12/1/11

Christian Marchant nhận giải nhân quyền của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ

Richmond Register

Trích từ báo Richmond Register
Kể từ khi nhận trách nhiệm tùy viên chính trị thuộc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội vào tháng 9 năm 2007, ông Christian Marchant đã cổ võ mạnh mẽ và không ngừng nghỉ cho các nhà đối kháng cũng như cho quyền sở hữu tài sản, quyền tự do tôn giáo, và chống lại chính sách tra tấn tại nước cộng sản này. Đây là nước từng có chiến tranh với Hoa Kỳ dài cả một thập niên.
Những đóng góp của Marchant đã được cấp trên của ông tại Washington ghi nhận, và vào cuối tháng 2 sắp tới, ông Marchant, tốt nghiệp trường Model Laboratory School vào năm 1992, sẽ nhận giải thưởng về Nhân quyền và Dân chủ do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao tặng.
JPEG - 51.2 kb
Ông Christian Marchant, con của Tiến sĩ Marlow và bà Kristy Marchant, đã có lần lấy thân mình đứng chắn giữa một nhóm công an và một nhà đối kháng tại Hà Nội, vì ông thấy họ sắp đánh và bắt bà.
Dù công an ra lệnh cấm nhưng ông Marchant vẫn tiếp tục thăm viếng các linh mục Công Giáo và giáo dân để tìm hiểu tận mắt cách giải quyết của nhà nước đối với vấn đề tranh chấp đất đai tại Hà Nội.
Ông cũng đã tham dự cuộc xử án tám giáo dân, theo đó họ bị kết tội "làm rối loạn trật tự công cộng" vì đã dựng tạm một tượng đài trên phần đất tranh cãi. Tượng đài này sau đó đã bị nhà nước phá hủy đi.
Trả lời một cuộc phỏng vấn điện thoại từ nhà riêng của gia đình ông - với vợ và 3 con - tại Hà Nội, nhà ngoại giao đầy khiêm tốn này nói rằng các sự việc đó chỉ là một phần trách nhiệm công việc của ông mà thôi.
Một thông cáo báo chí của Bộ Ngoại Giao cho biết là ông Marchant được "tuyên dương vì các đóng góp xuất sắc trong việc gia tăng sự hợp tác để ngăn chận các hành vi tra tấn, giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền sở hữu đất đai, củng cố cuộc Đối Thoại về Nhân Quyền, thiết kế một lộ đồ về Tự Do Internet và bênh vực các quyền của những nhà đối kháng Việt Nam giữa lúc đang có các cuộc đàn áp rộng lớn đối với quyền tự do ngôn luận.
Thông cáo báo chí cũng ghi là ông Marchant “là người hỗ trợ đắc lực cho các nhà đối kháng đang bị bao vây tại Việt Nam. Ông nhận làm người liên lạc không mệt mỏi giữa những nhà đối kháng trong tù ngục với gia đình họ và với thế giới bên ngoài”.
Khi được hỏi giải thưởng cho ông có phải là một hình thức khiển trách thẳng thừng đối với nước sở tại không, ông Marchant trả lời rằng công việc ông làm chỉ là một phần trong nỗ lực của cả ngoại giao đoàn Hoa Kỳ nhằm đối thoại đều đặn và dài hạn với chính phủ Việt Nam về nhân quyền”.
Cuộc đối thoại đó bao gồm những cuộc nói chuyện của Bộ Trưởng Ngoại Giao Hillary Clinton trong hai lần viếng thăm Việt Nam vào năm ngoái, và các giới chức Toà Đại Sứ Hoa Kỳ với chính phủ Việt Nam trong các công việc hàng ngày.
Bà Clinton sẽ trao giải thưởng cho ông Marchant trong một buổi lễ tại Washington. Mỗi năm Bộ Ngoại Giao trao 3 giải Nhân Quyền. Một giải dành cho các tổ chức phi chính phủ (NGO), một giải dành cho cấp đại sứ, và một giải dành cho cấp tuỳ viên tòa đại sứ. Ông Marchant sẽ cùng nhận giải năm nay với bà Holly Lindquist Thomas thuộc toà đại sứ Hoa Kỳ tại Uzbekistan.
Nói về công việc của ông tại Việt Nam, Marchant cho biết: "Chúng tôi lên tiếng thường xuyên và mạnh mẽ về những vấn đề mà chúng tôi không đồng ý. Tuy nhiên, chúng tôi cũng cố tìm những lãnh vực mà chúng tôi có thể đồng ý và hợp tác” với chính phủ chủ nhà.
Những cuộc thảo luận lúc ban đầu liên quan đến những nhân viên người Mỹ vẫn còn nằm trong danh sách tù nhân chiến tranh hay bị mất tích khi công tác. Những trao đổi sau đó liên quan đến vấn đề nhân quyền trong một quốc gia mà ông Marchant nói là vẫn còn "chế độ toàn trị".
Ông Marchant nói trong lãnh vực ngoại giao vẫn có thể nói thẳng thừng như vậy.
Ông Marchant cho biết mỗi năm hai quốc gia có cuộc đối thoại chính thức về nhân quyền, mà gần đây nhất là vào ngày 13 Tháng 12 vừa qua. Một phần của công việc của Ông là làm việc với thượng cấp tại Washington để hoạch định những vấn đề cần nêu lên trong các cuộc đối thoại đó.
Ông Marchant nói: "Trong quá khứ những cuộc đối thoại không mang lại kết quả, tuy nhiên, chúng tôi đã thay đổi những cuộc đối thoại đó để không còn chỉ là những cuộc chỉ trích lẫn nhau mà để tìm ra những lãnh vực cụ thể, chi tiết mà chúng tôi có thể hợp tác như: áp dụng Công Ước Chống Việc Tra Tấn, làm việc với nhau về những tranh chấp quyền sở hữu đất đai, làm việc với nhau về việc cải tổ điều kiện lao động để bảo đảm là luật pháp Việt Nam phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế".
Từ phiá họ thì Việt Nam cũng nêu lên vấn đề Hoa Kỳ đối xử với các nghi can khủng bố tại Guantanamo Bay, và cáo buộc việc quân nhân Hoa Kỳ tại trại tù Abu Ghraib ở Iraq tra tấn tù nhân, và những trường hợp cảnh sát bạo hành tại Hoa Kỳ.
Ông Marchant nói: "Chúng tôi là những người đầu tiên nhìn nhận là chúng tôi không toàn hảo" và cho phía Việt Nam biết là chính phủ Hoa Kỳ đã bỏ tù những quân nhân đã phạm tội tra tấn tù nhân tại Abu Ghraib.
Nhà ngoại giao Hoa Kỳ này nói tiếp: "Khác biệt lớn giữa hai quốc gia là nếu những người ở vị trí quyền lực tại Hoa Kỳ mà lạm dụng ức hiếp người khác, họ vẫn đi tù như thường".
Ông Marchant cho biết trong năm ngoái đã có 25 người Việt Nam bị bỏ tù vì chỉ trích chính phủ, và các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã khẳng định rằng cách hành xử đó không thể chấp nhận được nếu muốn cải thiện quan hệ giữa hai nước.
Ông Marchant gặp gỡ gia đình của những nhà đối kháng bị cầm tù và đã nộp những kháng thư liên quan đến việc đối xử tệ hại đối với tù nhân.

