16/7/11

Bản tin… kì lạ và những người đưa tin… kì lạ!

Nguyễn Duy Xuân

Nguyễn Duy Xuân
Dưới đây là bản tin đăng trên Vietnam+ (Cơ quan chủ quản là TTXVN) lúc 6 giờ 22 phút ngày 11-07-2011. Chỉ sau vài tiếng đồng hồ, hàng ngàn trang mạng trong đó có Tiền phong, Dân trí, Báo mới.com, Giáo dục Việt Nam, Bee.net.vn, Đất Việt, báo Đà Nẵng đồng loạt đăng tải nguyên vẹn.

Trung Quốc cử tàu ngư chính tuần tra Trường Sa

11/07/2011 | 06:22:00
Từ khóa: Trường Sa, Vành Khăn, Tàu ngư chính, Tài nguyên, Tàu cá
Trong bản tin ảnh phát đi vào lúc 15 giờ 41 phút ngày 10/7, phóng viên Tân Hoa xã Hầu Kiến Sâm cho biết sáng cùng ngày, tàu ngư chính số 46012 đã rời cảng Tú Anh thuộc thành phố Hải Khẩu, tỉnh Hải Nam lên đường đi Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa) thay thế tàu ngư chính số 301 làm nhiệm vụ bảo vệ đảo đá ngầm Vành Khăn (Trung Quốc gọi là đá ngầm Mỹ Tế) và quản lý ngư chính trong thời gian 50 ngày.
Đây là lần đầu tiên ngành cá hải dương tỉnh Hải Nam thực hiện tuần ngư chính ở Trường Sa.
Liên quan tới sự kiện này, trong bản tin phát đi vào lúc 20 giờ 26 phút tối 10/7, hãng thông tấn bình luận Trung Quốc dẫn lời Trưởng phòng Hải dương và nghề cá Hải Nam Triệu Trung Xã cho biết việc tuần tra bảo vệ ngư chính ở Trường Sa là hành động chấp pháp chuyên ngành do Cục Ngư chính khu Nam Hải tổ chức thực hiện nhằm bảo vệ quyền lợi biển quốc gia, bảo vệ an toàn sản xuất, quy phạm hành vi sản xuất của các tàu cá Trung Quốc, tăng cường bảo vệ và quản lý tài nguyên sinh vật biển ở Trường Sa và cung cấp dịch vụ cứu trợ cần thiết cho các tàu cá Trung Quốc.
Đồng thời, hành động tuần tra bảo vệ ngư chính là biện pháp quan trọng thể hiện chủ quyền và sự quản lý của Trung Quốc đối với vùng biển Trường Sa.
Theo thuyền trưởng tàu ngư chính số 46012 Tạ Bất Phong, thực hiện nhiệm vụ lần này, tàu ngư chính số 46012 có tổng cộng 22 nhân viên ngư chính, vật tư dự trữ trên tàu gồm nước ngọt, thực phẩm, thuốc... đủ sử dụng trong 60 ngày.
Nhằm đối phó với khả năng xảy ra bão biển, sóng lớn..., các nhân viên ngư chính làm nhiệm vụ phải đề ra phương án phòng chống, bảo đảm tác động của thiên nhiên không ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ.
Cần nhắc rằng các tàu hải giám và ngư chính của Trung Quốc đã nhiều lần xâm phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam.
Gần đây, các tàu cá Trung Quốc với sự yểm trợ của các tàu ngư chính đã liên tục phá hoại hoạt động khảo sát bình thường do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tiến hành trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam./.
(Vietnam+)
Bạn đọc suy nghĩ gì khi người ta vô tư (chẳng khác gì đưa tin nhà) đưa nguyên vẹn bản tin của Tân Hoa Xã mà không một lời bình luận nào về tính hợp pháp của nó?
Một người bình thường, không là nhà báo cũng biết phản ứng khi tiếp nhận thông tin trên:
1. Lên án hành động trên của Trung Quốc là xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền biển đảo Việt Nam.
2. Bác bỏ những luận điệu xằng bậy nêu trong bản tin của Tân Hoa Xã nào là “tuần tra bảo vệ ngư chính ở Trường Sa”, rồi “tăng cường bảo vệ và quản lý tài nguyên sinh vật biển ở Trường Sa” và “là biện pháp quan trọng thể hiện chủ quyền và sự quản lý của Trung Quốc đối với vùng biển Trường Sa”.
3. Khẳng định chủ quyền bất khả xâm phạm của Việt Nam đối với vùng biển và quần đảo Trường Sa.
Thế mà, Vietnam+ của TTXVN lại không làm được như vậy. Thật khó hiểu khi Vietnam+ chỉ thòng vào cuối bài báo vài câu: “Cần nhắc rằng các tàu hải giám và ngư chính của Trung Quốc đã nhiều lần xâm phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam. (chỉ nhắc một cách chung chung thôi-NDX). Gần đây, các tàu cá Trung Quốc với sự yểm trợ của các tàu ngư chính đã liên tục phá hoại hoạt động khảo sát bình thường do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tiến hành trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Tuyệt nhiên không một câu chữ nào lên án hành động và lời nói sai trái, ngang nhiên xâm phạm chủ quyền Việt Nam của phía Trung Quốc.
Một tờ báo của TTXVN mà đưa tin kiểu này thì định hướng dư luận sao đây?
Từ bản tin của Vietnam+, hàng loạt các trang mạng khác cùng đăng tải, vô hình trung truyền thông Việt đang tuyên truyền không công cho kẻ khác và mặc nhiên công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Trường Sa?
[*] Bài do tác giả Nguyễn Duy Xuân gửi trực tiếp cho NXD-Blog.
Xin chân thành cảm ơn tác giả!

