Cơ quan tình báo Hoa hải ngoại nhận định: Việt Nam không nên sốt sắng gia nhập WTO vì, nếu Việt Nam xem việc gia nhập WTO là một mục tiêu ưu tiên, đồng nghĩa với sự “đổi màu” của xu hướng chính trị ngày một gia tăng, do những điều kiện gia nhập WTO đưa ra về mặt cải cách”. Chúng ta đã biết hậu quả của chính sách lệ thuộc này như thế nào. Cũng không nên quên về chiến dịch bắt bớ những nhân vật đấu tranh cho dân chủ gần đây như Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức… có bàn tay của TC2 và Cục Tình báo Hoa Nam.
Nguyễn Chí Vịnh và vương triều Vũ Chính
Nguyễn Chí Vịnh đã được biết đến nhiều kể từ khi thành tích lưu manh (bị đuổi học Đại học kỹ thuật quân sự năm 1977 vì ăn cắp quân trang nhà kho) và bước đường làm ăn lem nhem (chiếm đoạt bất động sản, hợp đồng thương mại quân sự bi-đông và các công ty thương mại bình phong…), thủ đoạn mua chuộc, khống chế (kể cả Lê Khả Phiêu) và chỗ dựa vững chắc (nhóm G7, bố vợ, bố nuôi…), tất cả được phơi bày qua bài viết của Võ Đồng Đội và phổ biến tràn lan trên mạng qua điện thư số 41 (tháng 3/2005) của Câu lạc bộ Dân chủ (1). Điện thư số 43 của CLBDC còn đưa ra nhận xét từ một thầy giáo trực tiếp của Nguyễn Chí Vịnh: “Học sinh Vịnh học lực yếu, ý thức tổ chức xấu, tính tự do vô kỷ luật, lại hay cầm đầu các vi phạm, tư cách riêng khác là rất thích giao du với con gái, và hay thông qua sinh hoạt ca hát, ăn uống để tiếp cận họ là một gánh nặng thêm cho nhiệm vụ đào tạo và rèn luyện của nhà trường, đặc biệt của khoa quân sự”.
Chân dung của Nguyễn Chí Vịnh còn được mô tả đầy đủ hơn trong loạt bài về “Vương triều Vũ Chính” phổ biến tràn lan trên mạng. Vương triều này khởi đầu từ 1995 khi Cục 2 (Cục quân báo) được nâng lên thành Tổng cục tình báo quân đội (TC2) ngang hàng với Bộ Tổng Tham mưu, trực thuộc Bộ Quốc phòng . Vì được sự nâng đỡ của tướng Lê Đức Anh vốn là thượng cấp cũ tại Quân khu 9 và Campuchia, tướng Tổng cục trưởng Đặng Vũ Chính lên thay tướng Như Văn về hưu đã lợi dụng đặc quyền của Tổng cục để đưa hai con (Đặng Vũ Dũng, Đặng Thị Tuyết), vợ Nguyễn Thị Nhẫn và nhất là con rể Nguyễn Chí Vịnh thao túng, lũng đoạn, biến TC2 thành một vương triều phục vụ cho mưu đồ tư lợi và nối dõi của mình . Kể từ khi làm rể ông Chính, Nguyễn Chí Vịnh thăng cấp đều đều trước niên hạn mặc dù không thành tích hay thành tích ảo, về chức vụ cũng vậy. Nguyễn Chí Vịnh cũng lợi dụng đưa thủ túc lưu manh như Phạm Ngọc Hùng (Hùng Tút), cùng bị đuổi học Đại học Kỹ thuật quân sự vì trộm cắp như Nguyễn Chí Vịnh lên địa vị Phó Tổng Cục trưởng (ngoại giao) hiện nay. Quan trọng hơn cả, qua những trò làm ăn bất chính tham ô trong TC2, Nguyễn Chí Vịnh có một tài sản kếch sù cả nổi lẫn chìm được ước lượng nhiều trăm triệu đô, một tài liệu còn đưa ra con số 1,2 tỷ đô.
Ông Vũ Chính từng nói với người quen: “Cháu nó là con cán bộ cao cấp, phải nâng đỡ cháu… Tôi sẽ đưa cháu làm tổng cục trưởng, đại hội IX đưa cháu vào BCH TW, đến giữa nhiệm kỳ vào Bộ Chính trị, phải để cho cháu nên tướng”.
Mưu đồ này của ông Chính bị trục trặc tai đại hội IX do Đại hội đảng TC2 không tín nhiệm, vì lúc đó ông chưa gài được nhiều tay chân bộ hạ. Vả lại, lúc đó (2001) đang xảy ra vụ tai tiếng A10 doTC2 cài để nghe lén các uỷ viên BCT. Lê Khả Phiêu đã bị mất chức giữa nhiệm kỳ do cố vấn thái thượng hoàng Lê Đức Anh tung ra nội vụ. Đến thời kỷ trước Đại hội 10, thì nổi lên “Vụ án TC2” nổ tung trên mạng và trong dư luận khiến Nguyễn Chí Vịnh đành phải tạm thời “nín thở qua sông” tuy vẫn tiếp tục thăng tiến lên Trung tướng.
Vụ án TC2 và chân dung một tội phạm đích thực
Cái được coi là Vụ án Tổng Cục 2 bắt nguồn chủ yếu từ lá thư của tướng Giáp ngày 3/1/2004 tố cáo vai trò siêu quyền lực của cơ quan này đã đẻ ra vụ án siêu nghiêm trọng Sáu Sứ và T4. TC2, như đã nói, được tướng Lê Đức Anh cho phép thành lập năm 1995 từ Cục 2 (Quân báo) nhưng đã được nâng lên thành Tổng cục Tình báo quốc phòng ngang hàng Bộ Tổng tham mưu và trực thuộc Bộ quốc phòng. Tuy nhiên, với Pháp lệnh quốc phòng (tháng 12/96) do chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh ban hành và Nghị định 96/CP (tháng 7/97) do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký (ông Kiệt nói là phải mất 6 tháng mới buông bút ký), TC2 đã trở thành một siêu quyền lực vượt qua Bộ quốc phòng. Bởi vì TC2 tuy thuộc Bộ quốc phòng nhưng quyền hạn bao trùm mọi lãnh vực như như chính trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, kỹ nghệ và môi trường, văn hóa xã hội. Đối tượng tin tức và nhất là quyền hạn của TC2 khiến cơ quan này không những vượt qua Tổng cục an ninh của Bộ Công an mà còn đi xa hơn. TC2 có quyền cài cắm nhân viên ở mọi cơ quan, quyền sử dụng con dấu của mọi cơ quan, quyền chi tiêu vượt mức (ngân sách lớn bằng nửa Bộ quốc phòng), quyền trực tiếp báo cáo Bộ Chính trị, Chủ tịch nước, Thủ tướng, quyền được thăng cấp đến trung tá…
Thực tế, TC2 đã lợi dụng ngụy tạo tài liệu và trở thành cơ quan phục vụ quyền lợi mưu đồ cá nhân của Lê Đức Anh trong tranh chấp nội bộ đảng thay vì nhắm vào các đối tượng cơ hữu của mình. Những vụ như Lý Tống thả truyền đơn trong khi người của TC2 bán bầu trời, rồi để xảy ra vụ Tây Nguyên nổi loạn, Thái Bình nổi sóng, Năm Cam vùng vẫy, chẳng thấy TC2 báo động. Từ đó, những vụ án Sáu Sứ, T4, báo cáo mật của Quân uỷ mở rộng do Nguyễn Chí Vịnh soạn thảo đã được thực hiện.
Lá thư của tướng Giáp đã được sự đồng tình của rất nhiều tướng lĩnh tên tuổi, mà nổi bật là Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh với 4 lá thư (2), trong đó lá thư ngày 17/06/2004 là đặc biệt quan trọng. Tướng Khánh đã trình bầy rõ vụ Siêm Riệp (1983), Sáu Sứ (1991) của Cục 2 và chủ yếu nhấn mạnh vụ T4 do Đặng Vũ Chính (Tổng cục trưởng TC2) và Nguyễn Chí Vịnh (Tổng cục phó) dàn dựng. Vụ T4 đã được mô tả là do TC2 bịa ra một đặc tình giả tưởng đã cài cắm vào CIA và đưa tin những tin tức ngụy tạo liên quan việc liên lạc, chỉ đạo của CIA trong mưu đồ đảo chính của hàng chục nhân vật quan trọng trong đó có: Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, Trương Tấn Sang, Trương Vĩnh Trọng, Phạm Gia Khiêm, Phan Diễn, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Văn Dũng, Võ Thị Thắng…
Để có một ý niệm về tính chất nghiêm trọng của nội vụ, chúng ta thử đọc qua một số bản tin nêu trong lá thư ngày 17/6/2004 liên quan đến ông Trương Tấn Sang, nhân vật số 2 Bộ chính trị hiện nay:
“Nhóm Trương Tấn Sang đang có kế hoạch tác động, móc nối lôi kéo để liên kết ông Ngô Xuân Lộc, Nguyễn Khánh Toàn và một số tướng lĩnh Quân đội và Công an, giao chúng nắm giữ các vị trí quan trọng trong Chính phủ Việt Nam từ địa phương đến Trung ương.
(Bản tin số 497 ngày 24/3/99).
“Các chuyên gia CIA nhận định một cuộc đảo chính có thể xảy ra vào tháng 7, tháng 8/1999 ở Việt Nam. Vai trò chủ chốt là Trương Tấn Sang và Trần Văn Tạo.
“Tư Sang, Tư Tạo tập trung thu phục phái tù Côn Đảo ở Thành phố Hồ Chí Minh. Phái này có khả năng trở thành phe phái hợp pháp đối lập trong Đảng Cộng sản, lấy địa bàn Sài Gòn làm căn cứ”.
“Đã có sự liên kết mới giữa Ngô Xuân Lộc, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Khánh Toàn, Đoàn Mạnh Giao, Lê Vân Dũng, Phan Trung Kiên, Nguyễn Văn Rop. Việc đảo chính của phe nhóm này sẽ tập trung vào kỳ họp 2 Quốc hội” – (Bản tin ngày 2/8/1999)
