17/12/11

HỒI KÝ CỦA MỘT NGƯỜI HÀ NỘI


(Với bút hiệu tựdo (chữ thường, viết liền) ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài "Người tìm tự do và tượng thần tự do" đã được bình chọn trúng giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng ỹ. Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại Worcester, Massachusetts. Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.)


Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.

Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi :

- Bác ở Hànội mà cũng đi tị nạn à...?

Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười:
- Cái cột đèn mà biết đi , nó cũng đi, ...nữa là bác!

Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu "vượt tuyến" vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần "vượt biển", vẫn không thoát. Chịu đủ các "nạn" của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không "tị nạn", mà đi tìm Tự Do, trở thành "thuyền nhân ", đến nước Mỹ năm 1982.

Sinh trưởng tại Hànội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt. Thời gian rồi cũng hiểu nhau.

Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hànội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hànội di cư.

Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hànội, thời người Cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.

Hiệp định Geneve chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hànội đã "di cư" vào miền Nam, bỏ lại Hànội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là ...Vẹm!

Khi họ "tiếp quản" Hànội, tôi đang ở Hải phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ "tầu há mồm" để di cư. Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneve ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ "Tổng tuyển cử " thống nhất. Ai ngờ Cộng sản miền Bắc "tổng tấn công" miền Nam!

Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hànội học.

Chuyến xe lửa Hànội "tăng bo" tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét , phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hànội là con buôn, mang "xăng" về bán. Những toa tầu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa, liều lĩnh , hỗn loạn ...

Tới cầu Long Biên tức là vào Hànội. Tầu lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi: "Đề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng..!". Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu , để rồi phải "học tập" suốt 20 năm, "ngoại ngữ cộng sản": đấu tranh, cảnh giác, căm thù và ...tiêu diệt giai cấp! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép).

Hànội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hànội e dè nghe ngóng từng "chính sách "mới ban hành. "Cán bộ" và "bộ đội" chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là "mũ bộ đội", sau này có tên là "nón cối". Hànội "xuất hiện" đôi dép "Bình Trị Thiên", người Bắc gọi là "dép lốp", ghi vào lịch sử thành "dép râu". Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hànội được coi là "biểu hiện" của "tư sản, phong kiến", biến mất trong mười mấy năm sau, vì "triệt để cách mạng". Lần đầu tiên , "toàn thể chị em phụ nữ" đều mặc giống nhau : áo "sơ mi", quần đen. Hãn hữu , như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì "cả nước" không có xà phòng.

Chơi vơi trong Hànội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng , Tú tài 2, cùng một số "lớp Chín hậu phương", năm sau sẽ sát nhập thành "hệ mười năm". Số học sinh "lớp Chín" này vào lớp không phải để học, mà là "tổ chức Hiệu đoàn", nhận "chỉ thị của Thành đoàn" rồi "phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!". Họ truy lùng...đốt sách ! Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn "kiểm tra", lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang "tập trung" tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm "phấn khởi", lời hô khẩu hiệu "quyết tâm", và "phát biểu của bí thư Thành đoàn": tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là ..."cực kỳ phản động!". Vào lớp học với những "phê bình, kiểm thảo...cảnh giác, lập trường", tôi đành bỏ học. Chiếc radio Philip, "tự nguyện " mang ra "đồn công an" , thế là hết, gia tài của tôi!

Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì "thành phần giai cấp", "sổ hộ khẩu", "tem, phiếu thực phẩm" , "lao động nghĩa vụ hàng tháng". Đây là chính sách dồn ép thanh niên Hànội đi "lao động công trường", miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hànôi được 2 năm là bị "cắt hộ khẩu", ...đi tù!

Tết đầu tiên sau "tiếp quản", còn được gọi là" sau hòa bình lập lại", Hànội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ , áo quần nhầu nát, xám xịt, thái độ "ít cởi mở", từ "nông thôn" kéo về chiếm nhà người Hànội di cư. Người Hànội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và "chỉ thị": ăn Tết "đơn giản, tiết kiệm". Hàng hóa hiếm dần, "hàng nội" thay cho "hàng ngoại".

Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hànội. Đoàn Chuẩn nhớ thương hát "Gửi người em gái miền Nam", để rồi bị đấu tố là tư sản, rạp xinê Đại Đồng phố Hàng Cót bị "tịch thu". Hoàng Giác ca bài "Bóng ngày qua", thành "tề ngụy", hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống "tiêu cực" hết đời trong đói nghèo, khốn khổ. Danh ca Minh Đỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, "phân tán", chẳng ai còn gặp nhau, sợ thành "phản động tụ tập".

"Chỉ thị Đảng và Ủy ban Thành" "phổ biến rộng rãi trong quần chúng" là diệt chó. "Toàn dân diệt chó", từ thành thị đến "nông thôn". Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố "liên hoan tập thể". Lý do giết chó , nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là "chủ trương" , chuẩn bị cho đấu tố "cải tạo tư sản" và "cải cách ruộng đất". Du kích , công an rình mò, "theo dõi", "nắm vững tình hình" không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.

Hànội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải "cung cấp" một năm theo "từng người trong hộ". Mẹ may thêm chiếc quần "đi lao động " thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là "tư sản bóc lột"? nhẹ hơn là "tiểu tư sản", vẫn là "đối tượng của cách mạng".

Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là "địa chủ cường hào"! Giáo sư Trương văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu "học tập", đã nhẩy lầu, tự tử.