Cảnh sát Trung Quốc: Không phải là Hãm Hiếp nếu ông ta mang bao cao su

Độc giả Dân Luận chuyển ngữ từ blog của tờ theepochtimes.com
Chuyện khó tin nhưng chỉ thật có ở những xứ thiên đường cộng sản!!! Nhân dân Trung Quốc cũng như Việt Nam phải chịu nhiều sự bất công dưới sự cai trị độc tài, bá đạo, vô dân chủ, vô pháp luật của thể chế CS. Cô giáo Chu Tần cũng như học sinh Hằng, Thúy và nhiều em khác đã phải mang sự ẩn uất suốt cả cuộc đời, vết nhơ cuộc đời không bao giờ tẩy xóa được khi công an CS đã trắng trợn bao che cho quan chức nhà nước, khi lẽ phải vẫn nằm trong tay kẻ có quyền lực! Đốn mạt thay!
MPR đăng ngày 13 Tháng Bảy 2011
Câu chuyện về vụ hãm hiếp giáo viên trung học cô Chu Tần (Zhou Qin), 26 tuổi, đã thu hút nhiều sự chú ý hơn các báo cáo thông thường về sự lạm dụng quyền lực của các quan chức Trung Quốc, bởi vì sự phản ứng tuyệt vời của cảnh sát Trung Quốc cho sự tố cáo của cô Chu Tần: Cảnh Sát Trung Quốc đã bác bỏ trường hợp trên với lý do "đeo bao cao su không tính là hiếp dâm."

Cô Chu Tần giảng dạy tại trường trung học cơ sở Huajuea trong thị trấn Ashi, khu vực Bijie, phía tây nam tỉnh Quý Châu. Vào sáng ngày 17 tháng 5 các lớp học bị hủy bỏ cho một buổi "giáo dục pháp luật." Sau đó là thời gian tiệc tùng cho các công thần địa phương. Cô Chu Tần được lệnh phải dự bữa tiệc của họ và - trong một bầu không khí nữa như cưỡng ép, bản tin gốc của tờ Qianzhong Morning Post (1) cho thấy – cô đã bị ép uống nhiều hơn khả năng của cô.
Wang Zhonggui, trưởng Phòng quản lý đất đai và tài nguyên đất của địa phương và và sau đó bị tố tội hiếp dâm, đã ép cô Chu Tần uống chừng 15 cốc rượu. Sau đó, khi cô khật khưởng đi bộ về nhà, ông đã đón cô bằng xe hơi của mình, đưa cô trở lại văn phòng của ông, và hãm hiếp cô.
Các sự kiện này đã không được thông tin công cộng loan báo cho đến bây giờ bởi vì vụ này nằm trong tay của các quan chức cảnh sát địa phương. Cô Chu Tần đã cho báo chí biết sau khi cảnh sát đưa ra kết luận gây sốc của họ là họ không tính vụ này là hiếp dâm vì kẻ bị cáo có mang bao cao su.
Nhưng cảnh sát ở Trung Quốc có tin như vậy không? Còn gì nữa để nói khi đây không chỉ đơn giản là sự phản bác đầy mỉa mai cay đắng?
Bài này đã được đăng trong mục Nhân Quyền, Xã hội và Hiếp dâm.
(1) http://news.cn.yahoo.com/ypen/20110712/464527.html
Theo trang blog: http://blog.theepochtimes.com/1/china/2011/07/13/chinese-police-it%E2%80%99s-not-rape-if-he-wore-a-condom/
Ghi chú: Tên gọi và tên địa phương của Tàu tôi không biết để dịch.

Kiến nghị Quốc Hội ra tuyên bố về Biển Đông trước các diễn biến gần đây

Nguyễn Thượng Long

Nguyễn Thượng Long
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC
Hà Nội ngày 14 / 7 / 2011
KIẾN NGHỊ GỬI QUỐC HỘI NƯỚC CHXHCN

VIỆT NAM KHOÁ XIII.
Thưa các quý vị đại biểu Quốc Hội!
Đã nhiều năm nay, ngư dân vùng ven biển của Việt Nam, mỗi lần ra khơi đánh bắt cá, lo gặp mưa, gặp bão thì ít, còn lo gặp phải “Người Lạ” - “ Tầu Lạ” – “Nước Lạ” lại là nhiều. Về lý thuyết, người cộng sản là người duy vật, vậy tại sao ban lãnh đạo Việt Nam ngày nay lại chấp nhận cách gọi siêu hình đến như vậy?
Khi ông Nguyễn Phú Trọng bị các vị trong thường vụ Quốc Hội 12 chất vấn về tình trạng ngư dân liên tiếp bị “Các Lạ” đâm chìm tầu, cướp cá tôm, cướp ngư cụ, bị họ bắt bớ, đánh đập, phạt vạ…thì ông Trọng lại lạnh lùng trả lời bằng một tuyên bố vô cảm, có lẽ chẳng thể vô cảm hơn:
“TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG KHÔNG CÓ GÌ MỚI” (!?) (NPT – 2010)
Từ cuối tháng 5/2011, qua tháng 6 đến những ngày thượng tuần tháng 7 hôm nay, thử hỏi hàng loạt sự cố sau đây đã đáng được gọi là “…mới” được chưa?
- Ngày 26/5/2011. Tầu thăm dò địa chất Bình Minh 02 của Việt Nam đang hoạt động sâu trong vùng lãnh hải của mình bị tầu Trung Quốc cắt cáp.
- Ngày 9/6/2011. Tầu Vi King 2 của Việt Nam đang hoạt động sâu trong vùng lãnh hải thuộc chủ quyền của mình bị tầu Trung Quốc cắt cáp.
- Liên tục các chủ nhật trong tháng 6 và tuần đầu tháng 7, sinh viên, học sinh, trí thức… biểu tình và tuần hành phản đối hành vi sai trái của Trung quốc.
- 25/6/2011 Gặp gỡ song phương giữa ông Hồ Xuân Sơn, Đặc Phái Viên của Việt Nam và Đới Bỉnh Quốc Uỷ Viên Quốc Vụ Viện Trung Quốc, có nội dung về tình hình Biển Đông.
- Cùng ngày 25/6/2011. 95 vị nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sỹ, lão thành cách mạng của Việt Nam ra Tuyên Cáo về tình hình Biển Đông.
- Ngày 4/7/2011. 18 nhà trí thức nổi tiếng gửi Kiến Nghị đòi Bộ Ngoại Giao bạch hoá nội dung cuộc gặp gỡ song phương giữa Hồ Xuân Sơn và Đới Bỉnh Quốc.
- Ngày 13/7/2011. Gặp gỡ bất thành giữa đại diện Bộ Ngoại Giao với 18 vị nhân sĩ, trí thức, lão thành cách mạng .
- Ngày 10/7/2011. Các vị nhân sĩ và trí thức viết Kiến Nghị về việc bảo vệ và phát triển đất nước.
Tôi trước sau chỉ là người Việt Nam bình thường, yêu nước và không hề có bất cứ một tham vọng nào cho riêng mình. Tôi không thể hiểu nổi vì lý do gì mà ĐCS Việt Nam có hẳn 1 điều trong Hiến Pháp (Điều 4), khẳng định sự độc quyền lãnh đạo đất nước này, vậy mà qua những gì truyền thông chính thống cho biết, diễn biến chính của hội nghị TW 2 vừa qua cũng chỉ xoay quanh vấn đề nhân sự cấp cao sẽ được đưa ra trong kỳ họp QH sắp tới (!?). Trong bài phát biểu của ông Tổng Bí Thư trên VTV1, không một lời nói tới tình hình Biển Đông, nói tới chủ quyền của Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa(!?). Ông Trọng đã làm biết bao người Việt Nam trong nước, ngoài nước buồn phiền và lo ngại.
Tôi nghĩ, không thể là một tiền lệ là cứ cái gì Đảng đề cập thì Quốc Hội mới được đề cập. Cuộc họp sắp tới của Quốc Hội khoá 13, dù cho Chính Phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng có, hay cũng lại không 1 lời nào vể Biển Đông thì đó là sự không hoàn thành trách nhiệm trước nhân dân, trước đất nước của giới hành pháp. Với Quốc Hội 13, những người dù hoàn toàn là “Đảng Cử !”, nhưng cũng gọi là đã được dân bầu, trong cuộc họp sắp tới, tôi kiến nghị:
“Bên cạnh những công việc muôn thuở của cơ quan lập pháp thì việc ra một Tuyên Bố về tình hình Biển Đông của Quốc Hội khoá 13 là một việc làm cần thiết. Làm được việc đó, Quốc Hội mới thực sự là cơ quan quyền lực cao nhất, Quốc Hội mới thực sự là Của Dân – Do Dân – Vì Dân”.
Việc Quốc Hội khoá 13 ra được “Tuyên Bố về Biển đông” sẽ là một bằng chứng để nói rằng không phải người đảng viên nào cũng nhu nhược, không phải người Việt Nam nào cũng là một Lê Chiêu Thống, một Trần Ích Tắc và cũng không phải tất cả dân tộc chúng ta “…đã hoàn toàn mất gốc”, đã “ …hoàn toàn vong bản”.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì đã viết trong Kiến Nghị này./.
Hà Đông ngày 14 /7/2011.
Nhà Báo Nguyễn Thượng Long.
- Nguyên giáo viên dậy Địa Lý của Giáo Dục Hoà Bình & Hà Tây.
- Nguyên Thanh Tra Giáo Dục kiêm nhiệm của Hà Tây.
- Nơi ở: Tổ 6 – Đường Văn La – Phường Phú La – Hà Đông – Hà Nội.
- Email: nguyenthuonglong571@gmail.com