“Tối 06/1/99 có một cuộc họp do Tư Sang tổ chức, tham dự có Võ Trần Chí, ông Đặng (giám đốc sở công nghiệp). Ba Ngộ và một nhân vật bí hiểm… Nội dung cuộc họp: Bàn mọi cách bảo vệ vị trí Bí thư thành uỷ cho ông Sang, bằng mọi cách lôi kéo vây cánh để cô lập ông Lê Khả Phiêu và tiến tới thay ông Lê Khả Phiêu bằng một hội nghị bất thường vì ông Phiêu không ủng hộ Thành uỷ và ông Tư Sang.
“Có một sự mưu tính từ một số phe phái chính trị. Trong Đảng Việt Nam đang mưu tính một cuộc cải cách chính trị, đảo chính chính trị. Có những kế hoạch tuyệt mật trên cơ sỏ báo cáo của Quốc nội do CIA gửi Văn phòng An ninh, Tổng thống. Phe phái chính trị này dự tính sẽ lôi kéo cả ông Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải đứng về phía họ …Lúc bấy giờ Phan Văn Khải và Lê Khả Phiêu cũng phải theo họ vì không còn con đường nào khác. CIA đã chỉ đạo sẽ thực hiện kế hoạch. (Bản tin số 223 ngày 19/1/98)”
Dàn dựng kịch bản của TC2 như trên thì thật vô tiền khoáng hậu trong lịch sử tình báo. Dàn dựng như thế phục vụ mưu đồ của ai? Không ai khác hơn là mưu đồ “lật án”, đảo chính của Lê Đức Anh với sự đồng tình của Trung Quốc.
Đây là một vụ án chính trị cự kỳ nghiêm trọng có liên quan đến toàn bộ cấp lãnh đạo cộng sản. Tướng Khánh đề nghị Bộ chính trị và Ban chấp hành TW nếu không muốn bao che thì phải đưa vấn đề ra giải quyết trước pháp luật về tội phá hoại đảng, chế độ và tổ quốc những người lãnh đạo TC2: Đặng Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh. Chưa kể cần làm rõ những kẻ đứng sau. Nguyễn Chí Vịnh chính là một tội phạm. Tướng Khánh cũng đề nghị Bộ chính trị, Quốc hội phải sửa đổi hoàn toàn hay huỷ bỏ Pháp lệnh tình báo và Nghị định 96/CP.
Trong buổi họp ngày 15/7/2004 giữa tướng Khánh và ông Phan Diễn, bí thư thường vụ, ông Diễn đã đồng ý về đề nghị sửa đổi Pháp lệnh và Nghị định 96/CP nhưng chỉ muốn xử lý nội bộ Vũ Chính và Nguyễn Chí Vịnh. Sau phiên họp này, tướng Giáp quyết tâm đưa vấn đề ra trước Ban chấp hành TW. Hội nghị Trung ương 12 đành phải cho thành lập Ban điều tra liên ngành về vụ T4 và hàng chục vụ khác liên quan đến vu khống nội bộ. Nhưng sau đó Nông Đức Mạnh và Bộ chính trị đã giấu không cho đem ra thảo luận báo cáo 70 trang này trước khi đại hội đảng lần thứ 10 nhóm họp. Vụ án TC2 được coi như chìm xuồng vì sự ổn định của chế độ. Nhưng những tồn tại và hệ quả của nó liên quan đến Nguyễn Chí Vịnh và TC2 vẫn tiếp tục.
Từ bài viết “TC2: Vì ai nên nỗi?” đến quyết định kỷ luật Trung tá Vũ Minh Trí
Sau Đại hội 10, trước sự tiếp tục thao túng Tổng cục 2 (TC2) của Nguyễn Chí Vịnh và sự đồng loã- hay nói đúng ra là lo sợ- của Bộ chính trị, một làn sóng công phẫn lại nổi lên trong quân đội. Được nói nhiều và lan truyền trên mạng là hai lá thư “Thất trảm sớ” của Trung tá Vũ Minh Ngọc và nhất là lá thư ngày 16/12/2008 “TC2:Vì ai nên nỗi?” của Trung tá Vũ Minh Trí (3), một người đang làm việc tại Cục kỹ thuật TC2.
Lá thư tâm huyết 13.000 chữ của Trung tá Vũ Minh Trí là nỗi lòng của một người có tư cách, ở trong TC2 hơn 10 năm không thể làm ngơ trước những thao túng, tham ô, phe đảng, lừa gạt và bỏ túi cấp trên của Nguyễn Chí Vịnh và đồng bọn. Từ “mầm kết tinh” Nguyễn Chí Vịnh, những mạng lưới của cái xấu đã hình thành và lan rộng, những cán bộ tốt bị vô hiệu hoá, nhuộm đen, những thành phần lưu manh, vô học đã được thăng cấp vượt mức. Trong sinh hoạt, đã hình thành việc ngu hoá cán bộ một cách có hệ thống. Và với cuồng vọng nguy hiểm của Nguyễn Chí Vịnh đã đưa tới những hệ quả nghiêm trọng, đặc biệt là việc thiết lập một mạng lưới lấy “tin tức nội bộ” liên quan đến các nhân vật cao cấp, hoàn toàn ngoài chức năng của TC2.
Lá thư đã nêu những chi tiết xác minh và kết luận về TC2: “Nay đang ở trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn diện, đang bị chuyển hóa thành khối u ác trong lòng quân đội, trong lòng Đảng, ít nhiều phát tác tới bộ óc của quân đội, của Đảng thì rõ ràng tình báo chiến lược về quân sự cần được mau chóng quét sạch, cắt bỏ, diệt trừ tận gốc những mạng lưới xấu xa, cần được mau chóng thay máu triệt để để trước hết là trong sạch về chính trị, sau đó là khỏe mạnh về nghiệp vụ chứ không phải thay màu da trên xác chết, duy trì một Tổng cục II của Nguyễn Chí Vịnh mà không có Nguyễn Chí Vịnh”. Đó là điều đã xảy ra.
Lá thư của trung tá Vũ Minh Trí đã được sự đồng tình ủng hộ của tướng Võ Nguyên Giáp. Trong lá thư ngày 10/6/2009 gửi Bộ Chính trị và Ban Bí thư, tướng Giáp đã ca ngợi tinh thần dũng cảm của Trung tá Trí khi tố cáo Nguyễn Chí Vịnh đã “phá hoại TC2 toàn diện”. Ông cho rằng sự tố cáo minh danh nói trên là phù hợp với điều lệ đảng và pháp luật Nhà nước nên cần được Uỷ ban Kiểm tra trung ương xem xét kiểm tra. Lá thư của tướng Giáp có nêu chi tiết: “Nguyễn Chí Vịnh trước có những khuyết điểm, đồng chí Nông Đức Mạnh nói với tôi là không thể lên trung tướng và không biết đưa đi đâu để rèn luyện, nhưng thực tế lại không làm như vậy mà tiếp tục thăng quân hàm và giao trọng trách Tổng cục trưởng và hiện nay vừa đề bạt là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm cho ai cũng ngạc nhiên, lo lắng, và nếu không làm rõ thì sẽ còn lên nữa”. Ở đây, chính thắc mắc của tướng Giáp về Nông Đức Mạnh cho thấy ông ta đã nằm trong vòng kim cô của Nguyễn Chí Vịnh từ lâu.
Những tố cáo của Trung tá Vũ Minh Trí với sự ủng hộ của tướng Giáp đã không làm cho tập đoàn Nguyễn Chí Vịnh nao núng. Và chuyện phải đến đã đến như chính Trung tá Trí dự phòng. Ngày 10/02/2010, Bộ Quốc phòng đã ký Quyết định tước quân hàm sĩ quan đối với Trung tá Vũ Minh Trí, Đảng uỷ TC2 cũng quyết định khai trừ ra khỏi đảng cộng sản đối với ông (4). Lý do nêu lên hoàn toàn chỉ có tính cách hình thức, che đậy: tố cáo sai (không xác định), gửi đơn đến các nơi không có chức năng giải quyết (không đúng, vì ông đã gửi 5 lá đơn tới Đảng uỷ quân sự trung ương,thủ trưởng bộ Quốc Phòng thậm chí với cả Uỷ ban kiểm tra trung ương) và tiết lộ bí mật Đảng (ngoài ý muốn).
Trong phát biểu sau khi nhận kỷ luật, Trung tá Trí xác định: Vì lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước chưa có kết luận và trả lời về các kiến nghị và bài viết “Tổng cục 2: Vì ai nên nỗi ?”, ông coi các quyết định kỷ luật nêu trên là vô giá trị, bất hợp pháp. Ông xác định sẽ tiếp tục đấu tranh. Ông cũng tin rằng “những kẻ đã nhen nhóm ngọn lửa độc hại với nhân dân, đối với đất nước, đã đổ thêm dầu hôi vào ngọn lửa ấy sẽ sớm bị chính ngọn lửa ấy thiêu huỷ, sẽ sớm bị nhân dân và đất nước đào thải”.
Vụ án Nguyễn Chí Vịnh và TC2 chưa kết thúc.
Đến đây, chúng ta có thể đưa ra một nhận định chung cục.
Chính vì vai trò siêu quyền lực nhưng lệ thuộc vào Trung Quốc của một tên lưu manh, gian ác như Nguyễn Chí Vịnh và TC2, đảng cộng sản Việt Nam đang mau chóng đi vào con đường tự huỷ diệt. Một mặt, nó cho thấy toàn bộ giới lãnh đạo hiện nay cũng như bất cứ nhân vật nào nắm giữ chức Tổng bí thư sau đai hội XI cũng chỉ là những con rối mờ nhạt, không bản lãnh, không có ao ước khác hơn là chia chác để sống còn. Những con rối đó không thể đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến quyền lợi và sự sống còn của đất nước trong hoàn cảnh khó khăn về mọi mặt hiện nay, đặc biệt là mức lạm phát tăng rất cao. Ông Đỗ Mười, một nhân vật vẫn còn ảnh hưởng trong giới lãnh đạo cộng sản, đã tỏ ra ngao ngán về tương lai của đảng trongmột phát biểu tâm sự với người thân: “Chỉ có một nhân vật kiệt xuất mới cứu được đảng mà thôi. Nếu không nó sẽ sụp đổ không lâu nữa”.
Về một mặt khác, trong trường hợp có biến động với Trung Quốc ở Biển Đông, Nguyễn Chí Vịnh và TC2 sẽ là «con ngựa Thành Troie”. Và đó chính là đại hoạ của đất nước.
Rennes 02/04/2010