"Tư sản Hànội" di cư hết, chẳng còn bao nhiêu nên "công tác cải tạo được làm "gọn nhẹ" và "thành công vượt mức", nghĩa là mang bắn một, hai người "điển hình", coi là "bọn đầu xỏ" "đầu cơ tích trữ", còn thì "kiểm kê", đánh "thuế hàng hóa", "truy thu", rồi "tịch thu" vì "ngoan cố, chống lại cách mạng!".

Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của "đội cải cách" về làng, "bắt rễ" "bần cố nông", "chuẩn bị thật tốt", nghĩa là bắt học thuộc lòng "từng điểm" : tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, "điển hình" thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu ...! Một vài vụ, do "Đảng lãnh đạo", "vận động tốt", con gái, con dâu địa chủ, "thoát ly giai cấp", "tích cực" "tố cáo tội ác" của cha mẹ . Cảnh tượng này thật não nùng ! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm : "Trung với Đảng, hiếu với dân ..." là vậy!

"Bần cố nông" cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì "vào hợp tác", "làm ăn tập thể", ruộng đất lại thu hồi về "cộng sản" .

"Toàn miền Bắc" biết được điều "cơ bản" về Xã hội chủ nghĩa là... nói dối! Mọi người, mọi nhà "thi đua nói dối", nói những gì Đảng nói. Nói dối để sống còn, tránh "đàn áp", lâu rồi thành "nếp sống", cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được "rèn luyện" trong xã hội ngục tù, lấy "công an" làm "nòng cốt" chế độ.

Ở Mỹ, ai hỏi bạn: "How are you?", bạn trả lời: "I'm fine, thank you". Ở miền Bắc, thời đại Hồ chí Minh, "cán bộ" hỏi: "công tác" thế nào?, dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời: "...rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng... các nước anh em!"

Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị giong về Lệ Thủy bởi "bộ đội biên phòng", được "tự do" ở trong nhà chị "du kích" hai ngày, đợi đò về Đồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hànội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp , xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to "Chế độ ta tươi đẹp".

Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù "biến chất", người tứ chiến kéo về, nhận là người Hànội, đói rét triền miên nên cũng "biến chất"! Đối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, "tiếp xúc" với nhau phải "luôn luôn cảnh giác". Hànội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hànội suy xụp tinh thần vì danh từ "đồng chí"!

Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán "tình hình" Ánh diện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, "liên lạc" được với Thụy An ở xà lim phía trước.

Thụy An là người Hànội ở lại, "tham gia hoạt động " Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hànội. Bà đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: "Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!"

Người du lịch Việt Nam , ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo "định mức chỉ tiêu". Rừng núi bao la, tiếng chim "bắt cô trói cột", nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.

Phố Hàng Đào Hànội, vốn là "con đường tư sản", có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarreaut. Học trường Tây thì phải chịu sự "căm thù đế quốc" của Đảng, "đế quốc Pháp" trước kia và "đế quốc Mỹ" sau này. Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Đào "bất mãn" trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không "nhà thương" mà vẫn không chết.

Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hànội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Đoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì "lãng mạn". Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì "tiểu tư sản" , không "tiến bộ" , không có ngày về...! Ba tháng "kỷ luật", Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ sĩ !

Người già Hànội chết dần, thế hệ thứ hai, "xung phong", "tình nguyện" hoặc bị "tập trung" xa rời Hànội. Bộ công an "quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động", nên chỉ còn người Hànội từ "kháng chiến" về, "nhất trí tán thành" những gì Đảng ...nói dối !

Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch "bôi đen chế độ", "âm mưu lật đổ chính quyền", trở thành người "Hànội di cư", 10 năm về Hànội đôi lần, khó khăn vì "trình báo hộ khẩu", "tạm trú tạm vắng". "Kinh nghiệm bản thân" , "phấn đấu vượt qua bao khó khăn , gian khổ", số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải phòng, vùng biển.

Hải phòng là cơ hội "ngàn năm một thuở" cho người Hànội "vượt biên" khi chính quyền Hànội chống Tầu , xua đuổi "người Hoa" ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận "thuyền nhân" tị nạn.

Năm 1980, tôi vào Sàigòn, thành phố đã mất tên sau "ngày giải phóng miền Nam". Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn "di chuyển" trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hànội đã đổi thay sau 1954 vì "cán ngố" cai trị.

Miền Nam "vượt biển" ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sàigòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh , anh Ngọc, đường Trần quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Đường ra biển tính theo "cây", bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn "nón cối" "ngụy trang" của tôi, mỉm cười:
- Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!

- Hànội, trí thức thời Tây, chứ bộ...!. Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!

Về lại Hảiphòng với "giấy giới thiệu" của "Sở giao thông" do "móc ngoặc" với "cán bộ miền Nam" ở Saigòn, tôi đã tìm ra "biện pháp tốt nhất" là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Đã đến lúc câu truyền tụng "Nếu cái cột điện mà biết đi....", dân Bắc "thấm nhuần" nên "nỗ lực" vượt biên.

Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút "ngoại ngữ " năm xưa.

Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến "mức độ" khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang "đầu đường xó chợ" thì mới đủ "tiêu chuẩn" "xuống thành phần", lý lịch có thể ghi là "dân nghèo thành thị", nhưng vẫn không bao giờ được vào "công nhân biên chế nhà nước". Tôi mang nhẫn nhục, "kiên trì" sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên "đạt kết quả vô cùng tốt đẹp", "đạt được nguyện vọng" hằng ước mơ!

Có người "kêu ca" về "chế độ tư bản" Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin "thông cảm" với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ "phúc lợi xã hội", còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng sản. 