Tuyên ngôn của Nông dân Trung quốc về vấn đề đòi lại ruộng đất

Nguyên tác của Lưu Hiểu Ba
Đoàn Thanh Liêm lược dịch
Trích trong sách “Triết lý con heo”, bản Pháp văn do nhà xuất bản Gallimard ấn hành năm 2011: La Philosophie du porc.
Vào cuối năm 2007, tại Trung quốc nông dân nhiều địa phương đã phát động một phong trào đòi lại quyền sở hữu ruộng đất. Điển hình là các trường hợp sau đây:
1 – Ngày 9 tháng Mười Hai, 40.000 nông dân ở Đông Nam Cương và ở 72 làng xã thuộc thị trấn Phúc Âm thuộc tỉnh Hắc Long Giang đã công bố cho toàn quốc biết rằng họ dành lại quyền sử dụng đất đai của mình. Sự việc diễn tiến như sau: Ngày 28 tháng Mười Một, hội nghị toàn thể dân làng đã quyết định đòi lại ruộng đất đã bị chiếm cứ. Ngày 29 họ đã ra đo đạc lại các cánh đồng. Ngày 30 họ chuẩn bị việc cấp phát đất cho nông dân, và ngày 3 tháng Mười Hai, việc phân chia ruộng đất đã chính thức khởi sự.
2 – Ngày 12 tháng Mười Hai, một cuộc tập hợp của 70.000 nông dân bị dời chỗ, trong 72 ngôi làng thuộc các huyện Đại Lý và Đông Hoàn và thị trấn Hoa Âm trong khu vực Tam Môn Hiệp ở tỉnh Thiểm Tây, cũng đã công bố rộng rãi trên toàn quốc rằng: “Chúng tôi, 70.000 nông dân của hai huyện và một thị trấn, ngày hôm nay đã cùng nhau quyết định đòi lại quyền sở hữu trên ruộng đất mà tại đó chúng tôi đã canh tác từ nhiều thế hệ nay. Chúng tôi sẽ tổ chức để trao lại cho nông dân cái quyền chiếm dụng vĩnh viễn trên diện tích bình quân mà họ sử dụng, và chấm dứt các hành vi chiếm đất do những cán bộ các cấp gây ra”.
3 – Ngày 15 tháng Mười Hai, trong làng Thịnh Trang, thị trấn Nghi Hưng thuộc tỉnh Giang Tô, 250 gia đình nông dân đã thông báo cho toàn quốc về: “Quyền sở hữu vĩnh viễn trên các thửa đất” và sự áp dụng nguyên tắc “Người cư ngụ sở hữu căn nhà của mình”. Làng Thịnh Trang đã có trên 5.000 năm lịch sử và từ nhiều triều đại, qua nhiều thế hệ, mỗi gia đình đều biết rõ ràng các thửa đất cày cấy được và các núi có tre bao phủ thì thuộc về ai. Các mảnh đất này xưa kia thuộc về cha ông chúng tôi, bây giờ phải được trả lại cho chúng tôi, và trong tương lai sẽ được trao lại cho con cháu chúng tôi: Tất cả mọi thửa đất của làng Thịnh Quang là tài sản vĩnh viễn của từng gia đình, những mảnh đất canh tác được và những núi có tre bao phủ, và cả những ngôi nhà do tổ tiên để lại thì phải trả lại tất cả cho người dân trong làng, để cho họ canh tác và phát triển”.
Trong mấy năm gần đây, tại Trung quốc đã có sự thảo luận sôi nổi về vấn đề ruộng đất ở nông thôn. Nhưng tiếng nói của chính giới nông dân thì lại không hề được chú ý đến. Và các trường hợp được ghi ra trên đây chứng tỏ rõ rệt là người nông dân đã cất cao tiếng nói của mình để cho toàn thể quốc gia nghe được tiếng kêu từ sâu thẳm lòng đất. Những tuyên ngôn này bắt nguồn từ truyền thống lịch sử, dựa trên thực tế và công lý đã mở ra một lỗ hổng nhằm phá bỏ cái hệ thống phi lý về quyền sở hữu ruộng đất bị áp đặt từ thời kỳ Mao Trạch Đông đến bây giờ. Rõ ràng là người nông dân đã bắt đầu ý thức mạnh bạo dứt khóat về quyền tự chủ của mình, khi họ tuyên bố: “Ruộng đất dưới chân chúng tôi không phải là tài sản của nhà nước, cũng không phải là tài sản của tập thể, đó là mảnh vườn của tổ tiên chúng tôi là những người đã sống trên đó từ nhiều thế hệ, đó là tài sản thuộc về những người nông dân chúng tôi”. Và, để bảo vệ chủ quyền của mình, họ đã không chịu quỳ gối để mà xin xỏ một ân huệ nào. Mà lúc này, họ đứng thẳng lên để xác định cái quyền sở hữu của mình: “Chúng tôi là chủ nhân ông duy nhất của thửa đất dưới chân chúng tôi, và chúng tôi muốn trọn quyền chọn lựa cách thức chúng tôi sử dụng các đất đai ấy theo đúng sở thích của riêng chúng tôi”.