Tại sao biểu tình chỉ vì bị cúp điện?

“…lúc nào cũng nói toàn những điều hay, lúc nào cũng hô khẩu hiệu phục vụ nhân dân; nhưng lại để cho nhân dân bị cường quyền ức hiếp, để cho tham nhũng lộng hành suốt năm này sang năm khác; phải gọi nó là một chế độ khinh dân…”

Tại sao biểu tình chỉ vì bị cúp điện?
Ngô Nhân Dụng


Dân biểu tình phản đối nhà nước không phải một hiện tượng mới mẻ ở Việt Nam. Một nguyên nhân thông thường là bị cướp đất. Nông dân bị cán bộ chiếm ruộng để trao cho các nhà tư bản khai thác, tiền bồi thường bị ăn chặn, dân phải biểu tình đòi lại. Ðồng bào Công Giáo ở Vinh, ở ấp Thái Hà đi biểu tình, nguyên nhân chính cũng vì đảng đã cưỡng chiếm đất chung của nhà thờ. Nhưng cuộc biểu tình của đồng bào Thái Bình chỉ vì không chịu nổi cảnh cúp điện liên miên là một hiện tượng lạ. Nó cho thấy một dấu hiệu biến chuyển tâm lý lớn trong xã hội nông dân miền Bắc Việt Nam.

Mọi chế độ cường quyền đều học theo Machiavel: Cứ làm những việc ác nho nhỏ thì không sao, dân chúng quen dần sẽ tiếp tục chịu đựng rất lâu. Cứ tránh không làm những việc ác lớn quá, thì chế độ sẽ bền vững!

Từ bao năm nay người dân Việt Nam, nhất là các nông dân, vẫn chịu đựng được, và chịu đựng mãi thành quen nhiều thứ phiền hà. Chưa bao giờ thấy dân biểu tình phản đối vì những nỗi khổ như đường sá hư hỏng đầy ổ gà, gây tai nạn gẫy cẳng hay vỡ đầu. Ðối với cả tập thể xã hội, các tai nạn đó trở thành những chuyện nhỏ, vì số người bình an không bị tai nạn vẫn rất đông so với số người bị gẫy tay, què cẳng! Trường học không đủ, thầy cô giáo không yêu nghề, trẻ em đâm ra dốt nát và hư hỏng. Tham nhũng rút ruột các công trình xây cất, cầu bị sập, trường học bị mưa dột. Những nỗi khổ đó lâu ngày cũng thành bình thường nữa, vì ai cũng thấy mình bất lực không làm gì thay đổi được. Người dân chịu các nỗi khổ nho nhỏ, chịu mãi thành quen. Dần dần, mọi người sẽ coi chúng cũng giống như trời làm mưa, làm nắng. Than van thì cứ than van với nhau, nhưng không ai nổi giận đứng lên phản đối Ông Trời bao giờ cả! Nhất là khi Ông Trời này lại nuôi một đàn chó săn, cho ăn béo, lúc nào chúng cũng gầm gừ, ai nhấp nhểnh đứng lên là chúng ùa ra cắn! Cứ hỏi các cô Tạ Phong Tần, Lê Thị Công Nhân thì biết! Ðó là lý do tại sao chế độ Cộng Sản tồn tại được ở nước Nga hơn 70 năm, và ở Cuba, ở Việt Nam và ở nước Tàu cho tới bây giờ!

Nhưng trong tuần trước, ở Việt Nam có dấu hiệu thay đổi. Ðồng bào huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình kéo nhau đi biểu tình, mà lý do nêu lên chỉ là vì bị cúp điện! Biểu tình lên tiếng một lần, các quan chức không nhúc nhích, 600 nông dân đi biểu tình lần thứ hai. Muốn cho hành động của mình “gây ấn tượng”, bà con còn bắt các quan chức nhà nước phải đi cùng với họ tới công ty điện lực nhà nước! Các quan chức bị ép ngồi phơi nắng, có người còn bị giữ trong căn phòng bít bùng, cho họ biết cảnh chịu nóng khổ thế nào! Người Việt Nam vốn không có tính ác. Ðọc tin thấy cảnh trả thù các cán bộ nhà nước tàn nhẫn như thế, chúng ta cũng đau thắt ruột. Tại sao phải hành hạ nhau một cách tàn nhẫn như vậy? Nó chứng tỏ người ta rất uất ức. Vì đã bị đối xử tàn nhẫn không kém, đã từ lâu rồi!
Công ty Thuỷ điện Hoà Bình
Nhưng cúp điện vốn là một chuyện nhỏ. Mươi năm trước đây ở thôn quê đã làm gì có điện? Trẻ em từ khi sinh ra, thấy “ánh sáng chủ nghĩa xã hội” là đã sống trong cảnh cúp điện bất ngờ, từ mấy chục năm nay rồi! Ðiện bị mất đâu phải vì các quan chức nhà nước cố làm ra vì ác ý? Tại sao dân phẫn uất đến nỗi phải trừng phạt họ như thế? Dân Sài Gòn đang ngồi coi đá banh với nhau, điện tắt cái rụp, tức không khác gì tức vì thua cá độ! Thế mà ở các thành phố có dân mê coi “world cup” nào đi biểu tình phản đối điện bị cúp đâu? Tại sao đồng bào Thái Bình lại làm dữ như vậy?

Có người tưởng bà con Quỳnh Phụ bắt các quan chức nhà nước và điện lực phải phơi nắng cho toát mồ hôi, hoặc giam họ trong phòng kín cho biết thế nào là cảnh bị nướng trong lò, vì muốn trả thù, cho họ biết khi mình bị cúp quạt điện hay cúp máy lạnh nó nóng như thế nào! Nhưng bà con nông dân chưa hề được hưởng những thứ xa xỉ tư bản đó. Dân uất ức vì có khi đang chạy máy bơm nước, tự nhiên máy bơm đình công vì mất điện! Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống; nước không đầy đủ thì ai mà trồng trọt được? Cho nên, chuyện cúp điện làm cho trận đá banh bị ngắt quãng có thể bỏ qua được, còn chuyện cúp điện khiến cho máy bơm nước phải ngưng chạy là chuyện lớn hơn nhiều!

Nhưng nông dân Việt Nam vốn có tài xoay sở; ai cũng biết điện vẫn thường bị cúp, thế nào cũng có máy nổ chạy xăng để bơm nước cho chắc. Như vậy thì dù có bị cúp điện cũng không đến nỗi phẫn uất, phải hành hạ các quan cán bộ để gửi cho nhà nước một bài học! Chắc chắn phải có những nguyên nhân sâu hơn và xa hơn.

Nguyên nhân lớn khiến bà con Thái Bình nổi giận, là họ đã bị đối xử bất công. Có nơi điện bị cúp, có nơi không; có nơi bị cúp nhiều lần, có nơi bị ít. Dân Việt Nam rất tinh; chỉ nhìn qua là họ biết các quan chức điện lực tham nhũng. Những kẻ có thế có tiền, có thế lực, không phải chịu cảnh khổ như người dân bình thường! Lạ gì một thói sai nha. Làm cho mất điện chẳng qua cũng chỉ vì tiền! Sáu trăm người kéo nhau đi biểu tình chắc là những người bị cúp điện nhiều nhất! Còn giai cấp cường hào mới, trong lòng họ có khi còn hãnh diện vì nhà mình bị cúp điện ít hơn! Thua nhau miếng cơm, miếng thịt, không ức. Nhưng bị đối xử bất công vì tham nhũng thì ai cũng phẫn uất! Nói theo kiểu người miền Nam, không ai chịu cho chúng nó “chơi cha” mình mãi được!

Cho nên, nhìn bên ngoài thấy đây là những cuộc biểu tình vì lý do cúp điện, nhưng ở bên trong chính là lòng phẫn nộ của dân nghèo trước nạn tham nhũng, bất công! Dân Thái Bình không phải chỉ phản đối các quan chức nhà máy đèn! Họ đã đứng lên phản đối một chế độ thối nát. Nếu không thấy điều đó thì không thể hiểu tại sao đồng bào lại hành hạ các quan chức nhà nước bắt họ phải phơi nắng, phải bị nung trong nhà đóng kín. Bình thường người Việt Nam với nhau không ai nỡ đối xử tàn tệ như thế, chỉ vì những bất bình nhỏ nhặt. Mà cũng vì biết nỗi phẫn uất của người dân quá lớn nên bọn công an cũng không dám can thiệp ngay. Vì vậy cho nên mới có cảnh các quan chức bị dân lôi kéo đi tới nhà máy điện, bị bắt phơi nắng hay bị giam giữ suốt ngày. Công an không can thiệp, cũng vì biết nỗi uất ức của người ta rất lớn, không dám đụng vào!

Chính tâm lý phẫn uất giải thích được các hành động của người dân Quỳnh Phụ, Thái Bình. Cúp điện vốn chỉ là một trong những nỗi khổ xảy ra hằng ngày. Ðường sá hư không sửa, ai té xe chết người ấy chịu, cũng là một nỗi khổ xẩy ra hàng ngày, chịu mãi thành quen. Cầu bị bão cuốn trôi, dân không có cầu đi thì treo dây cáp lên để mà đu dây qua sông lại được các quan khen là “sáng tạo” mà chịu đựng mãi cũng có thể thành quen nữa.

Nhưng khi người dân thấy bị đối xử bất công, và sẽ còn chịu bất công rất lâu thì không ai nhịn được. Nhất là khi cảnh bất công đó kéo dài suốt năm này sang năm khác, bao lần hy vọng cuộc đời thay đổi đều tan biến. Nhất là khi người ta thấy trong tương lai không có hy vọng nào thay đổi được vì cả hệ thống cai trị, cả chế độ vẫn như thế mãi mãi! Cứ nghĩ chắc đời con, đời cháu mình sẽ vẫn khổ như mình, thì chịu sao nổi?

Khi người dân ý thức như vậy, thì chuyện nhỏ sẽ thành chuyện lớn!