QUA NHỮNG TRẠI TÙ CỘNG SẢN ...


CAO HOÀI SƠN

Mười hai giờ trưa ngày 30/4/75 . Tổng thống VNCH Dương văn Minh đọc trên Ðài phát thanh Sài gòn, ra lệnh cho Quân Lực VNCH buông súng , chờ giao chính quyền cho Cộng Sản . Như cơn sét đánh bên tai, tôi bàng hoàng trong giây lát . Miền Nam mến yêu đâu còn nữa, qua bao năm chiến đấu tốn không ít máu xương, giờ phải chịu buông súng đầu hàng

Tôi chào từ biệt vị Tiểu đoàn trưởng TD/229/ÐP Nguyễn hữu Tiến và anh em trong đơn vị , tìm đường trở về quê Chợ Lầu , Phan rí thăm mẹ già và vợ cùng hai con .Tôi băn khoăn mãi không biết nên đi bằng đường bộ hay bằng ghe và khi về thì phải trình diện ở đâu . Chợ Lầu tuy là quê tôi nhưng mà tôi đã gây ân oán giang hồ với VC nằm vùng rất nhiều, vì khi còn ở DD118/ÐPQ . Tôi đã chỉ huy binh sĩ làm cỏ bọn du kích nằm vùng nhiều quá , có thể chưa kịp nhìn thấy Vợ con thì đã bị trả thù cũng có . Tôi cũng vừa nhận được tin ba tôi đã tự tử chết tại nhà, mãi đến ba ngày sau ông ngoại tôi lên xã xin đem chôn mới được” Cách mạng”đồng ý .

Ngày 17/4/75 sau khi Bắc Bình Thuận bỏ ngỏ . VC từ trong rừng tràn về chiếm chánh quyền , Ba tôi không chịu trình diện tại Xã để chúng sai khiến . Tối đó ông quyết định uống độc dược quyên sinh . Trước khi chết ông dùng Sơn viết lên tường nhà hàng chữ để lại cho các con .” Ba thà làm phân xanh cho cây cỏ còn hơn sống chung với Cộng Sản .”

Chúng kết tội ông là CIA phản động . Với chức vụ nhỏ nhoi là phụ tá cho Chi Chiêu Hồi Hòa Ða , Chính quyền vừa cướp được lấy làm tức tối , vì có một tên cực kỳ phản động dám công khai dùng cái chết để phỉ nhổ vào mặt chúng .

Thế là cả bọn kéo đến đầy nhà , lục soát lấy đi những gì mà không thuộc về chúng , như một lũ kên kên cướp cạn , chỉ thiếu một điều là không ăn xác chết . Và tôi cũng nhận được tin Th/sĩ Nguyễn Thìn Cảnh sát Ðặc biệt Chi Khu Phan lý Chàm bị chúng bắt trói đem vào rừng giết man rợ còn hơn thời Trung Cổ .

Cuối cùng tôi quyết định dùng ghe từ Long Hải để về Phan rí Cửa và trình diện tại đây , dầu sao cũng đỡ hơn tại Chợ lầu, nơi cạm bẫy đang rình rập tôi, muốn một lần nhìn lại người thân rồi thì thân xác này có bị ra sao thì mặc . Tôi biết Việt cộng sẽ trả thù lên thân xác,và gia đình những chiến sĩ QLVNCH, trong đó có tôi .

Sáng sớm ngày 3/5/75 tôi đã về đến nhà bình yên . Tôi đi trình diện ngay theo lời khuyên của gia đình ở Thôn Song Thanh ,nằm trong Trường Tiểu học Thanh Lộc .Những lời chửi bới của tên Kỷ Thôn trưởng mà sau mấy mươi năm còn văng vẳng bên tai, trước đây hắn là cơ sở nằm vùng vừa mới ngoi lên mấy ngày nay . Chúng để tôi yên ổn cho đến sáng ngày 5/5/75 thì cho một du kích nguyên trước đây là Nhân dân tự vệ dưới quyền chỉ huy của tôi đến thông báo là trưa nay trình diện tại Thôn lúc 1 giờ để đi học tập .

Tôi không có nghe bảo đem cơm gạo, chỉ nhận lệnh tập trung . Vì nghĩ là đi học tâp nên cần gì phải đem đồ nhiều , cần gì thì sau này người nhà sẽ mang cho, từ giả vợ con tôi lên đường nhưng thực tâm biết rõ là khó có ngày về . Hơn 12 giờ trưa tôi đã có mặt tại thôn với một ít hành trang . Tên thôn Trưởng sai du kích đem nhốt tôi vào trong một lớp học, ánh sáng lờ mờ qua khe cửa . Một lúc sau thì có mặt đầy đủ khoảng mười người .

Ðiểm danh sơ qua tôi thấy có Ấp Trưởng Song thanh là Nhu , Tr/úy Tăng văn Ðồng Tr/Ban 5 Chi Khu Hòa Ða , Th/úy Trần văn Xuân Trưởng ban NDTV /H Ð , Tôi Cao hoài Sơn DDT/DD4/TD/229/ÐP, số cón lại là nhân viên Xã ấp và Cảnh Sát viên .

Trong lúc chờ đợi xe đến chở đi , Tôi được người thân báo cho biết qua khe cửa sổ, có một nhóm định đánh chúng tôi khi trên đường ra xe . Khi tên Thôn trưởng có mặt tôi liền phản đối thì được hắn trả lời là Nhân dân phẫn nộ không can thiệp được . Thì ra chính bọn này mang danh nhân dân để tổ chức đánh chúng tôi . Thật quá ư là hèn hạ , chỉ có chế độ cộng sản ưu việt mới sản sinh ra giống người này , chuyên môn đánh người ngã ngựa .