Đại Hội Đảng CSVN Kỳ XI

Trung Điền

Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 14 triệu tập từ ngày 13 đến 22 tháng 12 năm 2010 vừa qua, được coi như tiền đại hội để chuẩn bị cho đại hội đảng kỳ XI sắp diễn ra vào ngày 12 tháng 1, 2011. Đây là nếp sinh hoạt mới của đảng CSVN bắt đầu từ đại hội X vào tháng 4 năm 2006, quyết định bãi bỏ việc họp trù bị, tức là các đại biểu họp kín để biểu quyết nhân sự theo sự lèo lái của bộ chính trị, trước khi đại hội chính thức khai mạc.
Sự thay đổi này đến từ cuộc tranh luận gay gắt giữa một số đại biểu và chủ tịch đoàn đại hội IX vào năm 2001, khi nhóm Thái thượng hoàng, đứng đầu là Lê Đức Anh đã tìm cách khuynh loát đại hội trù bị để loại ghế Tổng bí thư của Lê Khả Phiêu trước khi đưa ra bỏ phiếu chính thức tại đại hội. Chính vì thế mà từ sau đại hội IX, đảng CSVN đã bỏ phiên họp trù bị, mọi thảo luận và biểu quyết về văn kiện, nhân sự phải tổ chức “công khai”, kéo dài lên đến 8 ngày họp chính thức, thay vì các đại hội trước đây chỉ có 4 ngày họp chính thức và 1 ngày họp trù bị.
Dựa theo những gì đã từng xảy ra trong đại hội X vào tháng 4 năm 2006, đại hội XI diễn ra từ ngày 12 đến 19 tháng 1 năm 2011 sẽ có năm phần chính:
Phần 1 là nghi thức khai mạc, giới thiệu chủ tịch đoàn, thư ký đoàn điều hành 8 ngày đại hội và sau đó là ba bài phát biểu gồm diễn văn khai mạc do Nguyễn Minh Triết đọc; báo cáo chính trị do Nông Đức Mạnh đọc và Trương Tấn Sang sẽ đọc bản báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của ban chấp hành trung ương khóa X. Phần này sẽ diễn ra trong ngày 12 tháng 1.
Phần 2 là các đại biểu tập trung thảo luận về các văn kiện như báo cáo chính trị, cương lĩnh chính trị năm 1991 bổ xung, chiến lược phát triển kinh tế xã hội… kéo dài trong 3 ngày từ ngày 13 đến 15 tháng 1 năm 2011. Đây cũng là phần mà các đại biểu sẽ nghe hàng chục bài tham luận từ các đảng bộ phê bình, cổ võ về nội dung các văn kiện.
Phần 3 là các đại biểu tập trung thảo luận và biểu quyết về những tu chính điều lệ đảng, quy chế bầu cử ban chấp hành trung ương bao gồm việc cứu xét một số trường hợp đặc biệt đã quá hạn tuổi và phải về hưu nhưng vẫn được lưu lại trong ban chấp hành; thông qua danh sách ứng cử, đề cử và tiến hành bầu ban chấp hành trung ương đảng kéo dài trong 2 ngày từ ngày 16 đến 17 tháng 1 năm 2011. Chiều ngày 17 tháng 1, 1.400 đại biểu sẽ bỏ phiếu chọn 160 ủy viên trung ương đảng chính thức và 21 ủy viên dự khuyết.
Phần 4 là ngày công bố kết quả thành phần được trúng tuyển vào ban chấp hành trung ương đảng và các đại biểu ghi phiếu biểu quyết một số vấn đề nội dung các văn kiện và lấy phiếu giới thiệu của đại hội về chức danh Tổng bí thư khóa XI (trong số các tân ủy viên trung ương vừa được bầu). Buổi chiều tân ban chấp hành trung ương đảng họp phiên đầu tiên để bầu Bộ chính trị, Ban bí thư, Tổng bí thư, Ủy ban kiểm tra trung ương đảng và Chủ tịch Ủy ban kiểm tra trung ương. Thủ tục này sẽ diễn ra vào ngày 18 tháng 1 năm 2011.
Phần 5 là ngày bế mạc đại hội, tức là ngày 19 tháng 1 năm 2011. Nội dung sẽ gồm các phần như công bố kết quả lấy ý kiến của đại biểu về một số vấn đề trong các văn kiện trình đại hội XI; báo cáo kết quả phiên họp ban chấp hành trung ương lần thứ nhất về Tổng bí thư, thành phần bộ chính trị, ban bí thư, Ủy ban kiểm tra trung ương và chủ tịch Ủy ban kiểm tra trung ương; điều lệ đảng sửa đổi, nghị quyết đại hội và phát biểu của tân tổng bí thư.
Dựa theo những diễn tiến nói trên, người ta thấy là đại hội của đảng CSVN đã có những thay đổi từ bản chất. Đó là trước đây các đại biểu biểu quyết theo sự áp đặt từ bên trên của Bộ chính trị hay của một phe quyền lực. Bây giờ thì các phe quyền lực bên trên phải vận động, phải thuyết phục các đảng bộ để ảnh hưởng lên đại biểu bỏ phiếu cho phe nhóm mình. Ngoài ra, kể từ đại hội XI, việc bầu cử chức danh Tổng bí thư sẽ phải có ít nhất 2 người trở lên ra ứng cử để cho tân ban chấp hành trung ương đảng tuyển chọn.
Vì diễn tiến đại hội đã có những thay đổi lớn so với quá khứ và nhất là những khuynh loát trắng trợn của phe Nông Đức Mạnh (Chủ tịch tiểu ban nhân sự đại hội XI) trong Hội nghị trung ương đảng lần thứ 14 vào giữa tháng 12 năm 2010 có thể ảnh hưởng rất lớn lên việc chọn nhân sự tại đại hội XI nên một số Thái thuợng hoàng không còn ngai đã lên tiếng.
Trước hết là ngay vào thời điểm đang diễn ra việc trung ương đảng thảo luận bầu chọn thử nhân sự trong bộ chính trị, tổng bí thư cho nhiệm kỳ tới tại Hội nghị 14 từ 13 đến 22 tháng 12, các ông Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải, Nguyễn Đức Bình, Đồng Sỹ Nguyên, Lê Xuân Tùng, Phạm Thanh Ngân đã cùng ký vào một lá thư gửi khẩn cấp đến các uỷ viên trung ương đảng ngày 19 tháng 12, đề cử Nguyễn Minh Triết làm tổng bí thư cho nhiệm kỳ tới.
Sở dĩ các Thái thượng hoàng khẩn cấp giới thiệu ông Triết là vì không còn ai có khả năng tranh với Nguyễn Phú Trọng ghế tổng bí thư mặc dù ông Triết đã ở tuổi về hưu và bị ung thư thời kỳ cuối. Các Thái thượng hoàng không tin và không ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng, trong khi đánh giá Nguyễn Phú Trọng không có khả năng và tiếp tục đi vào con đường lệ thuộc Trung Quốc như Nông Đức Mạnh đang đi. Dường như lá thư khẩn đề cử ông Triết của các Thái thượng hoàng không có mấy kết quả vì trong danh sách bầu chọn ứng viên trung ương đảng cho đại hội XI đã không có tên ông Triết lẫn ông Mạnh thì làm sao ông Triết có thể ra ứng cử ghế tổng bí thư.
Kế đến là 5 ông Tướng gồm các ông Huỳnh Đắc Hương (Thiếu tướng), Nguyễn Hữu Anh (Thiếu tướng), Nguyễn Nam Khánh (Thượng tướng), Nguyễn Quốc Thước (Trung tướng), Lê Hữu Đức (Trung tướng) đã ký chung một lá thư khá dài gửi cho 1.400 đại biểu sẽ tham dự đại hội XI vào ngày 28 tháng 12, sau khi biết việc đề cử ông Triết ra làm tổng bí thư thất bại. Chủ đích của lá thư này là tấn công vào sự khuynh loát nhân sự đại hội XI và thiếu dân chủ của Nông Đức Mạnh, đồng thời “bật mí” cho các đại biểu thấy sự đánh giá thấp của Hội nghị 14 về Nguyễn Phú Trọng. Ông Trọng chỉ được 8 phiếu trên 15 phiếu của bộ chính trị đề cử ghế tổng bí thư. Trong khi đó ở Trung ương thì ông Trọng chỉ đạt 67% số phiếu giới thiệu vào danh sách ứng viên Trung Ương đảng khóa XI.
Sỡ dĩ 5 ông Tướng nói trên đã gửi lá thư tấn công ông Mạnh và ông Trọng vì họ muốn 1.400 đại biểu thảo luận lại ý kiến đề nghị của các Thái thượng hoàng về việc giữ ông Triết ở lại ghế tổng bí thư và “triệt hạ” những đàn em mà ông Mạnh muốn đưa vô Trung ương đảng hay Bộ chính trị lần này như Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng được xem là con bài của Bắc Kinh; Nông Đức Tuấn, bí thư Tỉnh Bắc Giang, con trai của Mạnh.
Qua hai lá thư nói trên cho chúng ta thấy là những diễn biến chuẩn bị nhân sự ở hậu trường khá phức tạp. Nếu mấy tháng qua, Nguyễn Tấn Dũng đã phải vất vả chiến đấu để làm sao “trụ’ cho được ghế thủ tướng, thì nay, mấy ngày trước mặt, Nguyễn Phú Trọng sẽ phải chiến đấu để giành lấy ghế tổng bí thư, không cho rớt vào tay của Triết. Nếu ông Triết mà làm Tổng bí thư thì ông Trọng sẽ phải “gác” tiếp ghế chủ tịch Quốc hội thêm năm năm nữa mà thôi.
Điều mà chúng ta tạm rút ra qua những đấu đá hậu trường giữa phe Nông Đức Mạnh với 7 ủy viên Bộ chính trị (Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Phạm Quang Nghị, Trương Vĩnh Trọng, Nguyễn Văn Chi, Phạm Gia Khiêm, Lê Thanh Hải là những người ủng hộ Trọng làm tổng bí thư) với các Thái Thượng hoàng gồm Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Phan Văn Khải, Nguyễn Đức Bình, Đồng Sỹ Nguyên, Lê Xuân Tùng và Phạm Thanh Ngân, là cuộc chiến nhân sự rất quyết liệt trong đại hội XI.
Nông Đức Mạnh không có nhiều khả năng và hình ảnh của Mạnh rất yếu so với Nguyễn Tấn Dũng trong ba năm trở lại đây khi CSVN đẩy mạnh về mặt đối ngoại và giữ kinh tế ổn định trong tình hình khủng hoảng chung của thế giới. Với vị trí yếu như vậy mà Nông Đức Mạnh đã khuynh loát vấn đề nhân sự và “bảo vệ” cho Nguyễn Phú Trọng được đề cử ghế tổng bí thư, cho thấy là đàng sau ông Mạnh phải có sự giúp sức nào đó của Bắc Kinh. Đây là canh bạc rất quan trọng và đáng giá để cho Bắc Kinh phải đầu tư tài chánh và công sức để giúp phe Nông Đức Mạnh - Nguyễn Phú Trọng, trong bối cảnh mà Hoa Kỳ đang nhảy vào Biển Đông và đang cố lôi kéo CSVN trở thành đối tác chiến lược.
Tóm lại, không cần chờ đến bế mạc đại hội XI, nhiều xác xuất đã cho ta thấy ngay kết quả: Nguyễn Phú Trọng giữ ghế Tổng bí thư, Nguyễn Tấn Dũng giữ ghế Thủ tướng. Đây là hai chức danh quan trọng mà các phe đấu đá nhiều nhất vì có thực quyền. Còn những chức danh khác như chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội chỉ là hư danh mà thôi.
Trung Điền
Ngày 8/1/2011.