Ðồng bào Thái Bình mươi năm trước đã từng biểu tình, bạo động, bắt giữ các quan chức, cán bộ, vì bị cướp đoạt đất đai. Nhưng lần này, chỉ vì bị cúp điện mà “nổi loạn”, thì đồng bào vô tình truyền ra một thông điệp mới cho mọi người Việt Nam: Mất điện, đường hư, cầu sập chỉ là những “hiện tượng”, thấy ở bên ngoài. Tham nhũng, bất công mới là căn bệnh kinh niên phải chữa trị. Căn bệnh đó nó nằm trong bản chất các chế độ độc tài, dù độc tài kiểu tư bản hay kiểu Cộng Sản. Ở đâu có độc tài là có tham nhũng, thối nát. Còn độc tài, thì còn tham nhũng, còn bất công. Cho nên, không thể chịu đựng mãi, phải đứng dậy. Phải phản đối. Phải đòi lấy những quyền tự do mà đáng lẽ mình được hưởng. Ðồng bào ở Quỳnh Phụ, Thái Bình đang dậy cho cả nước Việt Nam một bài học chính trị.

Tuy vậy, việc bày tỏ lòng phẫn nộ trước cảnh bất công cũng vẫn là một biến cố mới. Vì ở nông thôn ở miền Bắc Việt Nam, đã sống trong những chế độ phong kiến, thực dân, Cộng Sản hàng thế kỷ nay, người ta đã quen chịu đựng bất công. Từ bao thế hệ, dù quyền lợi thiệt thòi dân cũng vẫn bỏ qua được, chỉ vì muốn an thân. Người dân cũng lại thấy cuộc sống có khá hơn từ khi đảng Cộng Sản chịu từ bỏ kinh tế kiểu Liên Xô, Trung Cộng để dần dần theo lối tư bản. Sống như thế có thể là tạm thỏa mãn, nếu có bị cúp điện cũng có thể nhịn đựng, chịu thua kém người khác cũng có thể nhịn nhục. Nhưng dân Thái Bình đã đứng lên phản đối, vì còn những nguyên nhân văn hoá khác.

Trong văn hoá Việt Nam người ta không phải chỉ quan tâm đến những nhu cầu hoặc tiện nghi vật chất. Trong thời chiến tranh, cực khổ gấp ngàn lần, người ta vẫn chịu đựng. Nhưng nông dân Việt Nam sống trong nền văn hoá cổ truyền có ý thức rất mạnh về giá trị nhân phẩm, về thể diện của mình. Người ta có thể chịu đựng những thiệt thòi vật chất, nhưng không chịu nổi khi cảm thấy mình bị coi thường, bị khinh rẻ. Một chế độ lúc nào cũng nói toàn những điều hay, lúc nào cũng hô khẩu hiệu phục vụ nhân dân; nhưng lại để cho nhân dân bị cường quyền ức hiếp, để cho tham nhũng lộng hành suốt năm này sang năm khác; phải gọi nó là một chế độ khinh dân. Quan chức bị bắt quả tang tham nhũng hàng triệu Mỹ kim, chỉ bị khiển trách, mặt cứ nhơn nhơn coi khinh tất cả mọi người! Con cái lũ quan quyền lái xe ra đường, lên mạng lưới khoe của, coi công chúng không ra gì. Chế độ tham nhũng đẻ ra một giai cấp quý tộc khinh thường dư luận, trong khi các báo, đài vẫn phải hồ hởi ca ngợi các thành quả vĩ đại!

Bị khinh thường, bị lừa dối, bị chế độ loè bịp coi mình như trẻ con, đó là điều người dân Việt Nam không nhịn được. Vì trong hai chục năm qua, nông dân Việt Nam ở miền Bắc đã thay đổi.

Một thay đổi lớn nhất nằm trong tâm lý, khi kỳ vọng của mọi người dân ngày một cao hơn. Người ta có thể chịu đựng những nỗi khổ cực khi họ cho rằng đó là điều không tránh được, giống như trời làm mưa làm nắng. Nhưng khi người ta biết rằng cuộc sống của họ có thể tốt hơn, khi họ bắt đầu nuôi những kỳ vọng cao hơn, thì dù là những nỗi bất công và khổ cực nhỏ, người ta cũng không chấp nhận kéo dài mãi nữa.

Những kỳ vọng của dân Việt Nam đã thay đổi như thế nào?

Trong 20 năm qua, nông dân ở các thôn xã cách xa đường quan lộ hàng trăm cây số cũng biết rằng dân các nước Á Ðông khác đã tiến bộ hơn mình rất nhiều.

Không những đời sống kinh tế của họ cao hơn mà họ cũng đã giành được nhiều quyền tự do quyết định, tự do lựa chọn hơn. Một nông dân ở Thái Bình cũng biết các chính phủ bị mang tiếng tham nhũng ở Phi Luật Tân đã bị dân bỏ phiếu lật đổ. Họ cũng biết cựu tổng thống Nam Hàn tự tử vì bà vợ mang tiếng tham nhũng; cựu tổng thống Ðài Loan bị tù cũng vì gia đình tham nhũng. Người dân cũng biết khi công nhân hãng Honda ở Quảng Ðông đình công tại ba nhà máy thì chủ nhân phải tìm tới nói chuyện, phải điều đình việc tăng lương với các đại diện do chính các công nhân đề cử ra tại chỗ, chứ không phải chỉ nhờ các cán bộ công đoàn của đảng Cộng Sản đứng ra dụ dỗ, vuốt ve, và đe dọa như từ trước đến giờ.

Người dân Việt Nam không tin mà cũng không sợ đảng Cộng Sản nữa, vì họ biết họ có quyền sống tốt đẹp hơn. Chính đảng Cộng Sản mang nợ dân, chứ không phải dân mang nợ đảng! Kỳ vọng của họ đối với cuộc đời, đối với tương lai, đã thay đổi. Họ nhìn xa và nhìn cao hơn trước rất nhiều. Không ai có thể coi thường ý thức chính trị của nông dân Việt Nam trong thời đại tin tức tràn ngập này. Không một bức tường lửa nào có thể ngăn cản, bắt người dân Việt Nam sống mãi trong cảnh u tối thông tin như dân chúng Bắc Hàn được.

Ý thức về cuộc sống đáng lẽ mình phải được hưởng. Ý thức về nỗi nhục khi bị đối xử bất công. Tâm lý đó sẽ quyết định các hành động của người dân Việt Nam trong thời gian sắp tới. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở các đảng viên Cộng Sản một câu của Khổng Tử: Ðừng sợ nghèo, chỉ sợ bất công. Ðó là một kỹ thuật cai trị hơn là một lời khuyên về đạo đức. Muốn cai trị được lâu thì để dân nghèo mãi cũng không đáng lo, nhưng nếu chia của cải không đều thì lâu ngày dân sẽ phẫn nộ!

Nhiều người nghĩ rằng chế độ Cộng Sản sẽ còn ngự trị rất lâu, vì đa số dân Việt Nam, đặc biệt ở miền Bắc, thấy đời sống kinh tế của mình đã khá hơn rất nhiều so với trước đây, và người ta đã mất tự do quen rồi, sẽ chịu đựng lâu được. Cuộc biểu tình của đồng bào Thái Bình cho thấy ý kiến bi quan đó sai lầm. Con người không phải chỉ sống bằng cơm áo. Khi bị coi khinh, bị đối xử bất công mãi, nỗi phẫn uất bùng lên, dân sẽ đòi thay đổi. Nay đòi một chút, mai đòi một chút, càng ngày người ta càng ý thức cần thay đổi. Vì mình có quyền sống hạnh phúc hơn.
Ngô Nhân Dụng
Nguồn: báo Người Việt, ngày 22/06/2010

Chân dung một tội phạm: Nguyễn Chí Vịnh (Võ Đồng Đội)

Chân dung một tội phạm: Nguyễn Chí Vịnh
Võ Đồng Đội

“… Dàn dựng kịch bản, giả mạo chứng cứ để hãm hại đồng đội hay bất cứ ai dám đối đầu chỉ là trò con trẻ, Vịnh còn phù phép, hô phong hoán vũ biến củ ấu thành tròn, biến không thành có bằng các thủ đoạn cực kỳ gian manh nguy hiểm !…”
Phạm Đỉnh: Bạn đọc Thông Luận đã từng theo dõi vụ xung đột nội bộ đảng cộng sản VN mà công luận thường gọi là “vụ án TC 2 – T 4” trong khoảng thời gian 2004-2005. Trong thời gian này, một bài viết kí tên Võ Đồng Đội, được phát tán trong giới đảng viên lão thành, và được đăng tải trên Điện Thư số 41 (th. 3/2005) của Câu Lạc Bộ Dân Chủ. Hôm nay, chúng tôi lại nhận được bài viết của người viết Võ Đồng Đội, có một vài sửa đổi về hành văn, còn nội dung thì hầu như vẫn giữ nguyên.

Việc lưu hành những bài viết như thế này hẳn nhiên là một chỉ dấu cho thấy những mâu thuẫn nội bộ còn âm ỉ dai dẳng một năm sau đại hội đảng CSVN lần X. Cuộc phiêu lưu quyền lực giữa những cánh trong nội bộ đảng cầm quyền toàn trị này sẽ đi về đâu? Hiện nay phe đắc thế đang ra sức vơ vét, tham nhũng nhưng lại hò hét chống tham nhũng, y như thật! Những oan khiên đang tích luỹ để chờ ngày bùng vỡ. Ở trong còn lắm điều hay!

Trong 10 năm, một tên lưu manh vô học, một tên tội phạm hình sự, tham ô, đã vọt lên vị trí Tổng cục trưởng Tổng Cục Tình Báo quân đội. Từ một thượng uý chủ quán cháo lòng tiết canh, sống rách nát, sau một thời gian rất ngắn đã trở thành một Tướng Quân quyền uy tột đỉnh giàu sang danh vọng, và giờ đây thực chất là một ông chủ tài phiệt, một triệu phú đô-la kinh doanh kinh tế lẫn chính trị trên lưng Nhà Nước Việt Nam bất chấp mọi thủ đoạn đê tiện nhằm thoả mãn giấc mộng “đế vương”.

Từ trộm cắp hinh sự đến lưu manh kinh tế - chính trị

Khi còn là học viên tại Học Viện kỹ thuật quân sự, Vịnh bị bắt quả tang phá mái nhà kho chui vào ăn cắp quân trang, dù biết là con Tướng Nguyễn Chí Thanh nhưng Học viện vẫn phải đuổi .