Lúc này dân chúng đến xem chật cả sân trường , chỉ chừa một lối đi nhỏ . Nhìn ra không phân biệt được bạn thù , trong số này cũng có rất đông thân nhân đang ra sức ngầm bảo vệ cho chúng tôi lên đường .

Xe đã đến nhưng chúng tôi không ai chịu đi cả , cuối cùng Trưởng Ấp Nhu thí mạng già đi đầu , đám đông chỉ chen lấn . Tôi có ngay quyết định là phải chạy thật nhanh ra xe . Vừa được nửa đường thì vòng vây khép lại , bất chợt một tên chen vào đấm vào mặt tôi ,với giỏ xách trên tay ,tôi phản ứng nhanh bằng cách quất mạnh vào mặt nó thật mạnh . Một tên khác giơ cao cái mõ lếch loại lớn nhắm đầu tôi đánh xuống .Không còn cách nào khác đành ném cái túi xách giơ hai tay bảo vệ cái đầu . Nhát đánh thật mạnh ,làm bầm cả tay và trượt xuống trúng đầu sưng một cục lớn .

May mắn cho tôi, người nhà can thiệp kip thời bảo vệ lên xe . Nhìn xuống bên dưới một cảnh hỗn loạn xảy ra , hai anh Xuân và Ðồng bị tràn ngâp trong đám đông , kẻ đánh người đạp đến chừng lên được xe thì máu me đầy mình , đấy là nhờ có thân nhân bảo vệ không thi có lẽ khó mà toàn mạng .

Lúc này bên dưới có hai phe đánh nhau kịch liệt,một bên gồm thân nhân chúng tôi ra sức bảo vệ, bên còn lại cố đánh chúng tôi cho bằng được theo lệnh . Bọn du kích phải bắn chỉ thiên loạn xạ để giải tán . Ngày ra đi như vậy, tôi hình dung ra một ngày về thật ảm đam.

Nhưng mà còn đỡ hơn mấy anh em ở Chợ lầu . Ngày ra đi bị một nhóm lão già có con bị phơi xác cho Bác và Ðảng quang vinh chận xe lại leo lên xe dùng gậy đánh vào đầu từng anh một,cho đến khi mệt lừ mới thôi . Ðây mới thât sự là nhân dân phân nộ .

VC đã trưng dụng các xe chở hàng để chở chúng tôi . Xe của các Thôn Giang hải , Hải tân , Phú ninh, Phú hải đà tập trung về đầy đủ trước Thôn Song Thanh . Bọn Du kích 30/4 hăm hở, đạn lên nòng áp giải chúng tôi lên đường . Tôi còn nhớ nét mặt tên Thôn trưởng Song Thanh, tên KỶ đã hân hoan đưa tiễn chúng tôi đi như vừa lập được chiến công hiển hách .



LAO XÁ PHAN THIẾT

Ðoàn xe đi về hướng Phan Thiết và dừng lại trước Lao Xá . Chúng tôi bi lùa vào tập trung ở sân lớn để điểm danh và học nội quy . lúc này, tôi thấy có đầy đủ các Sĩ quan,Cảnh sát, Xã,Ấp trưởng và hầu hết các Trung đội trưởng nghĩa quân . Tôi chợt thấy Trúc viên Trương gia Kỳ Sanh , cựu Dân biểu VNCH , người đã thiên về VC chống lại chính quyền miền nam , đã từng đâm sau lưng chiến sĩ . Người đã dày công tranh đấu chống lại chính quyền Miền nam qua chiêu bài đối lập cuội, làm lợi cho chế độ bạo tàn, đang ngồi bó gối trước một phòng nhỏ gần sân tập trung . Ðó là ân huệ duy nhất mà đảng đã ban phát , ông ta khỏi phải bi nhốt chung trong những dãy nhà tập thể chật chội . Không biết lúc đó và sau này tới khi qua đời, ông ta nghĩ gì và có thấm thía cho cuộc đời lầm lạc đã qua không ?

Dãy nhà trước đây thời VNCH chỉ nhốt 50 người , nay thì chứa hơn 120 người , nên vô cùng chật chội và nóng . Hàng ngày chúng tôi chỉ mặc độc nhất cái quần đùi , khi nào ra sân ăn cơm mới mặc đồ vào . Ngày được Cách mạng cho ăn 3 lần , mỗi lần một chén cơm với muối hột . Buổi chiều được cho ra sân tắm ở giếng nước .

Tôi thấy có mặt Th/tá Thổ Thêm người hùng Bình Thuận , Trung tá Diệp Sắn Cảnh Quận/CKT/ Hải Ninh và hầu hết những Sĩ Quan trình diện ở Bình thuận . Tôi nghe anh em nói Ð/u Lê văn Trò Ðại Ðội trưởng Trinh Sát Tỉnh bị bắt đem lên Tân Ðiền, khi anh vừa mới từ Sài gòn trở về . Sau khi đọc bản án trước cái gọi là tòa án nhân dân , anh bi đem đặt lên vĩ sắt nướng cho chết. Sau đó thi thể lại bị VC đâm nát bấy và dìm xuống ruộng, mấy ngày sau nhờ các em chăn trâu phát giác, thân nhân mới xin đem về chon. Không biết có phải anh đã chết thảm khốc như vậy không ? Nếu sự thật như vậy thì không còn gì để nói .