A - Đảng cộng sản đã tước đoạt toàn thể tài sản của nông dân

Lịch sử Trung quốc có những chu kỳ thịnh suy kế tiếp nhau, khi đất nước yên hàn, người nông dân vẫn khổ cực; mà khi nước loạn, thì nông dân cũng vẫn lầm than. Nhưng dù dưới chế độ phong kiến quân chủ có tàn bạo và nhũng lạm đến mấy đi nữa, thì cũng không có sự bóc lột và áp bức tột cùng như dưới chế độ cộng sản. Với chính sách tập thể hóa và hợp tác hóa nông nghiệp, không một mảnh đất nào mà còn thuộc quyền sở hữu của nông dân nữa. Và chính quyền cộng sản đã trở thành sở hữu chủ duy nhất của đất đai, họ toàn quyền thao túng trên số tài sản đồ sộ này. Một khi người nông dân bị lấy mất hết ruộng đất, thì họ trở thành nông nô bị ép buộc phải sinh sống trong các công xã.
Họ bị biến thành cái máy chuyền máu sang cho công cuộc kỹ nghệ hóa điên rồ của chủ tịch Mao. Cái thảm họa của chiến dịch “Bước nhảy vọt” đã gây cho nông dân sự nghèo túng cùng cực đến nỗi hàng chục triệu người phải chết đói, và nhiều nơi đã xảy ra nạn ăn thịt người.

B – Nông dân vẫn là thành phần bị thiệt thòi nhất của đất nước

Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, thì có sự thay đổi với hệ thống “hợp đồng khoán đất với các hộ gia đình nông dân”, để cho nông dân nhận ruộng đất mà canh tác và họ được thụ hưởng những hoa lợi trên khu đất đó. So với thời trước, thì đây là điều tiến bộ, mà có người gọi đó là “cuộc cách mạng giải phóng người nông nô”. Nhưng về thực chất, đây mới chỉ là một thứ “giải phóng nửa vời”, vì người dân vẫn chưa có quyền sở hữu trọn vẹn trên thửa đất do mình khai thác. Các cán bộ của nhà nước vẫn còn hành xử quyền quản lý trên các đất đai đó, và họ đã cấu kết với giới kinh doanh để thâu mọi lợi ích do sự lên giá của mọi bất động sản được sử dụng cho mục đích thương mại và đô thị hóa.
Và trong một chế độ không có tự do báo chí, không có nền tư pháp độc lập, thì người nông dân không có tiếng nói, không được quyền thành lập những hiệp hội nông dân, mà họ chỉ có một cách duy nhất là viết đơn “thỉnh nguyện” (pétition) gửi lên chính quyền mà thôi. Nhưng vì các cán bộ họ bênh đỡ, bao che lẫn nhau, nên mọi khiếu nại của nông dân đều không được giải quyết thỏa đáng. Rút cục, người dân chỉ còn có một cách duy nhất để tranh đấu bằng những “phản kháng tập thể” (incidents collectifs). Cán bộ lại ra tay đàn áp tàn bạo.
Điển hình như vào ngày 6 tháng Mười Hai năm 2005, tại làng Đông Châu trên vịnh Hồng hải, thị trấn Sán Vĩ, tỉnh Quảng Đông, nhân cuộc tranh chấp về đất đai, chính quyền đã điều động hàng ngàn cảnh sát đến ném lựu đạn cay và xả súng bắn vào số trên 1.000 người dân biểu tình, khiến cho ít nhất là 3 người thiệt mạng và nhiều người bị bắt giữ.