Muốn cứu nước phải khai tử Đảng

Ngô Nhân Dụng

Ðầu tháng này, trong một cuộc hội thảo bàn về dự thảo văn kiện Ðại Hội XI của Ðảng, Giáo Sư Trần Phương, một đảng viên cộng sản đã từng làm bộ trưởng, phó thủ tướng, và đứng đầu ngân hàng trung ương, ngồi chủ tọa cuộc họp này, ông đề nghị quy tắc: “Nói ngắn, nói rõ (rằng mình) muốn sửa điều này, bổ sung điều kia thôi, không cần giải thích...”
Nhưng khi đến lượt phát biểu, thì chính người chủ tọa lại không nói ngay cụ muốn sửa chữa hay bổ sung điều nào. Cụ làm cả một bản kê khai các sai lầm căn bản. Phải thông cảm với một người 83 tuổi không theo đúng các quy tắc mình đã đưa ra. Vì tất cả những chính sách, hành động sai lầm phải sửa chữa, phải bổ sung đều bắt nguồn từ những sai lầm căn bản trong tư tưởng chỉ đạo. Không sửa từ gốc thì chữa chạy những thứ trên ngọn cũng vô ích! Ông nhận xét về những sai lầm: “Không phải chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà cả quan điểm tư tưởng đấy!” Ðối với bản dự thảo các văn kiện của Ðại hội thứ 11, sắp tổ chức vào đầu năm tới, ông Trần Phương nhận xét là nó “la liệt đủ thứ; không thể góp ý gì được, không biết làm gì để tiến lên.”
Cho nên Giáo Sư Trần Phương truy thẳng vào nền tảng tư tưởng của Ðảng Cộng Sản:
“Ta nói chủ nghĩa Mác-LêNin, nhưng nó là cái gì mà bảo nó là nền tảng?”
Nên biết, năm 1954 ông Trần Phương đã được cử sang Trung Quốc học ở Học Viện Mác-Lê Nin, thế mà bây giờ chính ông nghi ngờ đặt câu hỏi: “Chủ Nghĩa Xã Hội là gì? Có ai trả lời được không?... Liên Xô cũng từ chối Xã Hội Chủ Nghĩa rồi đấy chứ!” Và cụ phê phán: “...Mác đã sai khi dự kiến về đặc trưng của Chủ Nghĩa Xã Hội.” Vì thế, chính sách “Ðổi mới của ta thực chất là ‘thụt lùi.’... Ðổi mới là (thay đổi) so với cái đã sai trong 20 năm trước!” Ông Trần Phương nhắc lại một câu mà trên thế giới người ta đã bảo nhau từ 100 năm trước: “Cái gọi là chủ nghĩa Cộng Sản là ảo tưởng.” Dù sao một người ngoại bát tuần dám nói thẳng cái chủ nghĩa mình theo suốt đời là một ảo tưởng, đó cũng là một thái độ can đảm đáng khen ngợi. Xét cho kỹ thì những sai lầm mà Giáo Sư Trần Phương nêu ra không bắt đầu với nhóm người lãnh đạo đảng hiện nay. Ðó chính là những sai lầm căn bản của đảng Cộng Sản Việt Nam từ khi thành hình cho tới nay!
Vậy thì hiện nay đảng Cộng Sản Việt Nam theo chủ nghĩa Mác như thế nào? Giáo Sư Trần Phương nói thẳng rằng đảng của ông đang “Bịp!” “Ta giả vờ theo Mác, vì nói vậy nhưng đã làm khác đi rồi. Ta nói và ta biết là ta đang bịp người khác!” Trần Phương nhắc lại: “Cương lĩnh đầy dẫy cái sai, cái mơ hồ. Nói Xã Hội Chủ Nghĩa mà không biết nó là cái gì! Nhiều chuyện ta tự lừa dối mình và lừa dối người khác.” Ông không quên nhắc lại lời Abraham Lincoln: “Người ta chỉ có thể lừa bịp được vài người suốt đời, hoặc lừa được tất cả mọi người trong đôi lúc; nhưng không thể lừa được tất cả mọi người mãi mãi được!” Như ông là một thí dụ, đảng không thể “bịp” ông suốt đời được!
Một người cũng tham dự cuộc hội thảo này là nhà kinh tế Lê Ðăng Doanh, từng làm cố vấn cho nhiều ông thủ tướng ở Ba Ðình, cũng đồng ý với ông Trần Phương. Ông Lê Ðăng Doanh khuyên Ðại Hội 11: “Phải nhìn thẳng vào sự thật. Lừa được người ta mà không lừa được thực tiễn đâu.” Một người khác là Giáo Sư Lê Du Phong. Ông phê bình dự thảo Ðại Hội 11: “Tư duy lý luận lạc hậu, mâu thuẫn,... xa rời thực tiễn,... thụt lùi so với đại hội trước.” Không những thế, các văn kiện của đảng Cộng Sản còn “xem thường lịch sử!” Thí dụ, họ viết rằng “Chủ Nghĩa Xã Hội là điều kiện để nước Việt Nam độc lập.” Ông Lê Du Phong hỏi: “Các triều đại trước có Chủ Nghĩa Xã Hội đâu mà nước ta vẫn độc lập?” Ðây cũng là một ý kiến người Việt Nam ai cũng nghe nói từ nửa thế kỷ nay rồi, nhưng được nhắc lại giữa Hà Nội, được phổ biến ngay lập tức trên các mạng, đó cũng là một biến cố đáng chú ý.
Sau khi Giáo Sư Trần Phương đã phê phán những sai lầm của Mác như vậy rồi, ông có khuyên răn đảng của ông xóa bỏ cái chủ nghĩa Mác-Lênin đi hay không? Không thấy ông nói. Ông vẫn tỏ ra còn thiết tha đến cái “chủ nghĩa không ai biết là cái gì” đó, nên còn đề nghị: “Phải xác định rõ Chủ Nghĩa Xã Hội là gì? Ðịnh hướng nó là gì?” Thời Hồ Chí Minh còn sống đảng Cộng Sản không phải nghe những nỗi băn khoăn như vậy. Ông Hồ theo một quy tắc rất đơn giản: “Bất cứ cái gì Stalin nói, Mao nói, đều là Chủ Nghĩa Xã Hội!” Thế là hết bản cãi!
Hình như là những người cộng sản lâu đời như cụ Trần Phương người nào cũng bị mang một mối bi thương trong lòng: Biết cái chủ nghĩa mình theo là ảo tưởng, là đầy những sai lầm, từng gây bao nhiêu tai hại cho dân tộc, nhưng lại không nỡ tuyên bố từ bỏ nó! Những người can đảm dám từ bỏ chủ nghĩa, từ bỏ đảng, như Nguyễn Hộ, Hoàng Minh Chính, Tô Hải, như ông Ðỗ Xuân Thọ dọa sẽ đốt thẻ đảng nếu sau Ðại hội lần thứ 11 này, đảng vẫn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng không thay đổi, số người như thế rất hiếm. Có lẽ vì ngay khi còn là đảng viên cộng sản đó đã biết nghi ngờ và đã biết phê phán rồi, chứ không nhắm mắt tin theo.
Biết Chủ Nghĩa Xã Hội là ảo tưởng nhưng vẫn thiết tha nuôi nấng nó cho con cháu được hưởng, như Trần Phương kể: “Tôi nói với ông Ðỗ Mười, ông Phạm Văn Ðồng là đến cuối thế kỷ XXI này, con cháu chúng ta mới bắt đầu nghĩ đến Chủ Nghĩa Xã Hội.”
Thật không hiểu nổi tại sao ông còn nhắc lại ý kiến đó, mà ông nhắc lại như một điều đáng hãnh diện!
Thử ngẫm coi: Cả một đời người bắt toàn dân một nước nhắm mắt nghe theo cái Chủ Nghĩa Xã Hội ấy; đến cuối đời đã biết mình chỉ lừa bịp dân thôi, thế mà tại sao vẫn còn muốn 100 năm sau thế hệ con cháu tiếp tục “sự nghiệp nuôi ảo tưởng” của thế hệ mình! Có khác nào đang tâm đánh lừa cả đàn con cháu, muốn chúng “ngồi chờ một thế kỷ nữa” lại tiếp nối sự nghiệp nuôi ảo tưởng theo ông cha? Từ đây đến cuối thế kỷ 21, loài người sẽ sống ra sao, cụ Trần Phương có đoán trước được hay không? Chính cụ đã phê bình việc bám theo ảo tưởng của Karl Marx: “Bây giờ (thế giới) có đến 6.5 tỷ người, đến nước sạch cũng bị thiếu rồi, đánh nhau vì nước uống” để chứng tỏ thực tế thế giới đã thay đổi hoàn toàn, so với viễn kiến của Marx gần hai thế kỷ trước. Ðã biết suy nghĩ sáng suốt như vậy, tại sao vẫn còn nuôi giấc mộng tới cuối thế kỷ 21 còn có người mơ mộng Chủ Nghĩa Xã Hội?
Nhiều đảng viên cộng sản lão thành bây giờ không nói đến Chủ Nghĩa Xã Hội nữa, nhưng vẫn muốn bám ví lấy một thứ “lý tưởng xã hội chủ nghĩa.” Lý tưởng là những điều ước ao, những điều rất tốt, rất quý, thường là rất mơ mộng, xa lìa thực tế. Thanh niên cần phải có lý tưởng, nếu không thì quốc gia không thể trông cậy được. Nhưng người trưởng thành thường không bàn đến hai chữ đó nữa. Nhà báo Lê Phan kể đã phỏng vấn “Bác Ba” Nguyễn Hộ trong thời gian ông bị quản thúc tại gia. Bà mới kể lại rằng ông Nguyễn Hộ đã “khẳng định mình đã chọn sai lý tưởng.”
Nhưng tại sao một lý tưởng chứa đầy những ước mơ tốt đẹp cho nhân loại mà nó lại mang đến bao đau khổ cho loài người để đến nỗi khi các do do nó dụng lên sụp đổ thì ở chính quê hương Liên Xô của nó, chẳng ai thèm tiếc thương? Bởi vì nó đã được Lênin và Stalin bào chế thành một thứ tín ngưỡng đem mê hoặc nhiều người. Nhưng khác với các tín ngưỡng lâu đời của nhân loại, Chủ nghĩa Cộng Sản nói toàn những mục tiêu thiện nhưng lại quyết tâm sử dụng các phương pháp độc ác. Con người không thể đạt đến điều thiện khi dùng cái ác là phương tiện.
Nhưng không lẽ một người có lý tưởng, tức là biết ước ao những điều tốt đẹp nhất, mà còn muốn thế hệ con cháu mình bước lại những bước trên con đường sai lầm của mình hay sao?
Tâm trạng đó, người xưa đã từng giải thích nguyên nhân. Vì con người ta nói chung rất khó thoát khỏi nghiệp do mình tạo ra. Những sở tri chướng, những ngã kiến, ngã mạn, những nghiệp dĩ trong đời, không tỉnh ra thì sẽ ôm theo hết kiếp. Những kiến thức được tích lũy, những ước nung nấu, những thành kiến càng được nuôi nấng lâu ngày thì nghiệp chướng càng nặng nề khó bỏ!
Tuy nhiên có những đảng viên cộng sản đã biết dứt nghiệp. Ông Nguyễn Hộ, trong hồi ký của ông, tỏ ra đã biết nghi ngờ ngay từ lúc nghe Hồ Chí Minh, khi muốn bịt miệng những người có ý kiến phê phán, đã dẫn lời Stalin rồi nói: “Chúng ta có thể lầm chứ đồng chí Stalin không thể lầm được.” Khi trả lời bà Lê Phan, ông Nguyễn Hộ nói đến 60 năm bị “đánh lừa.” Ông nói đến sự hy sinh lớn lao của bản thân, của những người đồng đội, và của toàn thể nhân dân Việt Nam, mà chẳng được gì cả. Ông nói đến sự lỗi thời và phá sản của chủ nghĩa Mác-xít. Và sau cùng ông nói bây giờ đã đến lúc “đảng Cộng Sản Việt Nam phải tự khai tử đi cho rồi.”
Những lời phê phán của ông Nguyễn Hộ nói thẳng từ 20 năm trước, bây giờ lại được ông Trần Phương và nhiều người khác nhắc lại trong cuộc hội thảo trên. Nhưng ông Trần Phương và các vị khác không dám nói: “đã đến lúc đảng Cộng Sản Việt Nam phải tự khai tử đi cho rồi.”
Muốn cứu nước, phê phán chủ nghĩa Mác-Lênin không đủ, từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chưa đủ. Chính Giáo Sư Trần Phương đã thấy mối nguy hiểm nếu đảng của ông còn cai trị nước ta: “Ðảng quyết mọi thứ mà lại không chịu trách nhiệm gì. Thế mới chết chứ!” Phải hiểu rằng không phải đảng chết, không phải các đảng viên chết, mà là chết cả nước! Nên theo lời khuyên của ông Nguyễn Hộ: Phải khai tử đảng. Ở Ba Lan người ta đã làm rồi. Ở Hungary người ta đã làm rồi. Ở Nga cũng vậy. Ðất nước người ta đã tiến trong hai chục năm qua. Mình còn tự kiềm hãm, và giam hãm cả dân tộc Việt Nam cho tới bao giờ?
http://nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=122959

Nổ Lớn Vụ Một Loại Vaccin Bị Nghi Gây Trẻ Em Bệnh Tự Kỷ

Nổ Lớn Vụ Một Loại Vaccin Bị Nghi Gây Trẻ Em Bệnh Tự Kỷ



Có phải vaccine gây bệnh tự kỷ?