TRẠI TÙ CÀ TÓT

Ngày 10/5/75 chúng tôi được tập trung tại sân lao xá ,phân chia thành hai nhóm Ngụy quyền và Ngụy quân . Không biết tại sao anh Tăng văn Ðồng lại được sắp xếp vào nhóm Ngụy quyền mặc dù anh là TR/úy Trưởng ban 5 CK/Hòa Ða . Chỉ it ngày sau anh chết tại Cà Lon vì vết thương của trận đòn thù khi đưa tiển lên đường và bệnh sốt rét .

Ðoàn xe chở chúng tôi gồm 105 người rẽ vào Tỉnh lộ 8 hướng về Ma Lâm Thiện Giáo . Ra khỏi Ma Lâm đi theo Tỉnh lộ 8 về hướng tây chừng chục cây số . Xe rẽ trái vào con đường sỏi đá . Ðường càng đi độ dốc càng cao, phía trước mặt là núi thấp , rừng lim . Con Sông Quao hay sông Cái phát nguyên từ Di linh nằm bên phải đường, tới đây dòng sông bi mất hút vì rặng núi Bà che khuất . Vùng này là rừng già đầy tre nứa , và cây lớn . Bao trùm luôn cả Quận Tánh Linh, Hoài Ðức của Tỉnh Bình Tuy .Vùng này có nhiều mật khu VC , nhờ ẩn nấp kín đáo trong rừng tre bạt ngàn , che kín những con đường mòn chằng chịt chạy dọc theo con sông La Ngà lên tới đèo Chuối trên QL20 tại Quận Ðịnh Quán (Long Khánh )

Có tiếng thì thào chuyền cho nhau nghe CÀ TÓT . Ðoàn xe GMC chở chúng tôi dừng lại ở một lán trống , tất cả xuống xe chuẩn bị đi bộ . Ðoàn người đi hàng một trong im lặng . Súng AK của du kích áp tải chỉa lăm lăm vào đoàn người . Tội nghiệp cho TR/úy SÉT là thương phế binh bị mất một chân quá gối phải đi chân giả , một mắt đui , mắt còn lại chỉ thấy lờ mờ , làm sao anh có thể đi theo kịp đoàn người . Vì vậy anh bị chửi bới thậm tệ và chúng hăm bắn bỏ . Anh Sét trước đây đã từng là một Ðại Ðội Trưởng oai hùng . Năm 1969 anh là DDT/DD/118/ÐPQ đóng quân tại xóm Châu hanh bên kia Sông lũy , bên này là Bò phèn .

VC đã đem Trung đoàn 820/ÐP ,quyết san bằng đại đội này với một đoàn XDNT đang công tác tại đây . Trực thăng võ trang đã đến chi viện kịp thời , và Pháo binh của Mỹ tại Lương Sơn đã bẻ gãy cuộc tấn công của địch . Theo tin tình báo lúc đó cho biết địch chết 80 tên và tên chỉ huy trận đánh bị cách chức . Có lẽ mối hận chưa nguôi , nên giờ này mặc dù anh đã bị tàn phế vẫn còn bị hành hạ . Một tên du kích đi sau với anh .

Trong đoàn có một Tr/Sĩ tên On người Phan rí thành ( Hòa đa ) Không biết vì có thù oán gì với các quan chức Cách mạng địa phương mà được các ngài phong lên TR/úy nên cũng bị bắt theo chúng tôi lên đây, sau này anh bị bệnh gần chết .Mãi hơn 10 giờ đêm đoàn người mới tới được trại . Qua ánh đèn dầu leo lét chúng tôi chả thấy được gì . Chúng tôi được tập trung ngoài sân để nghe thủ trưởng lên lớp .

Thủ trưởng ở đây tên Hoa , người Ðức Nghĩa Phan Thiết , Tươm tất trong bộ quân phục với nón cối dép râu , khẩu K54 đeo ngang hông và mang quân hàm Thiếu tá. Một lần nữa, Thủ trưởng Hoa chửi bới chúng tôi không còn lời lẽ gì để nói . Những danh từ xấu xa nhất được gán ghép cho đám tù binh VNCH . Nào là ôm chân đế quốc, ăn bơ thừa sữa cặn, Lũ giết người không gớm tay ..... Sao không chạy theo chủ MỸ lại quay về đây . Cá đã nằm trên thớt biết làm sao đây, giờ chúng tôi thấy hối hận vì tin lời Cộng sản ra trình diện .

Sau khi đọc danh sách 105 ngụy quân chúng tôi , hắn chợt bắt gặp tên Thổ Thêm . Ngó thẳng vào hàng quân quát lớn “ Anh nào là Thổ Thêm bước ra khỏi hàng “, trong đầu tôi nghĩ nhanh chắc là tụi nó thanh toán ông Thêm ngay tại đây để trả thù đây .

Từ trong hàng Th/tá Thổ Thêm nói “ có “ và bước ra khỏi hàng, hắn dùng đèn Pin rọi từ đầu đến chân để coi thật kỹ con người đã đi vào huyền thoại này . Hắn không tìm ra được một chút nào bơ thừa sữa cặn , ôm chân đế quốc ,trên thân thể gầy guộc của ông mà hắn vừa chửi khi lên lớp . Không nói tiếng nào , hắn phất tay cho ông Thêm về hàng.