Sau đó nhờ vào gia đình, Vịnh xin vào trường sĩ quan thông tin, nhưng do ngu dốt và biếng học, nên tìm cách chuyển về Cục-2, tiền thân của TC2 , núp bóng bố vợ là Đặng Vũ Chính .

A) Sau 4 năm làm trợ lý và loay hoay với quán cháo lòng ế khách, cuối năm 1989 nhờ sự giúp đỡ của anh rể, Đại Tá Lê Việt Bắc, thư ký Tướng Đào Đình Luyện và hội G7 (1) gồm các tướng-tá : Sáu Ngọc, Đặng Kháng, Quang Trung, Nhu, Việt Bắc, Hoàng Dũng, Phùng Hưng đều ở Văn phòng BQP và Văn phòng BTTM, Vịnh cho ra đời Công ty du lịch, dịch vụ và thương mại TOSECO với quyết sách: “…bằng mọi cách kiếm được nhiều tiền thật nhiều tiền để dễ bề thao túng được mọi cấp quan chức và cán bộ.”

Sách lược này đã được thực hiện bằng nhiều phương cách

1- KIẾM TIỀN THÔNG QUA DANH NGHĨA TẬP THỂ:

Lấy danh nghĩa công ty TOSECO, Vịnh xin đất làm nhà ở cho cán bộ trong đơn vị, đồng thời xây dựng cở sở vật chất cho một số Công ty bình phong hoạt động tình báo.

Vịnh chia ra hoạt động ở các lĩnh vực sau đây:

a) Mở Công ty liên doanh khu biệt thự quận 10, khu cao ốc Hồ Tây, nhà hàng bia ôm Quê Hương trong khu triển lãm GiảngVõ, đồng thời cho thành lập Công ty xây dựng và thương mại Hồng Bàng ở phía Bắc và Công ty HB ở miền Nam giao con trai và con rể của bố vợ làm giám đốc. Vốn liếng của 2 Công ty này được huy động trong họ hàng vợ chồng Vịnh và nhóm G7, do đó hai công ty này được trực tiếp nhận xây dựng các công trình của BQP mà đặc biệt không phải đấu thầu, thiết kế dự toán vv… mọi thanh toán đều thông qua phạm vi hẹp, bằng sức ép từ Văn phòng BQP và Văn phòng BTTM.

Riêng việc này Vịnh và bè phái đã thu được:

- Các khoản tiền đền bù đối tác liên doanh, tiền lời xây dựng công trình.
- Các khoản lời từ liên doanh rút ra làm nghiệp vụ.

Một điểm đáng chú ý là sau khi chiếm đoạt tiền hoa hồng và đền bù từ liên doanh biệt thự quận 10, phó Giám đốc TOSECO là Đào Quang Thép bị loại vì thắc mắc ăn chia !

b) Chiếm đoạt bất động sản của các đơn vị quân đội với lý do để hoạt động nghiệp vụ chuyên an lãnh thổ .

Đầu tiên là kêu gọi Tướng Hoàng Hữu Thái, Tư lệnh hải quân dành khu nhà 1A công trường Mê Linh Sài Gòn để liên doanh làm kinh tế.

Sau khi hải quân đồng ý thì Vịnh và G7 lập luận hải quân không cần kinh doanh và đề nghị BQP quyết định chuyển cho TC2 dùng làm cở sở tác nghiệp tình báo. Tiếp theo đó, Vịnh xin ngân sách quốc phòng giao công ty HB xây dựng làm trung tâm thương mại quốc tế rồi cho thuê lấy tiền bỏ túi riêng.

Lại một lần nữa gia đình Vịnh và đồng bọn thu được khoản tiền khổng lồ. Thế là hải quân cay đắng mất đất, mất nhà ! Đến bây giờ Trung Tướng Hoàng Hữu Thái, nguyên tư lệnh hải quân vẫn phàn nàn là đầu hai thứ tóc mà vẫn bị Vịnh lừa. Cũng tương tự,Quân khu 7 mất luôn nhà 51 Trương Quốc Dung và một số khu vực khác ở Biên Hoà, Vũng Tàu.
Cục đối ngoại mất khu 45 đường Trường Chinh và nhà khách Liễu Giai, Tổng Cục Chính Trị mất nhà khách 14A Lý Nam Đế, nhà nghỉ Đồ Sơn. Quân chủng phòng quân mất bãi pháo hồ Trúc Bạch. Quân khu 5, quân khu 3 đều mất những khu vực quan trọng. Hà Nội mất hàng ngàn m2 trong triển lãm Giảng Võ và sàn nhẩy Queen Bee Láng Hạ. Đáng chú ý là các tụ điểm giải trí đó hoạt động rất có lãi mà Nhà Nước không thu được bao nhiêu, nay biến thành những điểm tiêu cực xã hội.

Các vũ nữ xinh đẹp đều được cung hiến cho Lê Việt Bắc và nhóm G7. Có cô được phong làm giám đốc nhà khách 14A Lý Nam Đế hiện nay, dù không một ngày cống hiến cho cách mạng mà nghiễm nhiên có xe con, biển số 80B của Trung Uơng phục vụ, mang quân hàm thiếu tá.

Nhà nghỉ của Chủ nhiệm Tổng Cục Chính trị tại Đồ Sơn, nhà khách TOSECO ở Vũng Tàu đều trở thành nhà chứa, nơi ăn chơi nghỉ mát cho đám tay chân, bộ hạ và người thân của Vịnh, khi có sai phạm đều lấy lý do tác nghiệp để giải quyết !

Các khu nhà nghỉ sang trọng đó được thiết kế thật cao cấp và trang bị nội thất rất hiện đại. Vịnh và G7 đều xin ngân sách quốc phòng cấp để cải tạo, xây mới và giao Hồng Bàng và HB xây dựng. Những lúc không cho bạn bè mượn thì Vịnh lại cho thuê…

Như vậy, Vịnh và gia đình lại một lần nữa thu tiền qua các công trình và kinh doanh nghiệp vụ, các hình thức mở tụ điểm vui chơi, giải trí, ăn nhậu cho các quan chức Nhà Nước, nếu có tiền lãi thì hưởng trọn, nếu mất mát thất thu thì ngân sách Nhà Nước chịu !

c) Đối với đất xin để xây nhà ở cho cán bộ, Vịnh khá chu toàn nhưng các khu đẹp như đường Trường Sơn, đường Sư Vạn Hạnh đều chia ưu tiên cho nhóm G7, nhất là đối với Kháng, Nhu, thư ký Đại Tướng Đoàn Khuê và Hồ Sỹ Hậu đã giúp trình Bộ Trưởng cấp cho Vịnh tất cả trên 40 xe con xịn các loại để đi lại và kinh doanh. Đội xe nay đóng ở Thụy Khuê và hoạt động rất mạnh.

Như vậy, các mục a, b, c nêu trên chỉ có ban kiểm tra đặc biệt của TW mới có thể kiểm kê được trong 10 năm qua Vịnh và đồng bọn đã bày mưu tính kế chiếm được bao nhiêu nhà đất ? hiệu quả thực cho nghiệp vụ chuyên an lãnh thổ, cho Đảng và Nhà Nước được những gì.

2- KIẾM TIỀN QUA NHỮNG HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI

Với lý do TOSECO có chức năng thương mại nên từ khi có được ngân sách đặc biệt và được sự tiếp sức của G7,Vịnh đã thao túng ký nhiều hợp đồng mua máy bay, tàu thuỷ, thiết giáp phụ tùng cho phòng không, không quân, đóng tàu trên 300 triệu đô-la.

Thủ trưởng Bộ cho phép TOSECO được hưởng quy chế bí mật quốc phòng nên không cần đấu thầu. Mỗi chuyến hàng chở từ Nga về đến sân bay, Vịnh đều cho xe bọc kín vào lấy hàng và ra cửa sau, không qua bất kỳ một cửa kiểm soát nào. Với số tiền này, chúng khôn khéo bỏ túi tất cả các cấp lãnh đạo và bịt kín tất cả những thiệt hại nhiều trăm triệu đô-la của Nhà Nước.

Không có sự thẩm định các hợp đồng nên mua bán đều tùy tiện vào các môi giới và bộ hạ của Vịnh, giá mua thì rất đắt mà chất lượng lại kém. Ví dụ như vụ việc máy bay cường kích SU-27 được báo với Bộ là rẻ hơn Trung Quốc, nhưng thực tế là phía Trung Quốc mua SU-27 đánh biển, và TOSECO mua là SU-27 đánh không. Tai hại hơn khi diễn tập ở biển thì không hiểu vì lỗi kỹ thuật hay do chất lượng cũ kém nên một SU-27 đã rơi gây mất của, chết người.

Một thí dụ khác là mua tàu và thiết bị vật tư đóng tàu, thiết bị sửa chữa máy tàu, mua thì đắt mà thiết bị lại quá cũ nên sau gần 10 năm mà tàu chiến vẫn chưa ra tàu, nhà máy vẫn chưa ra nhà máy.

Đề nghị Ban Kiểm Tra Trung Uơng đến nhà máy X50, X51 Ba Son của Hải quân/ Tổng cục kỹ thuật/ Tổng cục công nghiệp quốc phòng và kinh tế, các quân binh chủng để tìm hiểu về vấn đề này .

Đặc biệt dây chuyền X50, tư lệnh hải quân Mai Xuân Vinh kiên quyết không cho nghiệm thu, nhưng sau nhiều lần Vịnh dùng sức ép của Bộ nên ông Vinh đành cay đắng chấp nhận .

Như vậy, Vịnh và cộng sự đã kiếm được hàng chục triệu đôla tiền môi giới, hoa hồng, lại quả, tiền chi phí vênh khi thực hiện hợp đồng theo cơ chế an ninh nghiệp vụ mà không ai được quyền biết đến.

Sau này khi cơ chế của BQP chặt chẽ và có kiểm soát hơn thì Vịnh chuyển sang kiếm tiền bằng cách thành lập hệ thống tình báo công nghệ:

Cục tình báo công nghệ, Trung tâm B5, Công ty SECOTEX (với danh nghĩa của Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng và Kinh Tế), Công ty HITACO (với danh nghĩa là Tổng cục kỹ thuật) xin được hàng ngàn m2 đất và đang xúc tiến xây dựng các dự án xin Nhà Nước đầu tư vào khu công nghệ cao thông qua Vụ Khoa Giáo Văn Phòng Chính Phủ (có sự chỉ đạo trực tiếp của Đoàn Mạnh Giao). Các Công ty Trung Tâm nói trên đều được nhà nước bao cấp, có tư cách ký kết trực tiếp các hợp đồng ngoại để bảo đảm bí mật về tính năng kỹ thuật và nền công nghiệp quốc phòng.