Dược sĩ Nguyễn Ngọc Lan & Bs Thú y Nguyễn Thượng Chánh
Chuyện bắt đầu từ năm 1998 sau khi The Lancet, một tạp chí nổi tiếng và rất uy tín về y khoa của Anh Quốc, đăng kết quả khảo cứu của bác sĩ Andrew Wakefield.
Theo vị bác sĩ lỗi lạc nầy, thì ông ta nghi ngờ thuốc chủng triple vaccin ROR (vaccine-MMR ) hay vaccin Sởi-Quai bị-Rubella có thể gây biến chứng tạo ra bệnh tự kỷ (autism) ở trẻ em. (ROR: Rougeole, Oreillon, Rubella - MMR: Measles, Mumps, Rubella).
Bài báo trên đã làm chấn động cả thế giới, và tạo ra nỗi hoang mang lo sợ cho hằng chục triệu gia đình có con em đã từng được chủng ngừa bệnh Sởi-Quai bị-Rubella.
***
Bệnh tự kỷ, ác mộng của nhiều gia đình
** Tiến sĩ Trần thị Thu Hà, Phó trưởng khoa Phục hồi chức năng - Bệnh Viện nhi Trung ương.VN (theo vietbao.vn)
http://vietbao.vn/Suc-khoe/Tre-tu-ky-Can-benh-moi-cua-tre-em-thoi-hien-dai/65047751/248/
" Chúng ta thường gọi là bệnh tự kỷ, nhưng thật ra phải gọi là "Hội chứng tự kỷ" mới chính xác. "Hội chứng tự kỷ" là một trong những Hội chứng rối loạn phát triển ở trẻ em. Trong phân loại của tổ chức y tế thế giới trước đây thì người ta xếp nó vào loại bệnh tâm thần, nhưng ngày nay nó được tách ra như là một Hội chứng rối loạn phát triển.
Có những đứa trẻ suốt ngày chỉ xem "quảng cáo" trên ti vi mà không quan tâm điều gì khác. Có trẻ thì chỉ thích chơi một mình, soi mói một đồ vật nào đó như một nhà nghiên cứu khoa học, dù trẻ đó mới được 3 tuổi. Có trẻ thì chỉ nói những tiếng "xì xà xì xồ" mà lại không nói được tiếng Việt. Cũng có những trẻ chỉ chơi một loại đồ chơi, mà lại chỉ chơi một kiểu mà không bao giờ nghĩ ra kiểu chơi khác. Có những đứa trẻ không bao giờ chia sẻ buồn vui với bố mẹ và người thân, chân tay lúc nào cũng "vân vê" một cách vô thức... Tất cả những hiện tượng trên là dấu hiệu của trẻ mắc "hội chứng tự kỷ" … "
** Bác sĩ Trần Mạnh Ngô, Hoa Kỳ (yduocngaynay.com)
http://www.yduocngaynay.com/2-2%20TrMNgo_Autism.html
" …Bệnh tự kỷ trẻ em là do phát triển não khuyết tật. Bệnh nhân tự kỷ mất khả năng giao tế trong xã hội.
Nhiều bệnh nhân tự kỷ có những cử chỉ bất thường khi học tâp, chú ý hay có những phản ứng cảm giác khác thường. Bệnh nhân thường lơ đãng, không muốn gần những người xung quanh.
Bệnh nhân khó hoà nhập vơí xã hội như không thể nói hay diễn tả, không thể chơi vơí những trẻ lành mạnh, hay khó khăn trong những liên hệ đối vơí những người xung quanh.
40% trẻ tự kỷ không muốn nói năng gì. Nhiều khi không bắt kịp hay hiểu được những người xung quanh muốn nói gì. Trẻ tự kỷ làm việc gì hầu như cứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Trẻ chỉ muốn làm một việc có thứ tự hàng ngày thường làm. Nếu bố mẹ muốn thay đổi thứ tự khi làm một việc gì thì trẻ thấy khó chịu. Chẳng hạn hàng ngày rửa mặt rồi mớí mặc quần áo, nhưng nếu bố mẹ muốn trẻ mặc quần áo trước rồi lau mặt sau, thì bệnh nhân tỏ vẻ bất mãn ra mặt.
Bệnh tự kỷ bắt đầu từ lúc còn nhỏ tuổi rồi lần lần giảm đi khi lớn tuổi.
Hay nói chung trẻ em bị bệnh tự kỷ nhiều hơn người lớn. Bệnh cũng nặng nhẹ tùy theo từng người.
Nghiên cứu tại Âu Châu và Á Châu cho biết cứ 1000 trẻ lại có 6 em bị bệnh tự kỷ.
Nghiên cứu năm 1996 tại Atlanta cho thấy cứ 1000 trẻ em ở Mỹ lại 3 tới 4 em bị tự kỷ.
Nghiên cứu năm 1998 ở New Jersey cho biết 6.7 trong số 1000 trẻ em tuổi từ 3 tới 10 lại có ít nhất một trẻ bị tự kỷ… ".
British Medical Journal tố cáo bác sĩ Andrew Wakefield
British Medical Journal (BMJ), một tạp chí y khoa khác ở Anh Quốc, nói rằng sự kiện đáng tiếc năm 1998 (ám chỉ vụ The Lancet cho đăng khảo cứu của Bs Andrew Wakefield) nên được xem như một bài học cho tất cả mọi người chúng ta.
Tạp chí The Lancet đã nhận biết sự sơ hở cùa họ trong việc cho đăng tải bài khảo cứu của bác sĩ Andrew Wakefield. Nhưng phải đợi mãi đến tháng 2 năm 2010, Lancet mới chịu rút bỏ bài khảo cứu nói trên ra khỏi danh mục archive của tờ báo.
BMJ đã căn cứ theo phán quyết của General Medical Council (GMC)/Anh quốc để kết tội bác sĩ A. Wakefield.
Theo GMC: -/ nhiều điểm trong khảo cứu của bác sĩ A.Wakefield và các công sự viên của ông không được chính xác; -/ những phương pháp thực hiện thí nghiệm không đúng với y đức; -/ số lượng mẫu thí nghiệm quá nhỏ, chỉ có 12 trẻ em.
ROR:Une étude erronnée, mais aussi frauduleuse. Science et Santé Radio Canada 7/jan/2011
http://www.radio-canada.ca/nouvelles/sante/2011/01/06/002-thelancet-autisme- vaccins.shtmlaccin
Hậu quả khảo cứu của Bs Wakefield là có sự tuột giảm thật đáng kể ở khắp các quốc gia Tây phương (Anh, Mỹ, Canada...) về số trẻ em được cha mẹ cho chủng ngừa Triple vaccin ROR!
Sự kiện trên đã đưa đến số trẻ em mắc bệnh sởi (rougeole) tăng lên rất nhiều mỗi năm tại các quốc gia nói trên!
Hiệp hội tự kỷ Anh Quốc (National Autism Association UK) bác bỏ lời buộc tội của The British Medical Journal
The British Medical Journal BMJ buộc tội và cho rằng: kết quả khảo cứu của bác sĩ A.Wakefield là giả dối, và do đó bác sĩ Wakefield mới nêu ra mối dây liên hệ giữa bệnh tự kỷ và bệnh đường ruột (bowel disease).
Hiệp hội Tự kỷ Anh quốc (NAA UK) bác bỏ và biện bạch rằng: nếu kết quả khảo cứu là giả tạo thì tại sao các công trình và việc làm của bác sĩ Wakefield đều được cho thấy là đúng:
o Các giới thẩm quyền Hoa Kỳ đều nhìn nhận tất cả thuốc chủng (chớ không phải chỉ riêng có vaccine-MMR) đều gây ra những điều kiện dẫn đến bệnh tự kỷ;
o Tòa án liên bang Hoa Kỳ ra phán quyết rằng phải đền bù xứng đáng các nạn nhân bị mắc bệnh tự kỷ vì đã được chủng ngừa vaccine-MMR trước đó;
o Có nhiều bài khảo cứu đã được đăng tải trong những tạp chí y khoa hàng đầu thế giới đã xác nhận những điều mà Bs Wakefield đã chứng minh năm 1998. Các trẻ em bị tự kỷ đều cho thấy có bệnh đường ruột rất nặng trong khi những em không mắc bệnh tự kỷ thì không thấy vấn đề nầy.
Không có sự liên quan giữa sự xuất hiện bệnh tự kỷ với việc chủng ngừa bệnh Sởi-Quai bị-Rubella ở trẻ em
Có nhiều khảo cứu những năm gần đây cho biết là không có mối liên hệ nào giữa việc chủng ngừa triple vaccin ROR với sự xuất hiện của bệnh tự kỷ ở trẻ em.
Năm 2006, các nhà khảo cứu của Université Mc Gill ở Canada đã cho biết mặc dù việc chủng ngừa triple vaccin ROR có giảm đi nhưng thực tế cho thấy vẫn có sự gia tăng của bệnh tự kỷ ở trẻ em.
Bác sĩ Andrew Wakefield phản công
Trước nhất, bác sĩ A. Wakefield tố cáo là "họ" đã ăn tiền của kỹ nghệ dược phẩm để hãm hại ông ta.
Trong một cuộc phỏng vấn của CNN, bác sĩ A. Wakefield đã bác bỏ hết các luận điệu tố cáo ông là gian dối nầy gian dối nọ trong các kết quả thí nghiệm.
Ông khẳng định là ông không có phịa ra các số liệu khảo cứu trên.
Cũng theo bác sĩ Andrew Wakefield, thì rõ ràng là ký giả Brian Deer của báo Sunday Times làm việc cho kỹ nghệ dược phẩm. Và chính ký giả Brian Deer đã điều tra, tìm hiểu trong vòng 6 năm để phanh phui trước công luận về tính chất xác thực của bài khảo cứu đăng trong The Lancet năm 1998.
** Mời các bạn xem các đoạn Video nẫy lửa dưới đây:
CNN Interview - Andrew Wakefield Replies to Autism Fraud Allegations
-/ Posted on January 7, 2011 by childhealthsafety
http://childhealthsafety.wordpress.com/2011/01/07/cnn-interview-andrew-wakefield-replies-to-autism-fraud- allegations/
-/ Phụ huynh của 12 em bị tự kỷ (nêu trong khảo cứu của Bs Wakefield) đáp lại những lời buộc tội của ký giả Brian Deer, BMJ, GMC: Lancet 12 Parents Respond to Brian Deer BMJ GMC Allegations
http://www.ageofautism.com/2011/01/lancet-12-parents-respond-to-brian-deer-bmj-gmc-allegations.html? cid=6a00d8357f3f2969e20148c76ab28b970c
Kết luận
Người viết không phải là một nhà chuyên môn về y khoa nên không dám và không có đủ thẩm quyền đưa ra một phán xét nào cả!
Nhưng, ở đời, đằng sau $$$, thì chuyện gì cũng có thể xảy ra được hết!
Khoa học không có lương tâm chỉ làm băng hoại tâm hồn!
"Science sans conscience n'est que ruine de l'âme" (François Rabelais 1494-1553)
Montreal Jan 10, 2011