Cũng nên nói thêm về ông . Th/tá Thổ Thêm đã giãi ngũ gần hai năm . Những ngày tháng 4/75 . ông về sống tại Xã Hậu Quách . Ngày 17/4 sau khi làm chủ Bắc Bình Thuận . Chúng lo thanh toán ân oán giang hồ với những người cho là Ác ôn của chế độ cũ . Ông bị giam vào lao xá từ đó đến nay , đói khát triền miên , nên con người vốn ốm o lại càng hóc hác .

Từ khi là Ðại đội trưởng DD/888/ÐPQ và là Tiểu đoàn Trưởng TD/230/ÐP hoạt động tại Thiện Giáo . Ông là một thiên tài về quân sự . Từ cấp nhỏ nhất lên cấp Th/tá , ông đã trãi qua bao trận đánh kinh hồn . Chỉ có thắng chứ chưa hề chiến bại . Ông có 2 Bảo quốc Huân chương và hơn 80 Huy chương đủ loại . Cộng quân nghe đến đơn vị ông là chỉ có đường chạy . Mật khu Tam Giác Sắt và Cà Tót này, đơn vị ông chi huy đã giẫm nát nhiều lần , gây cho địch không biết bao nhiêu thương vong . Nếu không phải là người Chàm chắc ông đã bị tử hình .

Tối hôm đó , chúng tôi nằm ngủ ngay trên nền đất ẩm ướt . Muỗi rừng như trấu vãi tấn công chúng tôi không thương tiếc. Sáng hôm sau ,khi mặt trời vừa hừng sáng, chúng tôi thấy lố nhố ở 3 dãy nhà hình chữ U giữa là một sân rộng . Có khoảng trên 4000 ngàn người ăn bận lôi thôi lếch thếch , nhiều người phải chống gậy mới đi nổi . Cách đó 40m là con suối lớn ,hàng ngày tù binh tắm giặt ở đây .

Ðược biết Tỉnh ủy Bình Thuận của VC đặt tại đây , trong 3 túp lều núp dưới tàn cây lớn để trốn máy bay của ta . BCH chỉ le que vài mạng , Không đủ người canh đám tù , nên môt trung đội du kích thành lập hồi 30/4 được điều lên đây canh giữ . Trung đội này mấy ngày đầu thì hùng hổ , chửi bới chúng tôi không tiếc lời , qua chừng 20 ngày không còn thằng nào đủ sức lếch đi vì bị bệnh sốt rét .

Nhìn xung quanh rừng núi âm u , không gian vắng lặng một cách đáng sợ . bốn bề là núi cao, trại nằm trong một thung lũng chết.Ðây là nơi tử địa chứ nào phải nơi học tập lao động như lời chúng nói ở Lao xá .Thì ra dã tâm của bọn VC là muốn giết toàn bộ chúng tôi nhưng sợ thế giới lên án là bọn đồ tể , giống như tụi khờ me đỏ . Nên đem lên đây mượn tay Sốt rét rừng , cùng bỏ đói khát cho chết lần mòn để trả thù rửa hận .

Chừng 8 giờ sáng , Chúng lục soát tịch thu tất cả mền mùng võng . Tóm lại những gì có liên quan tới quân đội là bi tich thu . Chúng thấy cái mền Poncho light là chộp ngay làm của riêng , không nghĩ những người tù họ đắp bằng gì giữa trời lạnh giá của núi rừng nghiệt ngã ...Thực phẩm , thuốc men ít ỏi mang theo cũng bị vét sạch . Giày dép bình đựng nước tập trung lại một đống lớn , khi nào đi lao động mới cho mang .Chỗ ở thì sơ sài lợp bằng cỏ tranh . Giường nằm là những thanh tre được bện lại bằng dây mấu . Dưới chân giường là hàng cùm bằng gỗ như thời trung cổ . Ba dãy nhà hoàn toàn không có vách che , mặc cho gió rừng lạnh buốt xuyên qua .

Những đêm mưa Bão bùng . Gió đập phành phạch như muốn thổi tung mái lá . Cây rừng ngã đổ , may mà không đè lên mái . Gió lạnh buốt thổi từng cơn qua những hình hài tàn tạ , đang co ro trong những chiếc mền mỏng còn sót lại .Bửa ăn thì toàn khoai mì với ít gạo ẩm mốc . Ðọt khoai mì , măng rừng nấu với muối hột là món ăn chính . Không ai có thể sông quá 3 tháng nếu bị ngã bệnh rét rừng . Nơi đây thật sự là địa ngục trần gian .

Ngay ngày hôm đó gần như toàn bộ Hạ sĩ quan , Binh sĩ , Nghĩa quân , Cảnh sát , Nhân viên Xã âp.... Bi bắt khi di chuyển từ Lâm Ðồng về Phan thiết vào đầu tháng 4/75 , Cùng cán bộ hành chánh của Bình thuận cấp thấp được thả về . Bị bắt chưa đến một tháng mà hình hài quá đỗi tang thương, anh em dìu nhau đi giũa rừng núi âm u mà lòng buốt giá. Ôi thê thảm xiết bao, mạng người đâu phải cầm thú , hởi những tên dã man không tánh người mang danh cách mạng .

Trong ngày 11/5/75 tại Cà Tót chỉ còn lại khoản 1000 người . Cấp bậc cao nhất là Thiếu tá, Chỗ ở trở nên rộng rãi , Những người bị bắt trước đã bắt đầu ngã bệnh nằm la liệt , không thuốc men gì cả . Ðến cuối tháng toán 105 người chúng tôi lên từ Lao xá đã có người bị bệnh sốt rét .