Ngoài các Công ty nói trên, Vịnh đã chỉ đạo bố vợ là Vũ Chính cho phép mỗi Cục trong TC2 được thành lập ít nhất một Công ty bình phong dân sự trong nước để lấy người và phương tiện của quân đội kinh doanh thương mại làm lợi cá nhân và tập đoàn bè phái .
Tại hải ngoại thì Vịnh tập hợp một số thành phần lao động xuất khẩu để lùng sục, môi giới, hoặc giả giúp đỡ họ thành lập các Công ty bình phong do ngân sách quốc phòng Nhà Nước đài thọ nhằm tìm kiếm đối tác phục vụ cho những hợp đồng thương mại nói trên.

Thử hỏi trong 6 năm qua ngân sách Nhà nước đã chi cho chương trình tình báo công nghệ hàng trăm tỷ đồng nhưng chưa thu lại kết quả đáng kể về công nghệ cho quân đội để áp dụng vào sửa chữa và sản xuất trang thiết bị quốc phòng.

Người đứng đầu ngành tình báo công nghệ hiện nay là Phạm Ngọc Hùng, tự Hùng “Tút” quân hàm Thiếu Tướng, một cộng sự tin cẩn nhất của Vịnh từ lúc còn ở Công ty TOSECO. Tại TC 2 hiện nay, hai người giàu nứt vách, có hàng trăm triệu đô-la, là TCT Nguyễn Chí Vịnh và PTCT Phạm Ngọc Hùng, chúng kiếm tiền như nước qua những hợp đồng mua sắm của Bộ Quốc phòng.

3- KHỐNG CHẾ CÁN BỘ ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC NHƯ THẾ NÀO ?

Ngay khi thành lập TOSECO, Vịnh đề cử Tấn, em của Đặng Kháng - trưởng phòng tổng hợp Bộ Quốc Phòng, một nhân vật trụ cột của G7 làm Phó Giám Đốc thường trực phía Bắc. Tấn thuê nhà Lê Việt Bắc dùng làm văn phòng đại diện Công ty, đồng thời cử cháu Tướng Đào Đình Luyện là Đào Quang Dũng làm Tổng đại diện ở Moscow. Dũng cặp bồ với Thị Phương, vợ của một cán bộ cao cấp TC2 tại Sanh Pê-téc-bua để thu nạp thêm tay chân bộ hạ trong đám nhốn nháo, nhếch nhác đang lao động xuất khẩu tại Nga, sau đó lần lượt đưa các con cha, cháu ông…Văn Phác, Hà Thị Quế, Đỗ Đức, Cao Tiến Phiếm…vv về TOSECO làm vây cánh.

Sau khi có tiền, có phương tiện và đầy đủ quyền uy trong tay, bằng mọi phương thức, bằng mọi thủ đoạn…bằng gái, bằng tiền, bằng ăn nhậu, bằng những đêm nhất dạ đế vương hoan lạc… Vịnh lần lượt đưa các tướng lĩnh ở những vị trí quan trọng như Lê Khả Phiêu, Lê Văn Hân (Cục trưởng Cục cán bộ), Đoàn Mạnh Giao (Văn phòng Chính phủ), Dương Đàm (Cục trưởng Cục quân lực), Hoàng Dũng (Chánh văn phòng Bộ Tổng tham mưu), Nguyễn Hữu Cảng (Cục trưởng Cục Tài chính) vào mê hồn trận ! Sự chiều đãi vô biên hội G7 và một số chuyên viên quan trọng khác ở Bộ đã nới rộng quyền lực của Vịnh đến tột đỉnh.

Và chúng ta đã hiểu vì sao chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị Lê Khả Phiêu thời đó đã dễ dàng nhường các khu nhà khách quan trọng cho Vịnh kinh doanh, vì sao một cô ca ve rất thân thiết với Lê Khả Phiêu, Lê Văn Hân làm được giám đốc nhà khách 14A Lý Nam Đế, và được đeo lon thiếu tá !

Vì sao Vịnh đã bỏ túi được nhiều cán bộ cao cấp? Vừa thành công mỹ mãn về kinh tế và công danh sự nghiệp, vừa là triệu phú đô-la, vừa được thăng quân hàm mỗi năm, xây dựng cả một hệ thống tay chân và đàn em điều khiển các tụ điểm nhảy đầm, bia ôm, gái điếm, “bình phong” của bao Công ty nghiệp vụ trong và ngoài nước ? Tính đến nay Vịnh đã có 7 cơ ngơi hoành tráng ở khắp đất nước được đứng dưới tên nhiều người thân thuộc. Vợ Vịnh ngày ngày lái xe con xịn đi làm, đeo kính đen, ăn mặc như minh tinh màn bạc Hồng Kông, ai thấy cũng phải gờm.

Khi Vịnh lên Tổng Cục Phó đã mua ngay trên 2000 m2 đất Thụy Phương, phía nam cầu Thăng Long để làm dinh thự. Trong khi đó, biết bao nhiêu chiến sĩ, cán bộ hoạt động cống hiến suốt đời cho ngành tình báo Quốc Phòng trong cả hai cuộc chiến chống Pháp, chống Mỹ, giành Độc Lập cho Tổ Quốc và thậm chí cả những đồng đội còn tiếp tục hoạt động ngoại biên sau thời chiến, cũng chưa có ai được đặc cách đề bạt vượt cấp, vượt chức, vượt thời gian và có một cuộc sống đế vương như Vịnh.

Để khuynh đảo, giật dây được mọi giới, mọi cấp trong chính quyền, Vịnh cho ghi âm quay phim các buổi tiệc tùng, ăn chơi chiêu đãi thượng cấp, đặt máy nghe trộm điện thoại tất cả quan chức từ tỉnh thành đến quận đội từ trung ương đến địa phương để thực hiện thủ đoạn lưu manh chính trị.

Dàn dựng kịch bản, giả mạo chứng cứ để hãm hại đồng đội hay bất cứ ai dám đối đầu chỉ là trò con trẻ, Vịnh còn phù phép, hô phong hoán vũ biến củ ấu thành tròn, biến không thành có bằng các thủ đoạn cực kỳ gian manh nguy hiểm !

Kể từ khi các tướng Phạm Thanh Ngân và Lê Khả Phiêu đã lọt vào gánh xiếc Chí Vịnh thì mọi quyết định, mọi công tác tổ chức bên Bộ đều do Vịnh gián tiếp sắp xếp phân bố điều hành đâu vào đấy …mà không ai biết được, ngoài Vịnh, đấy là đâu !

Tình trạng này nếu không sớm chấm dứt thì trong tương lai rất gần toàn thể các vị lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước và toàn bộ cơ chế Quốc Gia đều bị Vịnh khống chế thông qua hệ thống tình báo quân đội do Vịnh đứng đầu, nếu vậy thì giấc mộng Đế Vương của Vịnh không hẳn là xa vời !

4- TẠI SAO TRONG MƯỜI NĂM VỊNH ĐÃ LÀM ĐƯỢC NHIỀU VIỆC “ĐỘI ĐÁ VÁ TRỜI” NHƯ VẬY ?

1. Do bản chất lưu manh, bất chấp mọi thủ đoạn đê tiện, lại được sự hỗ trợ tích cực của G7.

Khi G7 bị Bộ Quốc Phòng phân hoá thì Vịnh đã động viên cả nhóm hãy biết “nín thở qua sông” và nhẫn nại chờ “trời quang mây tạnh”. Trong giai đoạn,Vịnh không thể can thiệp được bằng không thì cả hội, cả thuyền sẽ bị chìm đắm.Vịnh hứa sẽ đảm đương việc gầy dựng lại G7 lớn mạnh hơn vững chắc hơn khi thời cơ đến, ví dụ: Tướng Hoàng Dũng vừa bị thay thì hắn đã xây dựng và sử dụng được Tướng Cao Tiến Phiếm, thay Đặng Kháng thì xây dựng xongVõ Mai Nhẫn…

Khi Vịnh lên Tổng cục trưởng TC 2 liền bàn với Cao Tiến Phiếm đưa Trung, Kháng, trở về những vị trí quan trọng ở BQP vừa thể hiện tình nghĩa với các đàn anh, vừa tạo nanh vuốt hầu thực hiện mưu đồ chính trị. Phiếm vì món nợ trước đây mà giúpVịnh được nhiều việc, đặc biệt sự thành công trong lĩnh vực ma-phia chính trị.

2. Là con nuôi và con rể của các Tướng Lê Đức Anh, Đặng Vũ Chính, có thể nói, không có Vũ Chính thì không có Chí Vịnh mà không có Chí Vịnh thì cũng không thể có Vũ Chính (Vũ Chính lên được Tổng cục trưởng là nhờ vào vận động bằng tiền, bằng gái và sự dàn dựng, lừa lọc của Chí Vịnh và G7).

3. Các chương trình mua sắm vũ khí, trang thiết bị cho Bộ Quốc Phòng đều được ghi là công của Vịnh. Mặc dù toàn bộ các khí tài này đều không đạt chất lượng và giá lại cao gấp nhiều lần nếu qua mua bán chính thức. Đây là một trò lừa đảo, lưu manh chính trị tập thể, để củng cố vững chắc vị trí phe nhóm và chính sách gia đình trị của bố con Vũ Chính - Chí Vịnh tại TC 2.

5. Trên cương vị lãnh đạo TC 2, Vịnh có quyền thế ,phương tiện, điều kiện tiếp cận để mua chuộc hoặc khuynh đảo các cán bộ cao cấp của quân đội và Nhà Nước.

6. Trong số con ông cháu cha và bạn bè, thân hữu được Vịnh tuyển vào TC2 vào những năm 93, 94, 95 và 96 đa số không qua một ngày làm lính, không được học tập bản chất truyền thống oai hùng của quân đội mà được đặc cách đeo quân hàm thiếu tá, trung tá, và có trường hợp là thượng tá. Như vậy Vịnh vừa ban ân bố đức cho gia đình đồng bọn, đồng thời mua chuộc sự phục tùng tuyệt đối của đám bộ hạ. Qua đó chúng ta thừa hiểu là Vịnh đã thao túng, điều tiết được các quan lớn ở Cục cán bộ, Cục quân lực và Tổng cục chính trị như thế nào !