C – Bị dồn vào thế cùng, nông dân phải tìm cách tự giải thoát lấy

Như đã trình bày ở trên về ba trường hợp tập thể nông dân đã tự phát đứng lên công bố xác định về quyền sở hữu ruộng đất của mình. Họ phải làm như vậy, vì không còn phương cách nào khác nữa để có thể giải quyết được tình trạng bế tắc đã kéo dài quá lâu ở địa phương. Xin ghi thêm chi tiết về các vụ phản kháng tập thể “ngoài luồng” này:
1 – Tuyên cáo của 250 gia đình nông dân tại làng Thịnh Trang, thị trấn Nghi Hưng, tỉnh Giang Tô nhấn mạnh như sau:
“Dưới danh nghĩa phát triển những tiện nghi công ích và xây dựng thiết bị công cộng cho tập thể, những nhóm thế lực do sự cấu kết của giới kinh doanh và cán bộ địa phương đã dùng sức mạnh để chiếm đoạt đất đai của nông dân và xây cất trên đó những khách sạn, nhà hàng, vũ trường và những khu phố thương mại, tất cả chỉ vì lợi ích thương mại mà thôi. Vì lý do đó mà người nông dân đòi hỏi phải có sự giải thích: “Những chuyện này có liên quan gì đến công chúng? Có liên hệ gì đến quyền lợi của nông dân chúng tôi?”.
“Hôm nay, chúng tôi muốn đặt câu hỏi là: Đất nước này thuộc về ai? “Lợi ích công cộng” thuộc về ai? Tập thể thuộc về ai? Mỗi khi đất đai bị chiếm cứ, dân làng phản đối, ký kiến nghị, thì Chủ tịch xã và Chi bộ đảng lại nhân danh “tập thể” mà “đại diện” cho toàn thể nông dân bằng vũ lực… Cán bộ, cảnh sát, bọn mafia “liên kết với nhau để thi hành pháp luật”, bằng cách đánh đập, phá phách, cướp đoạt phương tiện sinh sống của chúng tôi. Và bọn mafia tuyên bố công khai rằng họ “nhân danh chính quyền để giải tỏa đất đai, các người phải tuân lệnh vô điều kiện. Kẻ nào chống lại việc làm này của họ, tức là chống lại nhà nước”. Rõ ràng đây y hệt như là tác phong của phường lũ cướp bóc ngày xưa vậy…”.
2 – Những nông dân tại thị trấn Phúc Âm đã hiểu rõ những gì núp đàng sau bức màn che của “nhà nước” và của “tập thể”, và trong tuyên cáo, họ đã ghi ra thật rõ ràng như sau: “Bởi vì từ lâu nay cái gọi là sở hữu tập thể đã làm mất hết ý nghĩa của quyền “Làm chủ trên đất đai” của người nông dân, và những viên chức cán bộ các cấp cùng với kẻ độc tài địa phương thị trấn Phúc Âm đã không ngừng nhân danh tập thể để chiếm đọat ruộng đất của nông dân và đem chia chác cho nhau. Họ đã ngang nhiên trở thành chủ nhân ông và nông dân thì biến thành người đi thuê mướn lại các thửa đất ấy. Vì thế mà nay chúng tôi đã đồng lòng quyết định là phải thay đổi cái lề lối chiếm dụng đất đai này, và thực sự áp dụng và bảo đảm cái vị thế làm chủ đất đai của các hộ gia đình và của các cá thể nông dân”.
3 – Tuyên ngôn của 70.000 nông dân trong vùng Tam Môn Hiệp cũng nhấn mạnh: “Chúng tôi biết rằng bất kể luật pháp và chính sách của nhà nước quy định ra sao, thì việc kiểm soát đất đai cũng rất khó khăn. Một khi quyền làm chủ ruộng đất trở lại vào tay của nông dân, thì những thế lực ham hố lợi lộc sẽ không còn dám chiếm đọat, bởi lẽ các đất đó không phải là thứ đất đai tập thể nào đó nữa, mà là thuộc về những con người cụ thể rõ ràng. Và vì đất này là nguồn lợi sinh sống cho họ, nên người nông dân sẽ quyết tâm bảo vệ tài sản này mỗi khi bị uy hiếp. Một khi lực lượng nông dân được huy động, thì chính quyền trút được gánh nặng trong việc bảo vệ đất đai. Đó chính là cách thức giải quyết tận gốc rễ cho vấn đề tại nông thôn, và người nông dân có thể trở thành ngang hàng bình đẳng với người dân thành phố và thụ hưởng những thành quả của công cuộc hiện đại hóa nữa”.

D – Một cuộc cách mạng còn vĩ đại hơn nữa

Nếu ta coi việc nông dân xã Hiểu Cương, huyện Phong Dương, tỉnh An Huy cùng tự phát ký tên vào hợp đồng khoán đất với các hộ gia đình như là cuộc cách mạng thứ nhất trong quá trình giải phóng nông dân, thì bản tuyên cáo về quyền sở hữu về đất đai của nông dân tại ba địa phương nói trên là cuộc cách mạng thứ hai nhắm vào việc “tự giải phóng” (autolibération) của giới nông dân Trung quốc. Cuộc cách mạng thứ hai này còn vĩ đại và đi xa hơn cuộc cách mạng thứ nhất rất nhiều.
Những nông dân đã đưa ra bản tuyên ngôn này, thì họ có ý thức rất rõ ràng. Tiếng nói của họ không phải chỉ là tuyên cáo về ruộng đất của nông dân, đây còn là một tuyên ngôn về các quyền của tập thể giới nông dân Trung quốc nữa vậy.
L.H.B.
Đoàn Thanh Liêm dịch tóm lược, Costa Mesa, trung tuần tháng Bảy 2011
Admin gửi hôm Thứ Bảy, 16/07/2011
Bạn đánh giá bài viết này thế nào?

Gương canh tân của Vua Phật Mongkut vẫn còn trên xứ Thái

  Gương canh tân của Vua Phật Mongkut vẫn còn trên xứ Thái

Hạ Long Bụt sĩ

Hạ Long Bụt sĩ
Thế kỷ XIII Việt Nam có vua Phật Trần Nhân Tôn (1279-1293) thì Thái Lan cũng có một vị vua, đáng gọi là vua Phật ở thế kỷ XIX, đồng thời với vua Tự Đức (1843-1883) bên ta: đấy là vua Mongkut (1851-1868) mà thế giới biết đến qua phim ảnh, The King and I, Nhà Vua và Tôi, thời 1960. Không phải ngẫu nhiên tài tử trọc đầu Yul Brynner được chọn thủ vai vua Mongkut và Deborah Kerr thủ vai cô giáo dậy tiếng Anh Mrs. Anna Leonowens: phim bản dựa phần nào trên sử liệu, nhà vua Mongkut trước khi lên ngôi đã xuống tóc xuất gia 27 năm, sống trong chùa và từng giữ chức Sư trưởng một tu viện, còn Anna là cô giáo dậy Anh ngữ từ Singapore sang, 1866-68, với hợp đồng 3 năm, nhưng mới 2 năm thì vua Mongkut mất, phim bản thêm chuyện cô giáo Anna khiêu vũ với nhà vua và đứng cạnh giường vua khi vua thăng hà. Cô giáo Anna thật ra không phải là người dậy vua tiếng Anh, vua Mongkut học Anh văn với các giáo sĩ Hoa kỳ, từ khi còn ở chùa, học 3 năm với Dr. Caswell và sau đó với Dr. Bradley và Dr.House. Khi lên ngôi, nhà vua nhờ Dr. Bradley tổ chức lớp dậy Anh ngữ cho 9 phi tần trẻ tuổi trong cung. Dr. Bradley cử ba bà giáo thay phiên vào dậy, từ tháng 8 năm 1851, sau 3 năm lớp học bị ngưng vì các bà giáo bắt đầu mang Thánh Kinh Cơ Đốc ra dậy và lại còn chỉ trích nhà vua đa thê! Vua Mongkut chỉ có 39 cung phi, không phải 600 như Sir J. Browning viết! Vua rất rộng lượng, cho phép các cung phi rời cung nếu không sinh hoàng tử, và được tái giá. Nhà vua muốn các cung phi và công chúa, hoàng tử, được giáo dục theo kiểu Tây phương nên mới nhờ quan lãnh sự ở Tân Gia Ba tìm được bà giáo Anna sang Thái, với điều kiện dậy Anh ngữ chứ không dậy giáo lý!