Ngày nào cũng có người chết ,Tôi không biết tên vì là từ các đơn vị khác từ Lâm đồng chạy về theo Tỉnh lộ 8. May mắn cho chúng tôi là vợ đã tìm được đường lên thăm . Thật là vất vả gian nan cho các chị . Qua 2 ngày lội suối băng rừng , tối đến các chị phải leo lên cây ngủ vì sợ cop.

Cuối cùng nhờ sự chỉ đường của các người Thượng , các chị mới tìm được đến nơi . Lúc đãu tên Trại trưởng không đồng ý cho gặp chồng . cuối cùng chúng tôi được gặp các Bà vợ vào lúc hoàng hôn và chỉ một tiếng đồng hồ . Chúng tôi nhận được một số thuốc trị sốt rét cùng thực phẩm , áo quần .. Nhất là gặp lại người vợ mà chỉ tưởng thấy trong mơ . Qua hai đêm ở rừng Cà Tót , mười một chị lên thăm chồng trở về tất cả đều ngã bệnh sốt rét nhưng may mắn không ai chết . Chỉ có chị vợ của Anh Xã Ngọc ở Phan rí Cửa lên thăm anh ở Cà lon về bị bệnh chết

Ngày 19/6/75, chúng chọn ngày Quân lực của VNCH, toàn bộ Sĩ quan còn sót lại , Kể cả giáo chức biệt phái , được VC gọi là Giáo gian . Tất cả bị hốt hết lên đây , không ít anh em có cha chú nằm vùng có ám số, là Liệt sĩ, và con em gia đình có công với cách mạng . Trong số này có nhà văn Quân đội Hải triều (Lê Văn Hai) . Ðây là một cố tình bôi nhục ngày quân lực của ta .

Lúc này số người tăng lên hơn 3000 người , Trong số này có hơn 10 vị Bác Sĩ Quân y tài ba nhưng cũng đành bó tay vì không có thuốc .Chúng tôi được phân thành Tổ Ðội . TH/tá Ðỗ phương Gia đại diện trại viên để nhận lệnh từ BCH trại . Ð/úy Lâm Sĩ quan trợ y của CK/Thiện giáo coi về y tế . Th/úy Trần văn Xuân nhận trưởng bếp lo việc ăn uống cho toàn trại . Tôi và sáu anh em khác được phân công vào toán đào khoai mì, sắn măng, hái rau rừng cho toàn trại . Còn lại làm các công việc linh tinh như làm cỏ hai đám bắp, chặt tre , gỗ tu sửa lán trại, ngoài ra không có việc gì để làm .Ngoài việc làm bản khai Lý lịch , phải khai ba đời và tội ác đã gây ra với nhân dân và Cách mạng .

Ðại úy Thông ngộ (người Chàm ) Ðại đội trưởng DD/888/ÐPQ lừng danh , Thay thế ông Thêm khi lên nắm Tiểu đoàn Trưởng 230/ÐP . Không biết anh khai lý lịch thế nào mà bi chúng kêu lên chửi bới thậm tệ và bắt cùm trên sạp tre . Hai tay còn bị cột chặt xuống vạt tre 2 ngày, mặc cho muỗi mòng thiêu đốt , thật tàn bạo hết nói . Ðại úy Thông ngộ đã vượt trại ở Hàm trí và mất tích từ đó đến nay cùng Ð/úy Ðặng Phiên .

Nhiều người khác cũng bị kêu lên làm đi làm lại nhiều lần cho đến khi gọi là “Ðạt “ . Trong thời gian này , Huyện ủy Mười Trung về làm trại trưởng . Thấy chúng tôi bệnh chết nhiều quá nên cũng cảm thấy ít nhiều ân hận . Hàng ngày thường xuyên xuống chỗ anh em đang bệnh nằm , khuyến khích đứng dậy đi tập thể dục .

Ðám tù già như Thổ Thêm , Nguyễn văn Thứ cho vào tổ xay lúa , sàng gạo lấy cám cho heo ăn . Lâu quá rồi chưa có miếng thịt nào vào bụng nên thèm vô cùng. Thấy ông Thêm đứng nhìn mấy con heo , tôi lại gần thì ông hỏi .Sơn mày có muốn ăn thịt heo không ? Tôi cười cười đáp, thịt ở đâu mà ăn , Ông chỉ và mấy con Bồ Cạp đang bò ở vỏ cây gần đó . Tôi chợt hiểu và nói khẽ , cẩn thận chú , nó biết được thì mệt .

Hôm sau chúng tôi có thịt heo ăn, tôi biết ngay đây là tác phẩm của ông Thêm . Một hôm nọ, tay Th/sỹ VC tên Hợi đi bắn được một con khỉ đột thật lớn vác về quăng giữa sân , hắn nói anh nào muốn ăn thì lấy về làm thịt . Tôi cùng vài anh bạn đem về làm thịt ăn , hầu hết rất đói đều muốn ăn nhưng ngại thịt khỉ thành ra còn lưỡng lự . Tay đang cầm cái đùi khỉ vừa nướng chín , tôi nghe tiếng thì thào gọi tên tôi . Sơn cho anh một miếng , quay lại thấy Th/tá Phạm Minh Trung Tâm Trưởng /TT/TVYT/BT , ngày 4/4/75 tôi đã cùng anh cầm vòi rồng cứu chợ Phan Thiết và Phố Gia Long .

Anh đang nằm trên sạp tre đi không nỗi vì cơn sốt rét . Tôi đưa cho anh ngay cái đùi khỉ , mãi đến hôm nay tôi không quên hình ảnh đó . Còn Th/tá Trịnh vĩnh Bình đang nhăn nhó vì con đau bao tử đang hành hạ , ông chết khi bị chuyển ra Bắc tại trại Vĩnh Phú năm 1977.