Về Những Hồn Hoang Nơi Pháp Trường Cát!

Capvanto
Việt Báo ghi chú: Khi hàng ngàn chiến sĩ của Lữ Đoàn 147/TQLC bị bỏ rơi trên bãi biển Thuận An cuối tháng Ba năm 1975, người viết bài này đang làm nhiệm vụ  một người trực trung tâm hành quân SĐ/TQLC tại Non Nước, Đà Nẵng.
Người viết tên thật Tô Văn Cấp,  một tiểu đoàn trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến/VNCH. Sau 10 năm tù, ông  định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO 1. Từ hơn mười năm qua, ông là một trong những tác giả của Việt Báo Viết Về Nước Mỹ rất được quí trọng. Bài sau đây, theo tác giả, gồm những điều ông không thể không viết ra.
*
Trong chương trình Huynh Đệ Chi Binh của nhà văn Huy Phương trên SBTN nói chuyện về việc đồng bào thôn An Dương, Thuận An, Huế, đã cải táng nấm mồ tập thể 132 quân nhân tử trận trên bãi biển Thuận An vào những ngày cuối tháng 3.1975, nhân dịp này ông có phỏng vấn tôi một số chi tiết liên quan đến "biến cố" Thuận An. Buổi nói chuyện của ông đã được phổ biến trên TV khắp các tiểu bang Hoa Kỳ và gây xúc động cho nhiều người, nhất là những gia đình có chồng, con, anh, em, còn mất tích trên bãi cát này, nên quý vị đó đã gọi điện thoại cho tôi yêu cầu nói rõ thêm về cuộc rút quân của Lữ Đoàn 147/TQLC.
Thời gian của mỗi buổi nói chuyện chỉ trong vòng 20 phút trong khi muốn hiểu rõ đầu đuôi thì phải cần cả ngày. Quý khán thính giả đã xem chương trình của anh Huy Phương như các anh Tô Đức Hạnh (Alhambra, anh của cố Đ/Uy Tô Thanh Chiêu), Phan Hữu Hạnh (Witchita), Nguyễn Công Thân (AZ), Lữ Minh Đức (San Francisco), Đỗ Văn Minh (Houston TX) và nhất là chị Hồng Bạch (San Jose) đã khóc ngất khi hỏi tin tức về em trai là Tr/ Sĩ TQLC Lâm Phi Hạnh mất tích tại Thuận An. Vì vậy tôi xin được nói rõ THÊM về những điều tôi đã nghe và thấy trong nhiệm vụ của một người trực trung tâm hành quân SĐ/TQLC tại Non Nước, Đà Nẵng và tôi tham khảo thêm bài viết của các Mũ Xanh khác. Ngoài nhà văn Cao Xuân Huy với "Tháng Ba Gẫy Súng" đã in sách và xuất bản, còn thì mỗi người lính TQLC bị đẩy ra bãi cát Thuận An đều có "cây súng bị gẫy", nhưng mới chỉ phổ biến trong nội bộ TQLC mà thôi, đó là:
- Tháng Ba Buồn Hiu của Tiểu Cần, âm thoại viên của Tư Lệnh/TQLC. (1).
- Những Người Lính Bị Bỏ Rơi của bs TQLC Phạm Vũ Bằng (2)
- Người Lính Sau Cùng Tuyến Sông Bồ của Th/Úy Phan Văn Đuông (3)
- TĐ 7/TQLC Từ Cuộc Di Tản 23/3/75 của Th/tá Phạm Cang, TĐT/ TĐ7 (4).
- Ngày Tháng Không Quên của Tango Nguyễn Thành Trí, TLP/SĐTQLC. (5)
(1 và 2 đăng trong web TQLC. Còn 3,4,5 đăng trong Tuyển Tập II TQLC, khi trích dẫn tôi sẽ dùng những số này để rút gọn thay vì viết đầy đủ tên bài viết)
Chiến đấu là có thắng thua, mà phần quyết định thắng thua thường do khả năng chỉ huy và tài lãnh đạo của cấp chỉ huy. Viết về một chiến thắng thì quá dễ dàng. vui trong bụng và làm hài lòng những người tham dự, nhất là những cấp chỉ huy và lãnh đạo trận đánh đó. Nhưng rất dễ "lãnh đạn" khi viết về một chiến bại, dù cho là "Can Trường Trong Chiến Bại". Viết về biến cố Thuận An thì lại càng khó. Nó không chỉ là chiến bại, mà là một tan hoang! Tan hoang không hoàn toàn do địch quân*, mà có phần trách nhiệm chỉ huy cao cấp của cuộc rút quân đó! Lại càng khó khi những nhân vật chỉ huy cao cấp đó còn đây. Không khéo lại bị mang vạ là hỗn hào, sao dám phê bình thượng cấp?
 Biết vậy nhưng tôi vẫn phải viết, viết để trả lời cho những người đã khóc, đang khóc và còn khóc mãi khi thân nhân của họ là những oan hồn* chưa tìm được nơi tạm trú, những hồn hoang vẫn còn lang thang trên pháp trường cát Thuận An vào những buổi hoàng hôn.
 (* Khi nghe tin SĐ1/BB và TQLC đã rút thì Thiếu Tá Hoàng Trai, CHT trung tâm huấn luyện SĐ.1 tại Dạ Lê mới cho TTHL rút theo. Trước khi rút, ông còn dùng xe jeep chạy khắp thành phố Huế để nhìn lại "quê hương" một lần chót mà không hề hấn gì, chỉ gặp một vài trái pháo rơi vãi đó đây, áp lực địch không mạnh, tức là hậu quả thê thảm trong giai đoạn rút quân là do vị chỉ huy cao cấp và ban tham mưu không nắm vững tình hình hoặc bỏ "nhiệm sở".)
Hơn nữa khi tôi ghi lại những dòng này là đã đọc các hồi ký của những người trách nhiệm ở bãi biển Thuận An, tôi đọc và tôi viết ở cái tuổi gấp đôi khi các ông KK mang sao trên cổ áo. Nếu tôi không ghi lại bây giờ mà để thêm vài năm nữa thì lại sinh lẩm cẩm, lẫn lộn giữa bạn và thù.
Trong buổi nói chuyện trên SBTN, nhà văn Huy Phương hỏi tôi:
 - Nhiệm vụ của Sư Đoàn TQLC tại vùng I.
- Lý do rút quân và diễn tiến cuộc rút quân. Những gì xẩy ra trên bãi biển Thuận An?
- Tổn thất như thế nào? Có bao nhiêu TQLC về được Đà Nẵng?
- Nếu có mặt của vị chỉ huy cao cấp (?) tại chỗ thì tình thế sẽ ra sao?
- Hoạt động của TQLC sau đó và những ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Xin trả lời:
Cuộc hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào năm 1971, một cuộc chiến kỳ quái thí quân, rồi sau đó tới "Mùa Hè Đỏ Lửa", tái chiếm Cổ Thành đã khiến hai binh chủng Nhẩy Dù và TQLC bị tiêu hao khá nặng. Tổng trừ bị là vậy, nhưng rồi sau đó thượng cấp biến TTB thành "binh chủng" ĐPQ và NQ của vùng I, đóng đồn giữ đất, cắm chốt, đào giao thông hào, trải quân từ bờ biển vào tận dãy Trường Sơn. Một trung đội trưởng còn biết sự cần thiết của lực lượng trừ bị, vậy mà giới lãnh đạo lại không biết điều đó sao!
Sau khi Ban Mê Thuột bị mất ngày 10/3075 thì ngày 13/3.75. "thượng cấp" mới giật mình tỉnh cơn mê, không có tổng trừ bị bèn vội vàng kéo Dù về Nam, và để trám vào chỗ trống đó là kéo LĐ 258 và LĐ 369/TQLC, đang giữ đất ở QT, Huế di chuyển vào Đà Nẵng, Thường Đức, thay thế Dù, và chỉ còn lại LĐ 147/TQLC phòng thủ tuyến sông Bồ và bảo vệ Huế. Lực lượng thay thế 2 Lữ Đoàn TQLC với 5 ngàn tay súng là Liên Đoàn 14/BĐQ với quân số 1400.
BMT bị mất, Dù về Nam, TQLC xuôi vào ĐN đã ảnh hưởng rất lớn đến các lực lượng chiến đấu ở QT, Huế, đấy là chưa nói đến áp lực địch gia tăng và dân chúng hoảng loạn bắt đầu di tản, thì việc phòng thủ Huế đã quá mong manh.
Lúc 14.30 giờ ngày 24/3/75, Tại căn cứ Hải Quân Thuận An, Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Tiền Phương (QĐITP) Lâm Quang Thi họp với Tướng TL/SĐ1/BB. Đại Tá Hy TMT/QĐITP, Đại Tá Duệ tỉnh trưởng Thừa Thiên, Đại Tá Nguyễn Thành Trí, TLP/TQLC để bàn kế hoạch rút quân. Kế hoạch đã được trình lên Trung Tướng TL/QĐI và được chấp thuận. Khoảng 17 giờ 30 cùng ngày Đ/Tá Hy đi trực thăng đến trao công điện cầm tay cho Đ/tá Nguyễn Thành Trí lệnh rút quân và Đ/Tá Trí ra lệnh cho các đơn vị TQLC thi hành vào lúc 18 giờ ngày 24/3/75.
Trong phạm vi bài viết này, tôi không đề cập tới lệnh rút quân của QĐITP đã được soạn thảo vội vàng như thế nào và tôi cũng không đề cập tới việc rút quân của các đơn vị bạn như SĐIBB, BĐQ, TG v.v.. mà chỉ đề cập tới lệnh rút quân ban cho LĐ.147/TQLC.