VUA MONGKUT và TRUYỀN THỐNG GIÁO DỤC NHÀ CHÙA

Cho đến thời vua Mongkut Thái Lan không có chế độ giáo dục thi cử Tống Nho như Tầu, Việt. Thái vẫn như thời Lý bên ta, việc giáo dục dành cho nhà Chùa, giao cho các sư sãi. Từ nhỏ, hoàng tử Mongkut đã được gửi tới chùa để học đọc và viết chữ, đồng thời học cách cưỡi voi (elephantry), năm 13 tuổi xuống tóc (lễ cắt cuộn tóc dài quấn cao đỉnh đầu) và trở thành chú tiểu trong 8 tháng theo truyền thống. Hết 8 tháng tu tập mới được trở về cung và được vua cha trao cho chức vụ tượng trưng trong triều. Năm 21 tuổi, 1824, Mongkut chính thức trở thành sa môn và cũng vào năm này vua cha, Rama II, mất. Hoàng tử Tap, con một thứ phi, lên nối ngôi, Rama III. Tuy không phải là con Hoàng hậu như Mongkut, nhưng hoàng tử Tap đã được vua cha yêu quý, có kinh nghiệm ngoại giao (ký hiệp ước 1821 với Crawford) và cai trị nên được hoàng gia ủng hộ lên ngôi. Sư Mongkut, hoàng thế tử, không tranh dành với em, sư chọn ở trong chùa suốt 27 năm.

CÔNG CUỘC HIỆN ĐẠI HÓA PHẬT GIÁO CỦA SƯ MONGKUT

Cư trú tại chùa Mahatat sư Mongkut nhận thấy giới tăng sĩ không giữ đúng giới luật và đi sai với kinh kệ mà đức Phật trao truyền. Mongkut ra công học chữ Pali để khán kinh trực tiếp không qua bản dịch, trình độ Pali của Mongkut được xác định qua kỳ giám định “thi đình”, cấp Thái học sinh, đệ cửu đẳng, cao cấp nhất của Phật học thời đó. Mongkut từng thề nguyện: nếu trong 7 ngày mà không gặp được chân sư thì sẽ vĩnh viễn hoàn tục rời chùa. Chư Phật đã đáp lại lời nguyện đó: Mongkut gặp được một vị sư người thiểu số Mon xứ Miến Điện hiện đang trú ngụ ở Thái. Sư mặc áo vàng, liễu kinh đúng như Mongkut đã đọc, Mongkut khâm phục xin nhà sư người Mon làm lại lễ thọ giới cho mình. Mongkut bắt đầu thanh lọc đạo Phật xứ Thái: sư cho vứt bỏ một lúc 500 cuốn kinh sách, viết sai, dịch sai, và cho dịch kinh sách lại từ cổ ngữ Pali.
Trong thời gian làm Sư trưởng Viện, Mongkut giao thiệp với các giáo sĩ Thiên Chúa giáo, học Anh ngữ với các giáo sĩ Mỹ, lại học cả Pháp ngữ với Giám mục Pallegois, giám mục dậy Latin cho Mongkut và đổi lại ngài dậy Pali cho giám mục. Mongkut không ngần ngại học hỏi và áp dụng phương pháp hoằng đạo của Thiên chúa giáo cho Phật giáo và thiết lập pháp môn mới cho Thái, Dharmayukta, cùng với pháp môn cũ, Mahanikaya, phát triển trên xứ Thái, và ảnh hưởng sang Cao Miên, Lào, cho tới ngày nay.
Mongkut dùng chữ Pali viết kệ tụng, và tu chỉnh nghi lễ, …Sau này, khi lên ngôi vua, 1851, Mongkut phạt nặng các tu sĩ phạm giới rượu chè thuốc phiện, dâm dục, ăn quá ngọ: họ phải hoàn tục, hay đi cắt cỏ cho voi ăn..

MỘT CHÍNH SÁCH CAI TRỊ PHÁ CHẤP

Vua Rama III mất năm 1851, hoàng tử lại nghiện thuốc phiện nên không được truyền ngôi. Hoàng gia họp lại và đi mời sư Mongkut, hoàng thế tử đích vị, anh của Rama III về làm vua, tức Rama IV. Năm ấy Mongkut đã 47 tuổi, đầy kinh nghiệm đời và đầy đức đạo. Ngay lễ đăng quang ngài đã phá chấp: mời người ngoại quốc dự lễ và không phải quỳ mọp như thần dân Thái, treo chuông cửa cung cho dân tới đánh chuông khiếu nại… cấm hoàng gia và quan chức bắt nô tỳ, cấm ép gái đẹp làng xóm về phủ đệ làm đoàn ca múa riêng…
Mongkut đặc biệt cởi mở với các giáo sĩ Cơ Đốc: ngài từng nói với một giáo sĩ Mỹ: ông có thể cải đạo toàn dân Thái nhưng còn một người ông không cải được là tôi! Có lần một tăng sĩ cải sang Cơ Đốc Giáo, vua Rama III đòi trừng phạt, ngài Mongkut đã ngăn lại và chủ trương mọi người được tự do lựa chọn tín ngưỡng. Vua Mongkut còn cho phép các giáo sĩ cất nhà thờ, khuyến khích và bảo vệ họ khi đi truyền đạo, tặng tiền bạc và khi mất, như giám mục Pallegois, còn được tẩm liệm theo nghi lễ hoàng gia với thuyền bát nhã và súng chào.

THÂN ANH QUỐC

Vua Mongkut đặc biệt thân thiện với Anh quốc; ngài dùng một Đại úy Anh luyện quân sĩ và các sĩ quan Anh chỉ huy thuyền chiến Thái, người Anh luyện cảnh sát còn người Pháp chỉ được dùng vào việc luyện lính gác! Ngài cho người Anh vào kỹ nghệ làm đường mía, khai mỏ... xưa nay vẫn trong tay người Tầu.
Năm 1853 vua cho nhập cảng máy in tiền giấy, lập đường dây điện tín với Miến Điện và Penang, đặt đường xe lửa...