Từ các vấn đề nêu trên, đề nghị Bộ Chính trị, Ban Tổ Chức TW, Bộ Quốc Phòng, Quân Ủy TW:

1. Hãy loại bỏ tên trùm lưu manh, tham nhũng đầu sỏ, sâu dân mọt nước , tên tội phạm hình sự và chính trị nguy hiểm Nguyễn Chí Vịnh ra khỏi Đảng Cộng Sản và Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

2. Không cho phép tình báo quân đội TC2 được làm kinh tế, được thành lập doanh nghiệp “Vỏ Bọc “hoặc “ Bình Phong” để hoạt động nghiệp vụ tình báo, không được lạm dụng cài cắm người vào các tổ chức, các công ty dân sự một cách tràn lan, không cần thiết làm tốn kém ngân sách Nhà Nước

3. Đất nước Việt Nam có dân tộc Việt Nam anh hùng, có Đảng Cộng Sản lãnh đạo vững mạnh, có Hiến Pháp… có đủ các cơ quan nghiệp vụ chuyên an lãnh thổ trong Bộ Quốc Phòng cũng như trong Bộ Công An.

TC2 là một tổ chức đứng trên luật pháp, đứng trên mọi cơ quan quyền lực Quốc Gia để lũng đoạn đất nước nhằm phục vụ thiểu số cá nhân vụ lợi,vì vậy chúng tôi, đại diện một số cán bộ, chiến sĩ từng nằm gai nếm mật của ngành tình báo xin kiến nghị Bộ Chính Trị, Ban Bí Thư, Ban Chấp Hành TW, Ban Tổ Chức TW hãy giải thể TC2 và trả về vị trí Cục 2 thuộc Bộ Tổng Tham Mưu/Bộ Quốc Phòng như trước đây.

Cũng cần biết Cục 2 đã từng góp phần không nhỏ trong sự nghiệp bách chiến bách thắng của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

4. Sau đại hội, yêu cầu Quân Ủy TW tổ chức lại quân đội cho vững mạnh, trước hết là chấn chỉnh Cục 2 chọn người hiền tài phục vụ cho đất nước vì tình báo là ngành chịu nhiều hy sinh gian khổ nhất mà cứu cánh là để Tổ Quốc quyết sinh.

Các chiến sĩ tình báo là những anh hùng vô danh, sống trong bóng tối và chết trong bóng tối, quân hàm không mang mà nhiều khi quân lương cũng không hưởng, lòng dũng cảm hy sinh vì nhiệm vụ đặt trên tình yêu Tổ Quốc nồng nàn và vô điều kiện !Võ Đồng Độ

Phổ biến hiện tượng sử dụng giấy tờ rởm ở Việt Nam

Nguyễn Quang Thiều

Ngẫm thật kỹ thì thấy rằng: ở một số nơi cái gì người ta cũng có thể làm được. Thật kinh hãi!
Hoá ra, chuyện cải lão hoàn đồng rất dễ thực hiện ở Việt Nam. Trong lúc con người cả mấy ngàn năm nay đi tìm các linh vật, thần dược hay pháp thuật để giúp mình trẻ mãi mà không tìm thấy.
Chúng ta đang lên tiếng về việc bằng rởm. Những người dùng bằng rởm là những người không trung thực và lừa dối xã hội. Mục đích của việc dùng bằng rởm chỉ là để tiến thân chứ không có mục đích nào khác. Khi một người dùng bẳng rởm để lọt vào một vị trí quản lý nào đó sẽ làm cho bộ máy quản lý đó bị suy yếu và gây ra những tổn hại khôn lường cho đất nước.
Nhưng có một chuyện khác cũng đáng lên án không kém chuyện bằng rởm. Vì chung quy cả hai việc này đều là những việc giả dối và vi phạm luật pháp. Đó là chuyện về khả năng cải lão hoàn đồng của các cán bộ Nhà nước.
Khả năng cải lão hoàn đồng của những cán bộ Nhà nước mà tôi đang nói đến là khả năng biến mình từ 45 tuổi chỉ còn 40 tuổi, 50 tuổi chỉ còn 45 tuổi, từ 55 tuổi chỉ còn 50 tuổi… chỉ sau mấy tiếng đồng hồ. Thế là, một người sắp đến tuổi về hưu bỗng trở nên còn khá trẻ, một người sắp hết tuổi đề bạt bỗng lại rất teen… teen và đủ tiêu chuẩn về tuổi tác để đề bạt.
Nguyên liệu dùng để cải lão hoàn đồng chỉ là một tờ giấy A4 cùng với sự trợ giúp của Uỷ ban xã, phường là đủ hay đại loại những cơ quan nào có thể chứng nhận việc này. Giấy A4 đó là bản khai sinh được làm lại cộng với mấy lời ngọt ngào của người đang thực hiện cải lão hoàn đồng cùng một cái phong bì “ăn trưa” hay quà cáp gì đó là được đóng dấu. Xem ra, chuyện cải lão hoàn đồng không quá khó! Trong lúc con người cả mấy ngàn năm nay đi tìm các linh vật, thần dược hay pháp thuật để giúp mình trẻ mãi mà không tìm thấy.
Trong Tây Du Ký, bọn ma vương ở khắp nơi trên đường Huyền Trang đi lấy kinh đều khao khát ăn thịt Huyền Trang (Đường Tăng) để trường sinh bất tử mà không thể nào làm được. Nhưng ở Việt Nam, chỉ cần nghỉ làm một buổi sáng với một tờ A4 là có thể biến mình đang già cốc đế trẻ lại mấy tuổi.
Việc khai tăng, giảm tuổi ở Việt Nam không phải là chuyện lạ. Cũng có những người đã khai tuổi mình tăng lên. Đó là một số người muốn về hưu sớm hay về “một cục” vì rất nhiều lý do khác nhau. Thế là họ cũng dùng một tờ A4 cùng với sự trợ giúp của một nơi có thể đóng dấu xác nhận ngày sinh mới. Nhưng mục đích của những người này không phải để cải lão hoàn đồng mà để cải đồng hoàn lão.
Còn các cụ ông cụ bà ở nhà quê cũng thường cải đồng hoàn lão với mục đích thật dễ thương là để làm Thượng thọ. Làng tôi có không ít cụ làm thế. Khi chính quyền thôn hoặc xã bảo theo sổ đăng ký hộ khẩu thì phải một hoặc hai năm nữa cụ mới đến tuổi 70 hay 80 thì các cụ “bẩu”: Biết có sống đến ngày đó không mà đợi, ông cứ cho tôi đủ tuổi để con cháu làm Thượng thọ cho ông bà, bố mẹ thoả lòng hiếu thảo của chúng. Hơn nữa, các cụ ở nông thôn rất thích mình là người “thọ”. Đấy là phúc của gia đình mà.
Thấy mong ước thật trong sáng và với tinh thần kính lão đắc thọ, chính quyền địa phương nhất trí ngay. Hơn nữa nhỡ các cụ ra đi khi chỉ còn nửa năm hay một năm nữa mà chưa được mặc áo vàng, áo đỏ và được con cháu, họ hàng làng xóm chúc mừng thì người sống lại áy náy.
Khát khao cải đồng hoàn lão của các cụ thật trong sáng, thật đẹp và thật đáng chia sẻ. Nhưng còn trò cải lão hoàn đồng của các cán bộ Nhà nước thì thật tồi tệ. Có những người khi cơ quan công bố nghỉ hưu thì thấy lòng buồn rười rượi, nặng như đá cùm. Và khi nghe cơ quan thông báo nghỉ rồi vẫn chẳng chịu bàn giao hồ sơ hay giấu biệt tin này với những người thân quen.
Có người về hưu rồi vẫn sáng sáng xách cặp da đến cơ quan rồi ngồi lân la uống trà ở phòng này, cà phê ở phòng khác. Nhưng với những người có trí tuệ thì nghỉ hưu rồi vẫn vất vả vì nhiều nơi vẫn muốn mời họ làm việc như một chuyên gia hàng đầu. Bởi thế mà Nhà nước đã có chính sách sử dụng lâu dài những người đến tuổi về hưu nhưng có trình độ chuyên môn cao để phục vụ đất nước.
Chính vì những lợi quyền cá nhân và thói tham quyền cố vị đã biến không ít cán bộ trở thành những “phù thuỷ” dùng tà thuật có tên: Cải lão hoàn đồng.
Ngẫm thật kỹ thì thấy rằng: ở một số nơi cái gì người ta cũng có thể làm được. Thật kinh hãi!
Nguồn: Tuanvietnamnet 5/07/2010

Giáo dục Việt Nam: bao giờ khởi sắc?

Giấc Mơ Xanh

Thời học cấp hai, tôi may mắn được một cô giáo dạy giỏi thành phố dạy môn Văn. Ấn tượng đầu tiên của tôi về cô là ngay trong tiết học đầu tiên, khi vừa bước chân vào lớp, cô đã tuyên bố “Tôi sẽ không dạy các em về Văn học Cách mạng vì cái thứ văn chương đó chẳng cần học cũng hiểu, ý của nó sờ sờ ra đấy, các em về nhà tự đọc khắc biết. Chẳng lẽ tôi lại dạy các em những bài văn miêu tả trẻ con ăn cắp lựu đạn của Tây hay những chuyện vớ vẩn như lấy thân mình làm đuốc sống? Tôi sẽ dạy các em Văn học lãng mạn vì nó hay và khó hơn nhiều”. Thế là lũ học sinh ngơ ngác chúng tôi được bay bổng trong những bài giảng của cô về đề tài tình yêu quê hương đất nước, tình yêu gia đình, tình yêu nam nữ không những đầy ắp tính nhân bản và lãng mạn, mà còn vô cùng trong sáng và đẹp đẽ của các tác giả Thế Lữ, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Huy Cận hay nhóm Tự lực Văn đoàn thay cho những bài thơ chính trị giả dối, khô khan như hô khẩu hiệu của Tố Hữu, Hồ Chí Minh.