Đ/Tá Nguyễn Thành Trí Tư TLP/TQLC kiêm Tư Lệnh lực lượng Tây-Bắc, mà nỗ lực chính là LĐ.147, đã viết trong "Những Ngày Tháng Không Quên" như sau:
- "Tướng Thi quyết định đề nghị kế hoạch rút quân khỏi Huế lên Tướng Trưởng như sau: Lực lượng Tây Bắc Huế do tôi chỉ huy sẽ rút về Thuận An, sau đó đi chuyển về cửa Tư Hiền. Tại đây, Hải Quân và Công Binh QĐI sẽ phối hợp thiết lập cầu phao để các cánh quân vượt sông nhanh chóng và dễ dàng. SĐ.1BB do Tướng Điềm chỉ huy sẽ rút theo trục quốc lộ 1 và sẽ  tập trung về điểm vượt sông, song song với cánh quân TQLC. (5 trang 538 ).
- "Sáng sớm ngày 25 tháng 3, LĐ147/TQLC báo cáo đã hoàn tất việc tập trung bên này bờ biển, cách Thuận An 9 cây số về phía Đông Nam (5 trg 539). Khoảng 1030 giờ, qua tần số không lực, LĐ147/TQLC nhận được lệnh của QĐ1TP hãy chuẩn bị tại chỗ để tàu vào bốc, kế hoạch di chuyển về cửa Tư Hiền bị hủy bỏ vì không thể thực hiện được cầu phao do tình trạng an ninh và thủy triều bất lợi. (5 trg 540).
Tư lệnh lực lượng Tây Bắc ra lệnh rút lúc 18 giờ ngày 24/3 mà sáng sớm ngày 25/3, chỉ trong vòng hơn một đêm mà LĐ147/TQLC đã di chuyển từ tuyến sông Bồ (TĐ5) và sẵn sàng tại điểm tập trung, phía Nam cửa Thuận An 9 km, tiếp tục đi chuyển về cửa Tư Hiền để vào Đà Nẵng là một cuộc hành quân lui binh rất khó khăn nhưng LĐ147 đã hoàn tất đúng với lệnh của QĐITP. Tuy nhiên đến 10 giờ 30 thì kế hoạch thay đổi, vì không bắc được cầu phao qua cửa Tư Hiền* nên LĐ147TQLC dừng quân tại chỗ để tàu Hải Quân vào bốc.
(* cửa Thuận An và Tư Hiền rộng như một con sông lớn nối liền biển với các đầm nước trong đất liền, phòng thủ và vận chuyển tại cửa Thuận An là trách nhiệm của Duyên Đoàn 12 và tại cửa Tư Hiền là Duyên Đoàn 13, thuộc BTL Hải Quân vùng I Duyên Hải.)
Rút quân bằng đường bờ biển vào Đả Nẵng qua cửa Tư Hiền thì yếu tố quyết định là phải có cầu phao tại đây, hay tối thiểu phải là các tàu há mồm để chuyện quân từ bờ này sang bờ kia. Tướng tiền phương đã ra lệnh cho HQ và CB thi hành, vậy mà chỉ trong một đêm đã báo cáo kết quả là không thực hiện được. Thượng cấp ra lệnh khi chưa cho thám sát địa thế, khi phương tiện chưa sẵn sàng, chưa nghiên cứu thủy triều, hay thuộc cấp (HQ&CB) không tuân lệnh hành quân? Điểm chết người là ở chỗ này đây.
Bãi biển từ cửa Thuận An đến cửa Tư Hiền là một hòn đảo cát, Đông Tây Nam Bắc là nước, đã ra đến đây rồi thì đường rút quân vào Đà Nẵng chỉ có duy nhất vượt qua cầu phao tại cửa Tư Hiền. Nhưng bắc cầu phao đâu phải vẽ trên giấy? Kết quả là thế đấy!
Nhưng thôi, không có cầu phao thì QĐITP ra lệnh dừng quân tại chỗ để tàu HQ vào đón. Thật là tuyệt diệu vừa nhanh chóng, an toàn, vì dưới tay Quân Đoàn là cả một lực lượng Hải Quân hùng hậu đầy đủ tầu thuyền của Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải, ông biết mọi đặc tính của vùng biển này như trên bàn tay. Nhưng rồi chuyện gì xẩy ra? Xin nghe Đ/Tá TL lực lượng Tây-Bắc nói:
"Khoảng 1300 giờ,(ngày 25.3), một hải vận hạm (LSM) đến bãi bốc, nhưng lại đậu cách xa bờ 200m, làm sao binh sĩ lội ra được trong tình trạng sóng to gió lớn lại còn phải đem theo thương binh và tử sĩ? Nếu có vài chiếc LCM để chuyển quân từ bờ ra tàu lớn thì mọi việc đã có thể giải quyết tốt đẹp, vì loại tàu LCM có thể vào sát bờ hơn. Thấy không thể giúp gì được nên chiếc LSM di chuyển đi nơi khác sau khi hứa sẽ gọi tàu LCU đến để bốc quân (5 trg 540).
Từ khi ra lệnh dừng quân đến khi tàu đến phải mất gần 3 tiếng đồng hồ (1030-1300)? Đến rồi lại bỏ đi! Thiếu Tá Phạm Cang TĐT/TĐ7/TQLC nói về trường hợp tàu HQ vào đón (kể trên) như sau:
"Tàu đậu cách bờ 200m lại thêm sóng to gió lớn là một trở ngại vô cùng khó khăn. Từng toán 20 TQLC nắm tay nhau lội ra tàu nhưng bị sóng đánh dạt vào bờ trông thật thê thảm! Các đơn vị cố gắng nhiều lần nhưng đến 5 giờ chiều thì không một quân nhân nào ra đến tàu được. Đ/Tá LĐT gọi các tiểu đoàn trưởng đến họp (3,4,5,7,TĐ2PB) và ra lệnh phòng thủ tại chỗ để chờ xuống tàu theo kế hoạch Alfa" (4 trg 489).
Ngồi chờ tàu vào đón từ 10 giờ sáng đến 5 giờ chiều, tàu đến rồi tàu lại đi vì sai kế hoạch, trong khi địch quân thì có 7 tiếng đồng hồ, quá dư thời gian để bám sát đuổi theo, trận chiến xảy ra, địch đã núp sẵn trên các cao điểm, hướng đủ mọi loại súng vào quân ta. Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4 và Đại Úy Tô Thanh Chiêu ĐĐT/ĐĐ.3 tử thương vào lúc này. Kế hoạch Alfa như thế nào và đã được thực hiện ra sao? Th/Tá Cang viết tiếp:
"Tối hôm đó (25/3) LĐ đóng quân đợi thi hành kế hoạch Alfa tức là xuống tàu Hải Quân vào lúc 12 giờ đêm, theo thứ tự BCH/LĐ, TĐ 2PB rồi tới các TĐ 4,3,5 và 7. Thế rồi 12 giờ đêm đã tới, 1 giờ đã qua rồi 3 giờ sáng, các con tàu vẫn không vào bờ! Xa xa ngoài khơi, ánh đèn các con tàu vẫn còn đó, nhưng mọi vật hình như bất động! Đến 8 giờ sáng ngày hôm sau (26/3) mới có một chiếc LCM vào đón thương binh và BCH/LĐ." (4 trg 490).
Hành quân lui binh khó khăn gấp trăm lần hành quân tấn công, vậy mà LĐ147/TQLC với các Tiểu Đoàn 3,4,5,7 và TĐ2PB đã thi hành đúng theo lệnh, dừng quân trên đảo cát để tàu vào đón, nhưng chờ gần một ngày một đêm (10.30 sáng ngày 25/3 đến 8 giờ sáng ngày 26/3) vẫn không có con tàu nào, chúng vẫn bất động trước mặt. Nhưng địch quân nó có "bất động" như tàu không? Chúng không ngu mà đã thần tốc bám theo, mỗi khắc giá đáng ngàn vàng thì gần 24 giờ đồng hồ "ta đứng, địch đuổi" chuyện gì sẽ xẩy ra? Địch đã dư thừa thời gian đuổi theo và tăng cường quân số quyết tấn công LĐ.147, nên khi chiếc LCM vào đón thương binh là chúng tấn công bằng hỏa tiễn và 12.7, Đ/Tá LĐT bị thương Th/Tá Phạm Cang chỉ huy LĐ thay thế Đ/Tá Nguyễn Thế Lương. Nếu đêm 25/3, kế hoạch Alfa được thi hành, địch chưa đuổi kịp thì không xảy ra đại họa. Đã quá trễ khi địch đã sẵn sàng hướng súng vào tàu, vào quân ta như những tấm bia trên thềm bắn. Th/Tá Phạm Cang XLTV/LĐ viết:
"Nếu đêm qua kế hoạch Alfa được thi hành thì ít nhất một nửa lữ đoàn có thể thoát khỏi khu vực này để lên tàu. Nhưng không rõ vì lý do gì không thực hiện được. Khoảng 10 giờ sáng HQ cho biết sẽ có LCM vào đón. Tôi ra lệnh cho TĐ 4 và 3 xuống tàu theo như đã định, nhưng khi LCM vừa cập bến thì quân nhân các đơn vị bạn cùng dân chúng cũng nhanh chân tranh nhau  xuống tàu gây nên cảnh hỗn loạn. Vì số lượng người quá đông nên tàu mắc cạn. Vị chỉ huy tàu yêu cầu ai không phải TQLC thì xuống bớt tàu mới có thể ra khơi được. Nhưng ai là người chịu xuống khi biết rằng đây là cái phao cuối cùng. Tuyệt vọng! Tự sát và VC tác xạ vào gây thêm cảnh chết chóc cho những ngươi xung quanh" (4 trang 491).