VUA MONGKUT và VIỆT MIÊN LÀO

Năm 1864, thế tử Norodom chạy sang Thái cầu cứu vì bị em đoạt ngôi. Thái cho quân đưa Norodom về và cai trị Cao Miên. Sau, trước áp lực của giám mục Pháp tên Miche dụ Cao Miên về với Pháp và Đại úy Doudart de Lagrée mang quân Pháp sang, Thái phải rút quân vào năm 1864 nhường Cao Miên cho Pháp đô hộ. Trong bức thư sứ thần Thái dâng lên nữ hoàng Anh, vào năm 1857 có câu xác định đất đai vương quốc Thái ...King Mongkut the Supreme or Major King of Siamese Kingdom and its adjacent tributary countries: Laos, Cambodia, and several provinces of Malay Peninsula etc,etc… Các thư ngoại giao của Mongkut thường rất dài và hay dùng chữ etc, etc... như phim The King and I đã mô tả. Qua các lá thư này có thể hình dung sự tranh chấp ngấm ngầm giữa thực dân Anh và Pháp ở Đông Á cùng ảnh hưởng của các nhà truyền giáo. Thái khéo léo kết bạn với nhiều nước Âu Mỹ, nghiêng về Anh vì Anh mạnh nhất, nghiêm chỉnh nhất, và không có dã tâm đánh bật gốc văn hóa tín ngưỡng địa phương. Anh chỉ chú trọng tới thương mại, dù ở Trung Đông, Ấn, Miến Điện, Mã Lai hay Thái.
Trong 17 năm trị vì, vua Mongkut ban rất nhiều chiếu chỉ và châu phê ngự bút, châu bản số 144 có đoạn liên quan tới Việt Nam như sau “năm nay có thể hạn hán 60 ngày, chưa biết hạn hạn nặng hay nhẹ, chưa cần ngăn cấm xuất cảng gạo, cứ tiếp tục cho dân buôn bán. Chớ nghe lời bầy đặt của một số sư, tiểu, và những người thiếu hiểu biết, phao tin là người Anh thu mua gạo đổ xuống biển, đấy là tin thất thiệt vô lý... chớ phao tin đồn nhảm là người Anh lấy gạo Thái mang cho Việt Nam (yuan). Người Việt là cha của người Anh từ bao giờ mà dám nói như thế!”

BÀI HỌC CANH TÂN CỦA VUA PHẬT MONGKUT

Vua Mongkut mất năm 1868. Tuy không được sang thăm Anh quốc, nhưng mối giao hảo giữa hai nước đã đặt đầu cầu cho công cuộc canh tân Thái: con vua Mongkut, Rama V đã sang thăm nữ hoàng Anh năm 1893 và tới năm 1926 thì Thái đã có trên 2000 sinh viên du học Anh quốc! Sứ thần Parkes gọi vua Mongkut là vị lãnh tụ tân tiến nhất của Á Đông, vượt xa thời đại, Bowring thì thì tán tụng Mongkut là ông vua vĩ đại nhất Đông phương và là một trong những học giả uyên thâm nhất về Phật giáo.
Công cuộc canh tân đất nước của vua Mongkut đi trước Minh Trị Thiên Hoàng Nhật Bản (1867-1912) cả một thế hệ, hạt giống thiện mà vua đã gieo trồng nẩy nở viên mãn trên xứ Thái: Thái cả 150 năm nay tránh được họa Thực dân, họa Cộng sản và họa mất gốc. Nếu kể từ sau cuộc chiến xâm lăng của Miến Điện vào Thái năm 1767, thì suốt 244 năm nay Thái được hưởng thái bình thịnh trị và triều đại Chakri tới nay đã truyền được 9 đời vua, vua Rama IX hiện tại trị vì hơn 60 năm, một minh quân đã và đang được toàn dân và thế giới mến phục. Một số bài học canh tân có thể rút tỉa từ vua Mongkut:
1- Việc canh tân đất nước cần khởi đầu bằng việc xây dựng căn bản tinh thần dân tộc, tinh thần ấy sẵn có trong Phật giáo, chỉ cần hiện đại hóa và tẩy rửa một viên ngọc quý, không cần vay mượn ý thức hệ hay đạo giáo nào khác. Giáo dục nhà Chùa trang bị cả văn lẫn vũ cho hành giả, riêng số lượng kinh sách đã là đại bách khoa, dạy từ đạo đức đến vũ trụ thiên văn, rốt ráo và rộng lớn hơn Tứ Thư Ngũ Kinh nhiều. Cho nên không lấy làm lạ, thời Lý Trần các hiền nhân như Thường Kiệt, Tô Hiến Thành, Hưng Đạo, Quang Khải, Ngũ Lão... không có bằng cấp khoa bảng, nhưng giống lớp samurai Nhật Bản, văn vũ song toàn.
Phật giáo nguyên thủy (tiểu thừa) hữu hiệu trong việc chấn hưng đạo đức là vì: tự giác ưu tiên, chưa tu thân mà đã vội hý luận kinh kệ, chưa tự giác giữ giới mà đã đi bố thí pháp như Bồ Tát thì dễ rơi vào vòng luẩn quẩn kiến chấp triết lý ngôn từ. Hình ảnh một tu sĩ chân đất khất thực là tấm gương nhẫn nhục khổ hạnh sống động, tự nó tỏa ra ánh sáng chinh phục giác tha quần chúng hang cùng ngõ hẻm, vì thế từ Tích Lan, Miến Điện tới Thái, Lào... Phật giáo nguyên thủy đã giữ được thế sâu rễ bền gốc trước các tôn giáo ý hệ Tây phương.
2- Vua Mongkut đã để lại cho Thái một truyền thống tăng sĩ tài đức, những bậc đại sư cao tăng lần lượt tiếp nối xuất hiện. Sau khi lựa chọn đúng đường thì phần cốt yếu là huấn luyện thanh lọc nhân sự : sư sãi giữ giới làm gương cho tín đồ, thực tập hỷ xả phá chấp tạo hòa khí với mọi người. Thái không giết người theo đạo Cơ Đốc như ở các nước Phật giáo bị bôi bác bởi Tống Nho Việt, Tầu, Hàn, Nhật, tinh thần phá chấp cao thượng dung hóa khế cơ của nhà Phật đủ sức chinh phục các tôn giáo khác, đủ sức giữ vững nền tảng quần chúng, mà không cần tới chính quyền yểm trợ qua bạo lực. Cũng những giáo sĩ Cơ Đốc Pháp, Bồ đào Nha... mà tới Thái thì họ cảm phục, mà tới Tầu, Việt, Hàn, Nhật thì xẩy chuyện lấn áp xung khắc, đấy chính là vì ở Thái họ gặp chính pháp chân tu, mà ở nơi khác thì họ gặp mạt pháp hủ Nho phong kiến.
3- Việt Nam khó được như Thái: các nước nghiêng về văn hóa Ấn Độ và Anh dường như tránh được điên đảo tưởng loại hiện sinh, Mác xít, còn các nước theo văn hóa Tầu, Pháp dễ rơi vào nhị biên hý luận ngã mạn, từ đó tới độc tài phong kiến cực đoan. Là vì văn hóa Anh thực tiễn, trí thức Anh trọng danh dự và quân tử, họ gặp Gandhi thì trả lại độc lập, gặp Mongkut thì giao hảo thân tình, còn Pháp, Tầu thì ưa biện chứng hý luận đỉnh cao trí tuệ vì thế nên mớ kiến chấp Judeo Mác xít mới có môi trường phát triển, và các lãnh tụ chính trị điên rồ loại Pol Pot cùng nhóm trí thức Tây học, mới mất quân bình tâm trí, điên đảo sát sinh gây họa cho Đông dương!
4- Trí thức Việt Nam, từ thời Tự Đức, cũng cố gắng đi tìm lối thoát cho dân tộc: sang Nhật, sang Nga, sang Pháp, Tây du Đông du, khuynh tả khuynh hữu, cần vương, xã hội... mà vẫn luẩn quẩn trong rọ điên đảo tưởng cho tới hiện tại. Thậm chí đến tinh thần phá chấp từ bi của nhà Phật cũng nhiều khi bị biến thể thành triết lý xuông với số học giả tầm chương trích cú kinh kệ nhiều hơn số tu tập thực chứng, bàn về Thiền thì nhiều mà thực sự tu Thiền thì ít, thuyết là vô tâm đối cảnh, vượt biên kiến, lắng nghe nỗi khổ tha nhân mà thực tế có khi lại lộng ngôn bênh phe này, hạ phe kia, nghiêng về tả, khuynh về hữu, chân giả thiện ác đạo đế tục đế bất phân minh, chẳng khác gì phàm phu vọng tưởng vô minh.
5- Người Thái, gốc Bách Việt từ Nam Chiếu xuống, có thể là Âu Việt hay Điền Việt là anh em của Lạc Việt, là láng giềng thân thiết của ta. Bắt chước lối sống hòa hợp cởi mở khiêm nhường của láng giềng cũng là điều hay trước khi đi tìm ở đâu xa. Một thể chế quân chủ lập hiến là đường lối dân chủ thích hợp cho Đông phương, nhưng muốn có một vua Phật như Mongkut, như Lý Công Uẩn, như Trần Nhân Tôn không phải dễ, dân tộc phải có phước lành, trồng cây đức, mới có thiện duyên chuyển hoá vào thời:
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