Giờ đây, ngồi nhìn lại bảng điểm thời đại học, tôi hiểu hơn, càng biết ơn và ngưỡng mộ suy nghĩ của cô giáo tôi thời ấy. Mặc dù chuyên ngành tôi học trong mấy năm đại học chẳng liên quan gì đến chính trị cả, nhưng một phần tư thời gian và số môn học mà nhà trường nhồi nhét cho sinh viên theo quy định của Bộ Giáo dục là về chính trị: Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa Cộng sản khoa học, Quân sự, Triết học Mác- Lênin, Lịch sử Đảng… Như vậy là bao nhiêu thế hệ người Việt Nam, từ khi còn là đứa trẻ ngây thơ ở bậc phổ thông cho đến khi trưởng thành ở bậc đại học và sau đại học đều bị nhồi sọ cái chủ thuyết không tưởng Xã hội chủ nghĩa và tư tưởng thống trị của Đảng. Bao nhiêu thời gian, tiền bạc, công sức, chất xám của cả một xã hội, của bao nhiêu lớp người đều bị ngành Giáo dục phung phí cho việc truyền bá tư tưởng và quyền lợi chính trị của Đảng cầm quyền. Chuyên môn nghề nghiệp không được coi trọng, kiến thức không được cập nhật với tình hình phát triển khoa học trên thế giới, học không đi đôi với hành, tư duy độc lập và sự sáng tạo cũng không thể phát huy vì đằng nào thì Đảng cũng quyết định tất cả mọi mặt trong cuộc sống. Một nền Giáo dục như vậy thì con người Việt Nam bao giờ mới hội nhập được với lực lượng lao động chất xám trên thế giới hay chỉ suốt đời đi làm thuê, bán sức lao động rẻ mạt cho các nhà đầu tư nước ngoài trên chính mảnh đất quê hương mình?

Thực tế cho thấy, Việt Nam đã không đào tạo được những con người có thể cạnh tranh trên toàn cầu. Hãy nhìn vào nền Giáo dục của những nước châu Á khác như Ấn Độ chẳng hạn. Sau bao năm rập khuôn kinh tế Xã hội chủ nghĩa, vào những năm 80, Ấn Độ quyết định từ bỏ con đường này và cải tổ toàn bộ hệ thống Giáo dục. Ngay khi Mỹ sản xuất chiếc máy vi tính đầu tiên, sinh viên Ấn Độ bắt đầu được học những kiến thức mới nhất về kỹ thuật vi tính. Trong khi tiếng Nga là ngoại ngữ gần như duy nhất được dạy trong trường phổ thông ở Việt Nam thì trẻ em Ấn Độ học tiếng Anh ngay từ lớp một. Nhờ vậy mà chỉ trong một thập niên, Ấn Độ nhanh chóng trở thành thị trường cung cấp các chuyên viên vi tính cho toàn thế giới. Những kỹ sư vi tính của Ấn Độ được nhận vào làm việc tại các công ty lớn như Nokia, IBM, Microsoft, Intel, Toshiba, Apple ở khắp nơi trên thế giới. Thậm chí, để tận dụng tối đa chất xám của Ấn Độ, các công ty lớn như Microsoft, Nokia, Intel còn lập những trung tâm nghiên cứu & phát triển (R&D) ngay tại Ấn Độ. Trong khi Việt Nam chỉ có thể xuất khẩu lao động cơ bắp thì Ấn Độ xuất khẩu lao động chất xám với mức lương cao gấp cả trăm lần so với lương của người Việt Nam. Quyết tâm từ bỏ nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa và cải tổ Giáo dục đã đưa Ấn Độ vươn lên đứng hàng thứ 11 trong kinh tế thế giới.

Còn Trung Quốc thì sao? Năm 1980, Đặng Tiểu Bình quyết định đưa sinh viên Trung Quốc đi khắp thế giới để học những kỹ thuật mới của phương Tây. Trung Quốc trở  thành quốc gia có số sinh viên du học tại Mỹ cao nhất. Giáo dục tại Trung Quốc dần dần bỏ bớt những nội dung chính trị và chú trọng khoa học kỹ thuật. Sách giáo khoa lịch sử tại Thượng Hải chỉ có một dòng nhắc đến Mao chủ tịch, và một trang về Đảng cộng sản Trung Quốc. Nhờ vậy, trong vòng 30 năm, nền kinh tế của Trung Quốc đứng hàng thứ ba trên thế giới chỉ sau Mỹ và Nhật Bản. Cũng giống như ở Ấn Độ, các công ty đa quốc gia như Microsoft, Intel, Airbus…đều thành lập những trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) tại Trung Quốc để tận dụng chất xám của nước này.

Việt Nam mãi tụt hậu và nghèo đói vì đã bỏ lỡ cơ hội quý giá trong cạnh tranh trên thị trường lao động chất xám thế giới. Với hệ thống Giáo dục hiện nay, Việt Nam không thể đào tạo được những chuyên viên có tay nghề cao. Công ty Intel tại Việt Nam đã có lần nói rằng trong 4000 đơn xin việc, họ chỉ tuyển chọn được có 40 người, tức là chỉ có 1% đáp ứng được yêu cầu trình độ kỹ thuật. Ngay tại thị trường lao động trong nước mà Việt Nam còn không đủ khả năng đáp ứng thì còn nói gì đến việc vươn ra thị trường lao động trên thế giới?


Nhiều người cố tự hào cho rằng Việt Nam vẫn có những học sinh đoạt các giải thưởng Olympic thế giới hàng năm đó thôi? Theo tôi, đấy chỉ là những hiện tượng lẻ tẻ. Hậu quả của Giáo dục Việt Nam phải được đánh giá trên một bình diện rộng. Hơn nữa, liệu những em học sinh đó có tiếp tục phát huy được trí tuệ của mình ở Việt Nam không hay lại bị thui chột đi? Bởi lẽ, nếu nhân tài được trọng dụng và có đủ điều kiện để phát huy thì giờ này Việt Nam hẳn đã có một vài giải thưởng Nobel và các phát minh, sáng chế hay ít ra cũng có những công trình nghiên cứu khoa học uy tín trên thế giới rồi. Không làm được điều đó nên nền Giáo dục mới phải đào tạo ra những ông Tiến sĩ giấy hòng lừa bịp dân đen chứ?

Cái mốt du học đang tràn lan ngày nay càng không thể là cứu cánh cho nền Giáo dục lụn bại nước nhà. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ những gia đình có tiền ở thành phố mới có thể cho con mình đi “tỵ nạn giáo dục” ở nước ngoài. Còn đại bộ phận dân chúng vẫn phải chấp nhận nền giáo dục cổ lỗ sĩ ấy. Hơn nữa, những sinh viên học xong từ nước ngoài trở về liệu sẽ được trọng dụng ra sao khi chất xám vẫn bị coi rẻ ở Việt Nam? Ngoài việc tự làm giàu cho bản thân, họ làm sao đóng góp kiến thức để xã hội tiến bộ khi cả một guồng máy khổng lồ vẫn quay theo ý Đảng mà họ chỉ là một hạt cát? Đó là chưa kể nhiều sinh viên học xong ở nước ngoài, ngán ngẩm với chế độ đãi ngộ bất công ở Việt Nam đã tìm cách ở lại nước sở tại, đóng góp chất xám cho xã hội ấy. Cứ cái đà này thì Việt Nam chẳng còn mấy nhân tài để “sánh vai được với các cường quốc năm châu” như “điều Bác Hồ dạy” mà tôi bị bắt phải thuộc lòng từ khi mới biết chữ.

Tôi nhận thấy con người ở Việt Nam bị ép buộc phát triển một cách duy ý chí và phải thích nghi với xã hội nhiễu nhương ấy. Trong khi ở Mỹ, tôi thấy điều ngược lại, nghĩa là xã hội phải phát triển sao cho mọi nhu cầu của con người đều được đáp ứng. Người ta tìm đủ mọi cách, bằng tiến bộ khoa học nhằm tạo ra những thứ phục vụ con người, bằng các chính sách xã hội nhằm tạo ra một môi trường thoải mái và thuận lợi nhất cho con người. Pháp luật và các hoạt động chính trị đều phải đáp ứng quyền lợi của mọi thành phần trong xã hội. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy người ta đề ra chính sách quan tâm, ưu ái cho cả những cô gái mang thai vị thành niên để những cô gái trẻ người non dạ này không phải bỏ học giữa chừng hay bị phân biệt đối xử. Ở Việt Nam ta, những cô gái như vậy chắc sẽ bị cả gia đình lẫn xã hội chê cười, khinh bỉ và nếu có bỏ học thì cũng chẳng có ai thèm đếm xỉa.

Muốn Giáo dục thay đổi, cũng giống như những ngành nghề khác trong xã hội Việt Nam, nhất thiết phải loại bỏ hoàn toàn hệ thống tư tưởng “Đảng trị”. Để làm được vậy thì nền kiến trúc thượng tầng bao gồm chính trị và pháp luật phải được thay đổi toàn bộ. Xã hội Việt Nam phải là một xã hội “Pháp trị”, trong đó con người được đặt ở vị trí trung tâm. Mọi hoạt động xã hội hay chính trị đều phải coi con người là đối tượng phục vụ chứ không phải đối tượng bị trị hay kìm kẹp. Bên cạnh những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, hệ thống Giáo dục cần xây dựng chương trình theo lối tư duy tự do, sáng tạo và coi trọng thực hành, áp dụng lý thuyết vào thực tiễn như thế giới đang làm.

Không thể để dân tộc Việt Nam, nòi giống Việt Nam tiếp tục bị đầu độc bởi một nền Giáo dục mà thực chất chỉ là phương tiện thực hiện đường lối “ngu dân” của Đảng. Không thể để con người Việt Nam tiếp tục bị bóc lột sức lực, đi làm công nhân, giúp việc nhà hay làm cô dâu bất đắc dĩ cho những dân tộc khác mà trí tuệ của họ không hơn gì ta. Không thể để nhân tài Việt Nam tiếp tục bị vùi dập và buộc phải đem nguồn chất xám quý báu cống hiến cho nước khác trong khi tương lai nước nhà còn đen tối. Tất cả những khát vọng đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta đủ quyết tâm, cùng nhau gột rửa những tư tưởng thống trị của Đảng ra khỏi xã hội và hợp sức tìm cho Việt Nam một con đường mới.

Nước Mỹ, ngày…tháng…năm…

Giấc Mơ Xanh và một người bạn