Lời của Th/Tá Phạm Cang trên đây cũng như Tr/Úy Cao Xuân Huy trong "Tháng Ba Gẫy Súng" đã nói giống nhau về con tàu vào đón quân trễ 24 giờ so với lệnh hành quân của QĐITP (10 giờ 30 ngày 25/3 đến10 giờ ngày 26/3) khiến nó trở thành cái quan tài sắt chứa bao nhiêu xác người, có khác chăng là chi tiết giữa cái nhìn của ĐĐT và TĐT. Đó là hậu quả mà người dân thôn An Dương, Thuận An, Thừa Thiên Huế vừa cải táng nấm mồ tập thể của 132 tử sĩ VNCH, tuy không xác định được danh tánh nhưng phần lớn là TQLC. Còn bao nhiêu lần 132 xác nữa vẫn còn nằm rải rác khắp đó đây dưới cát hoặc thủy triều kéo ra biển khơi?
Từ 10 giờ sáng, con tàu đến trễ 24 tiếng đã mắc cạn biến thành "con tàu ma" thì chẳng còn "ma" nào vào đón LĐ.147 nữa. Họ phải làm gì đây? Trong cơn nắng hè giữa bãi cát, cả lữ đoàn đang chết khát giữa biển nước mênh mông. Đến 2 giờ chiều Tướng Lâm Quang Thi bay trực thăng ngoài biển khơi gọi máy hỏi quân số dưới đất còn bao nhiêu, Th/Tá Cang trả lời:
- "Ngoài 5 Tiểu Đoàn TQLC, còn có các đơn vị bạn đi theo, tổng số khoảng 3000".
Vị tướng tiền phương hứa sẽ có tàu lớn (?) vào đón và rồi ông bay đi và im lặng vô tuyến. Đến 4 giờ chiều, tức 2 giờ sau lời ông tướng hứa thì Th/Tá Phạm Cang XLTX/LĐ nhận được lệnh từ TLP/TQLC rằng không còn tàu nào nữa! Đ/tá  ghi lại (5 trg 541) như sau:
"Chiều đã xuống, BCH nhẹ SĐ đã gọi bất cứ hệ thống vô tuyến nào có thể xen vào để xin tiếp tục gửi tàu đến bãi bốc, nhưng mọi trả lời nhận được đều bi quan và tuyệt vọng."
Kể từ 4 giờ chiều ngày 26/3, cả LĐ.147/TQLC coi như đã bị đưa ra pháp trường cát Thuận An. Trước mặt là biển Đông, sau lưng là đầm Thanh Lam, đầm Hà Trung, phía Bắc là cửa Thuận An và phá Tam Giang, Nam là cửa Tư Hiền, giữa bãi cát mênh mông không nơi che dấu thì có thể làm gì được đây?
Đã 6 giờ chiều, những người lính TQLC phải quyết định thật nhanh, Th/Tá Phạm Cang cho họp các tiểu đoàn trưởng để đi đến một quyết định: "Tiếp tục đánh và đi về phía Nam", đi về cửa Tư Hiền dù biết rằng không có cầu phao, nhưng hy vọng vào cái cầu bằng "bọt nước" tức là hy vọng vào Duyên Đoàn 13 thuộc BTL/HQ vùng I Duyên Hải còn trấn giữ ở đây. Nhưng tất cả đúng là "bọt nước", không tầu, không cầu, không bạn, hết đạn, hết lương thực, hết nước, chỉ còn súng địch thì không tử trận cũng tự sát, và bị bắt! Còn ai thoát được?
Trong một bài viết của vị Tướng Tư Lệnh Tiền Phương (TL/TP), ông đã nói rằng "đa số TQLC đã về tới Đà Nẵng". Xin thưa, chỉ duy nhất một LCM vào đón thương binh lúc 8 giờ sáng ngày 26/3, nhưng bị VC bắn nên vội rút ra! Bác Sĩ Phạm Vũ Bằng là người được lệnh ra đón thương binh đã kể lại trong bài viết "Những Người Lính Bị Bỏ Rơi" nói rõ con số, bài này đã gửi tới cựu Trung Tướng Lâm Quang Thi TL/TP, có đoạn như sau:
- "Vào lúc 2 giờ chiều ngày 26/3, thì một chiếc LCM từ từ cập bến, khi bửng tàu mở ra, tôi rất mừng vì thấy màu áo rằn ri quen thuộc, đi đầu là mấy anh em khiêng xác của 3 tử sĩ, xác họ được gói kỹ trong những chiếc poncho, một trong 3 xác này là Thiếu Tá Nguyễn Trí Nam TĐP/TĐ.4/TQLC, sau đó là Đại Tá Nguyễn Thế Lương LĐT/LĐ 147, ông bị thương ở chân, mặc dù được các quân y tá dìu xuống cầu tàu nhưng ông di chuyển rất khó khăn và đau đớn. Theo sau LĐT là bác sĩ Rậu, bác sĩ Khoa và toán y tá cùng khoảng 100 thương binh. Cuối cùng là khoảng hai trăm quân nhân thuộc các tiểu đoàn TQLC hiện đang bị kẹt lại tại bãi biển Thuận An. Tôi nhanh chóng phân loại các thương binh rồi ra lệnh mang họ lên đoàn xe tải thương để về căn cứ Non Nước."
 Trên đây là ghi lại thật tóm tắt diễn biến xảy ra trên pháp trường cát Thuận An. Còn câu hỏi của nhà văn Huy Phương rằng nếu có sự chỉ huy của giới chức "có thẩm quyền" thì tình thế có thay đổi không? Vì tế nhị ông đã không hỏi đích danh "thẩm quyền" là ai, nhưng tôi có thể khẳng định "thảm họa" Thuận An không do cấp chỉ huy TQLC. Lữ đoàn trưởng bị thương đã có người thay thế và các Tiểu Đoàn Trưởng 3, 4, 5, 7, TĐ2PB vẫn luôn sát cánh cùng thuộc cấp. Xin nghe tâm sự của Cao Xuân Huy về tiểu đoàn trưởng Đinh Long Thành của mình:
-"Làm tiểu đoàn trưởng được mấy ngày thì chạy, chết mất tiểu đoàn phó*, chết mất một đại đội trưởng*, banh luôn một đại đội, một đại đội cũng đang lênh đênh trên biển ngoài sự kiểm soát của ông.. Vậy mà ông vẫn chạy ngược chạy xuôi, cố gắng tập trung, gom góp những thằng mang bảng tên màu đỏ tiểu đoàn 4 để hướng dẫn, để  biết tin tức, để khích lệ tinh thần. Ông đã không lợi dụng tình trạng tan rã của tiểu đoàn để bỏ trốn một mình. Phải chi quân đội chỉ có tinh những cấp chỉ huy như Thiếu Tá Cang, Thiếu Tá Thành" (Tháng 3 Gẫy Súng, trg 93)
Không chỉ có tiểu đoàn trưởng, mà tiểu đoàn phó cũng thế. Phạm Cang nói về TĐP Lê Quang Liễn (có em ruột đi theo anh nhưng bị tử thương) như thế này:
- "Khi một tàu vào gần bờ để bốc thương binh tử sĩ, Th/Tá Liễn ôm xác người em trai bơi ra tàu vừa kịp lúc tàu kéo "bửng" lên nên cả hai anh em Liễn, người sống và người chết nằm gọn trong tàu. Vừa khi tàu lui ra thì Liễn nhẩy xuống biển, bơi lại vào bờ để tiếp tục chiến đấu cùng đồng đội và rồi bị bắt cùng đồng đội".
Gặp Liễn tôi hỏi động cơ nào đã khiến anh hành động như thế thì Liễn nói:
- "Không có gỉ ghê gớm lắm đâu anh, đơn giản là các tiểu đoàn trưởng Cang, Tiền, Sử, Thành còn trên bờ, lính tôi còn trên bờ, tôi phải trở lại để sống chết với anh em. Nếu bây giờ gặp hoàn cảnh như thế, tôi vẫn làm như thế".
Những cán bộ nồng cốt của LĐ.147/TQLC là như thế đó nhưng không thể làm gì hơn, họ chỉ là Bộ Binh (nói chung) không có quyền điều động tàu thủy và tàu bay. Ngay cả Đại Tá TLP cũng phải than trời:
"Kêu cứu tàu vào bốc nhưng mọi trả lời đều tuyệt vọng". (5,trg 541)
Nên nhớ rằng LĐ.147/TQLC trực thuộc quyền điều động của QĐITP, nằm ngoài thẩm quyển điều động của TL/TQLC. Khi biết LĐ.147 đang bị sa lầy, TL/TQLC đành phải ra mật lệnh cứu nguy. Đại Úy Nguyễn Quang Đan, chánh văn phòng của Thiếu TướngTL/SĐTQLC, gửi cho tôi một e-mail nguyên văn như sau:
"Thưa niên trưởng. Một buổi sáng tháng 3/75, tôi quên ngày rồi, tôi đọc lệnh hành quân từ Tướng Thi gửi xuống, tôi trình ngay lên Thiếu Tướng Tư Lệnh và xin ông đọc ngay. Đọc xong, ông nói:"đ..m..thế này thì chết lính tao rồi!". Đó là cái lệnh mà Đại Tá Trí đã ghi lại lệnh rút lui của Tướng Thi. Sau đó Thiếu Tướng Tư Lệnh đi liên lạc với Đại Tá Trí tại TTHQ/SĐ. Ngày hôm sau, tôi lấy trực thăng bay ra Thuận An đưa tận tay lá thư của Thiếu Tướng TL cho Đ/Tá Lương, kèm theo lời dặn của TT/TL/SĐTQLC:"Tìm ra quốc lộ 1 mà đi".
Nhưng tiếc thay, đã quá trễ để Đ/Tá Lương đổi hướng ra QL.1. Lệnh rút theo bờ biển và tàu vào đón là ưu điểm với điều kiện ắt có tàu và đủ điều kiện bắc cầu phao. Nếu không, lui binh theo đường bộ, dọc theo QL1 dù cho có gặp nhiều khó khăn, dẫu có gặp địch kháng cự, cũng không đến nỗi như đã bị dồn vào cửa tử Thuận An, vào thế bí như cái nhìn của Tướng TQLC và nhiều cấp chỉ huy khác nữa.