KẾT LUẬN CẬP NHẬT

Trong 6 năm vừa qua, chính trị xứ Thái căng thẳng qua cuộc tranh chấp giữa phe thủ cựu áo vàng (Democrats) và phe cấp tiến bình dân áo đỏ (Pheu Thai), vài vụ đổ máu xẩy ra, nhưng tinh thần tiến bộ thấm nhuần dân chủ, dân tộc hoà hợp vẫn thấy rõ và hơn hẳn các nước độc tài Viễn Đông. Nhà vua vẫn được các phe phái và quần chúng tôn kính, Phật giáo cao tăng vẫn là giềng mối tinh thần đất nước, biến động mà không chao đảo, bầu cử công minh, đối lập có tiếng nói và cơ hội, không có tầng lớp thảo khấu ác ôn côn đồ, không có tầng lớp trí thức điên đảo tưởng nóng tính sân hận muốn đạp đổ tất cả. Một đất nước như vậy, Tầu, Việt, Bắc Hàn không dễ gì theo kịp và tinh thần từ bi hỷ xả đổi mới của vua Mongkut trao truyền vẫn chưa phai tàn trên đất Thái thanh bình.
Viết 4-2005
Cập nhật 7-2011

Tham Khảo

- King Mongkut and The British-by M.L. Manich Jumsai-Chalermnit-Bangkok. 1991
- In His Own Words by Vasana Chinvarakorn-Bangkok Post 12-18-2004-
Excerpts from Collected Proclamations.
- Thai Air Magazine 12-04- Google Search.
- Sử liệu Thái liên quan tới Việt Nam còn khá nhiều: thế kỷ XVII có nhóm người Cơ Đốc giáo VN chạy sang Thái tỵ nạn; vua Rama V con Mongkut đi thăm Java (Nam Dương) cũng là nơi mà phái đoàn VN với Cao Bá Quát từng thăm viếng buôn bán; vua Rama VI cũng đi thăm Nam Dương và mang về Thái một số thợ thêu lụa người Việt, chính nhóm thợ Việt này đã dậy cung nữ của Hoàng hậu Thái thêu thùa và chỉ cách thêu trên lụa láng (flat silk embroidery). Với số trống đồng khá nhiều ở Thái, nhất là bắc Thái, nền văn hóa Lan Na hẳn có nhiều liên hệ với Nam Trung Hoa, và theo các nhà khảo cứu Tầu, Âu Mỹ và Thái hiện tại thì người Nam Chiếu khi bị nhà Nguyên đánh đã chạy sang Thái năm 1253 và từ vùng Chieng Mai đã lập thành nước Xiêm La ngày nay.
Thái đã phải nhượng đất đai cho thực dân Pháp như vùng Luangprabang, Vientian của Lào, nhường mấy tỉnh phía Nam sát Mã Lai ngày nay cho Anh, để mưu cầu hòa bình. Đệ nhị thế chiến Thái mềm dẻo với quân chiếm đóng Nhật, sau 1975 Thái cũng đạt được yêu cầu 23,000 quân Mỹ trú đóng rút đi. So với VN thì chính sách ngoại giao Thái lấy dĩ hòa vi quý làm chuẩn, tránh đổ máu vô ích cho dân, nói theo nhà Phật thì họ ở quốc độ gần Thanh văn Duyên giác, còn ta ở quốc độ nóng nảy sát khí sân si A tu la, hay có thể thấp hơn nữa.
Admin gửi hôm Thứ Tư, 06/07/2011