Tình thế chắc chắn khá hơn, tốt hơn nếu không muốn nói là không xẩy ra "pháp trường cát" nếu như TL/QĐITP ra lệnh được cho HQ cho tàu vào đón TQLC, lệnh cho KQ đưa máy bay lên yểm trợ hỏa lực ngăn chặn địch quân, cho trực thăng tải thương tiếp tế. Nhưng vì sao lại không có cái gì cả thì TQLC chúng tôi không biết? Chuyện gì xẩy ra giữa Tướng TL/TP với Tướng TL/SĐIKQ, với Phó Đề Đốc TLHQ Vùng I Duyên Hải và cả với Tướng TL/QĐI, đây chính là những giới chức có thẩm quyền quyết định để KHÔNG xảy ra pháp trường cát.
Trong lệnh rút quân của QĐITP cho SĐ.1BB và LĐ.147/TQLC có nhấn mạnh:
"Kế hoạch hỏa lực ngăn chặn phải được áp dụng tối đa trong khi các đơn vị rút quân".
Đây là một điểm son trong lệnh hành quân của Tướng TLTP, nhất là hành quân lui binh. Lui binh nên PB cũng lui, chỉ còn KQ và HQ là hữu hiệu nhất, mà cả 2 thành phần này chưa hề sứt mẻ. Nhưng "ou` est Robert đánh đu?" Họ đi đâu cả rồi?
Đà Nẵng có sân bay lớn, SĐIKQ có nhiều trực thăng, thẩm quyền nào điều động họ đi đâu cho đến nỗi cần trực thăng để tiếp tế đạn, nước uống, thực phẩm cho lính ở bãi cát Thuận An mà không có, Đại Úy Đan, chánh văn phòng và Tiểu Cầm, âm thoại viên của TL/TQLC đã phải dùng C&C của Tư Lệnh để tiếp tế vàì thùng lương khô xuống cho anh em. Tiểu Cần đã ghi lại trong bài "Tháng Ba Buồn Hiu":
- "Một số anh em thuộc TĐ/THD đang chất những thùng gạo sấy lên trực thăng C&C,, tôi phụ một tay để cố sắp xếp sao cho càng nhiều càng tốt, nhưng khoang tàu chỉ có sức chứa 10 thùng là tối đa. Vậy với chỉ một chiếc như thế này thì chở không được bao nhiêu, và phải bao nhiêu chuyến trong lúc hơn 3000 người đang "bụng không, bãi cát trống"?Bay dọc theo bờ biển lên hướng Bắc, khi gần đến vị trí LĐ.147 thì phi công hỏi Đại Úy Đan kế hoạch tiếp tế những thùng gạo xấy này thì anh Đan cho lệnh đáp xuống bãi cát, anh em dưới đất phụ vào để giải tỏa rất nhanh cho trực thăng cất cánh làm chuyến khác. Qua chuyến thứ hai, theo tính toán của anh Đan và phi công thì đáp và cất cánh tốn nhiều thời gian nên các anh cho trực thăng bình phi cách mặt đất chừng 10m rồi chúng tôi xô các thùng gạo sấy xuống, làm cách này rất nhanh, nhưng sau đó thì được biết một vài anh em bị thương vì thùng gạo rơi trúng người!
Cao Xuân Huy đã ghi lại trường hợp tiết tế này trong Tháng Ba Gẫy Súng:
- "Một chiếc trực thăng từ phía biển bay vào, quần trên đầu chúng tôi rồi ném chừng một chục bao cát đựng gạo xấy và thịt hộp. Một sự hỗn loạn xảy ra ...Có một bao rơi trúng đầu làm bất tỉnh một người lính .. (T3GS, trg 75)
Hải Quân thì có đủ mọi tàu lớn nhỏ và các cấp thừa hành cũng sẵn sàng hy sinh cộng khổ cùng TQLC, nhưng họ có nhận được lệnh hay không, lệnh ra có đúng lúc đúng chỗ hay không?. Đón quân trên bờ mà cho tàu lớn đậu xa bờ 200 thì đón ai? Đón các "thằng chỏng*" chăng? Trong khi nếu điều động đúng lúc, đúng chỗ, đúng loại là tàu "há mồm" thì hoàn tất kế hoạch chính xác nhanh chóng an toàn và thành công. (* thằng chỏng tức người chết trôi).
Hải Quân và Quân Vận vùng I Duyên Hải có tàu há mồm không? Th/tá Phạm Cang viết:
"Khoảng 10 sáng 25/3, trên tần số Không-Lục, tôi nhận ra tiếng người bạn cùng khóa, Thiêu tá Trần Văn Thao, anh chỉ huy đoàn tàu quân vận (5 chiếc LCM) từ Đà Nẵng ra Thuận An để đón BĐQ, nhưng không thể nào liên lạc được. Anh hỏi tôi có thấy anh em mũ nâu không, nhìn quanh tôi chỉ thấy vài anh thôi, tôi cho Thao biết. Thao nói với Cang: "tôi sẽ đưa các bạn vào Đà Nẵng, chuẩn bị và đánh dấu bãi bốc" (4 trg 487).
Đúng lúc đó thì Cang nhận lệnh di chuyển về phía Nam đề gặp Long Mỹ, tức Đại Tá Nguyến Thế Lương LĐT/LĐ.147, để vào ĐN bằng tàu 801, nên Cang cám ơn Thao, còn Thao mang 5 tàu LCM đi đâu thì không ai biết, trong khi đó thì LĐ.147 ngồi chờ mãi đến 13 giờ mới có LSM đến, lại đậu xa bờ, không cứu được ai. TĐ.7 đã mất dịp được LCM của Th/tá Thao cứu. Điều này chứng tỏ lệnh cho tàu của HQ vào đón TQLC là một mớ "bòng bong", bòng bong đến nỗi không ai hiểu nổi WWWWW?
Còn câu hỏi về hoạt động của TQLC vào những ngày cuối của cuộc chiến thì tôi xin trả lời thật vắn tắt như sau:
Lúc 7 giờ sáng ngày 29/3/75, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng cùng với Đại Tá Nguyễn Thành Trí TLP/TQLC và quân nhân các cấp bơi ra tàu HQ tại bãi biển thuộc căn cứ (sân bay) Non Nước, Đà Nẵng. Về đến Vũng Tàu thì đóng quân trong căn cứ cũ của quân đội Úc sát ngay bãi biển sau Vũng Tàu, đồng thời TL/TQLC lại kiêm Quân Trấn Trưởng Vũng Tàu, kiểm soát mọi tàu thuyền. Phải nói thẳng rằng không có một đơn vị nào lại có điều kiện thuận lợi để "ra đi" như TQLC, nếu muốn.
Nhưng, trong khi giới chức cao cấp tại Saigon nhao nhao tìm trốn thì TQLC lại tiếp tục lên đường chiến đấu, đánh từ Long Khánh, Long Thành, Long Bình và cứ điểm tử thủ cuối cùng là Căn Cứ Sóng Thần Thủ Đức và rồi  phải gẫy súng theo lệnh TT! Và rồi từ Tư Lệnh Phó, các Lữ Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, Trưởng Phòng, CHT/TTHL, các Đại Đội Trưởng đều vào tù. Các Tr/Tá Nguyễn Văn Nhiều, Nguyễn Đằng Tống, Huỳnh Văn Lượm, Th/tá Trần Văn Hợp v.v.. đã "tử nạn" trong tù.
Thưa quý độïc giả,
Cực chẳng đã tôi mới phải cố gắng ghi lại ngắn gọn diễn tiến biến cố "Thuận An" để trả lời cho những vị có chồng, con, anh, em, "mất tích" tại đây vào những ngày cuối tháng 3/75. Mỗi lần nghĩ đến là đầu tôi bốc khói, nếu không kiềm chế để viết thì tôi dễ xúc phạm đến các thượng cấp có trách nhiệm về mạng sống của những nấm mồ như nấm mồ 132 bộ xương mà đồng bào thôn An Dương, Thuận An đã cải táng và vào thời điểm này (tháng 1/2011) các ân nhân ấy đang chuẩn bị lập Trai Đàn Chẩn Tế.
Dẫu biết rằng "thời thế thế thời phải thế", không xoay đổi được vận nước, nhưng nếu như quý thượng cấp có trách nhiệm điều quân khiển tướng làm việc như những người lính chúng tôi, cùng lính chúng tôi chiến đấu, dẫu có thua, thì đâu xẩy ra những nấm mồ tập thể 132 bộ xương và còn bao nhiêu nữa đang nằm trong cát, dưới đáy biển Thuận An và khắp mọi miền đất nước!
Thưa quý vị có thân nhân nằm lại Thuận An cũng như tôi có anh em nằm lại đó mà chưa tìm ra tung tích thì hãy hãnh diện thay vì thương tiếc. Anh em họ sống chiến đấu bên nhau thì khi chết cũng nằm bên nhau, chung một nấm mồ tập thể ngay tại nơi họ đã chiến đấu, chắc những anh linh đó cũng chẳng muốn xa lìa đồng đội để về nằm riêng lẻ một mình. Xin nhớ đến các anh linh đã hy sinh cho chúng ta được sống, một lời cầu nguyện chung.
Nếu ai còn nhớ đến các anh linh tử sĩ thì hãy nhớ đến họ bằng câu kinh tiếng kệ, cây nhang, bó hoa, tùy lòng đóng góp cho Trai Đàn Chẩn Tế. (TQLCVN tạm thời đã đóng góp 2 ngàn mỹ kim đến ban tổ chức Trai Đàn Chẩn Tế Những Anh Hùng Tử Sĩ VNCH) Hãy tin tưởng rằng không ai trong chúng ta, con dân VNCH, dám tìm danh lợi trên xác chết. Các anh sống khôn khi cầm súng chiến đấu thì thác cũng thiêng. Xin các anh phù hộ cho những người có tấm lòng, dù ở hải ngoại hay tại thôn An Dương, Thuận An, Huế.
Captovan