Lúc này chúng tôi đã sức tàn lực kiệt vì cơn bịnh sốt rét , ngày nào cũng có người chết . Trong số bạn bè thân có ba người ra đi . Tr/úy Ðặng văn Hai TD/229 , Tr/úy Nguyễn văn Biên Trưởng ban 5/CK/ Tuy Phong .Th/úy Pháo Binh Nguyễn Phong người Chợ Lầu .

Các anh đã chết đi trong cô lạnh , thân thể được quấn trong cái mền và bảy nẹp tre , chôn bên gốc cây, không mộ bia . Trong gần 100 ngày sống ở đây đã có hơn 40 người nằm xuống . Nếu không về Sông Mao kịp thời chắc chúng tôi phải bỏ mạng tại đây .

Những tiếng thét đầy ma quái vang lên đột ngột trong đêm vắng ,đánh thức mọi người trong cơn ngái ngủ . Tiêng rên rỉ , tiếng run lập cập của người bạn nằm bên , cho ta cái cảm giác rờn rợn ..Cái chết tới thật bất chợt không ai ngờ . Hai nguyên nhân chính dẫn đến những cái chết đau thương là Sốt rét và Ðói triến miên .

Cuối tháng 6/75 cấp Thiếu tá được chuyển ra Bắc , từ Ðai úy dến chuẩn úy còn ở Cà Tót . Không hiểu lý do gì giữa tháng 8/75 VC đã chuyển chúng tôi về Sông Mao . Cấp chuẩn úy được cho về học tập và quản lý tại địa phương. Trong số anh em lên ngày 19/6/75, tôi quen với một trung sĩ Cảnh sát, trước đây anh làm việc ở vùng Bình an, Bình lâm . Anh có biệt danh là Tư Búa, một hôm anh nói nhỏ với tôi, chắc tụi nó tử hình tôi nay mai thôi, vì dân VC ở đó chúng lập tòa án nhân dân kết án tôi rồi. Mặc dù biết cái chết sẽ đến trong nay mai nhưng anh vẫn xem thường . Quả thật sáng hai ngày sau anh bị trói thúc ké dẫn đi, gặp tôi anh gật đầu chào như một lời giả biệt Giữa tháng 8/75, tức là sau khi bị nhốt ở Cà tót chừng một trăm ngày, không biết vì lí do gì tất cả chúng tôi được lệnh chuẩn bị rời trại . Thật quá đổi vui mừng vì thoát khỏi địa ngục này .

Ðoàn xe chở chúng tôi đậu cách BCH trại chừng 1 km, nhưng đám người chúng tôi đa số đi không nỗi, phải chống gậy quần áo tả tơi tê hơn đám ăn mày . Ðể khỏi mất măt vì sợ nhân dân thấy cảnh đối xử tàn tệ với tù binh . Chúng ra lệnh cho chúng tôi phải quăng gậy gộc mới cho ra đi . Vì muốn thoát khỏi Ðịa ngục này càng nhanh càng tốt , nên anh em người còn mạnh dìu người yếu cố dìu nhau đi trong tang thương . Hình ảnh này đã không phai nhòa trong tâm tri tôi cho đến hết cuộc đời .



TỔNG TRẠI 8 SÔNG MAO

Tổng trại 8 Sông mao lấy căn cứ của Trung đoàn 44/Sư đoàn 23/BB làm trại tù . Khu gia Binh thì nhốt khối B ( trung úy ) và khối C ( thiếu úy ) ngăn đôi bởi một hàng rào kẽm gai. Khối A từ Ðại úy trở lên nằm tại khu nhà tiền chế , trước đây TD/229/ÐP dùng làm doanh trại

Tổng trại 8 do Trung đoàn 482 của VC Bình Thuận quản lý , thuộc Quân khu 6 với chính trị viên là Trung tá Loan . Trại A có 4 khối . Khối 1 dành cho cấp thiếu tá không đi bắc . Khối 2 Bình thuận khối 3 Bình Tuy , Khối 4 dành cho Lâm đồng , Ninh thuận , Tuyên Ðức . Chúng tuyển lựa đám có dây mơ rễ má , có cha là nằm vùng, Liệt sỹ , hoặc có công với Cách mạng làm Khối trưởng , đội trưởng . Nhà văn quân đội Hải Triều Lê văn Hai là một trong số khối trưởng, nên ở trại rất ít ngày và về sớm nhất, chỉ thua Đại Uý Lê Dũng (Bình Tuy) là cháu gọi Lê Duẩn là cậu ruột.

Trại B Trung úy được chia làm 5 khối . Khối 1 Lâm đồng , Khối 2 Bình tuy , Khối 3 Ninh Thuận , Khối 4 Bình thuận Khối 5 Tuyên Đức và Ðà lạt . Cũng có vài người ở lẩn lộn . Khối trưởng khối 4 là Nguyễn văn Tánh ,có cha là huyện ủy VC . Khối 5 là nhà giáo Luu hữu Ðược có cha là Huyện ủy đã chết khi kháng chiến chống pháp .

Trại tù ở Sông mao so với Cà tót là thiên đường . Tôi nhớ ngày mới về , tối đó được cho ăn cơm trắng với cá khô, dù không được no lòng nhưng tôi cứ tưởng trong mơ . Những ngày đầu tất cả còn ở chung với nhau tại khu gia binh .Chúng tôi tự bầu lấy người chỉ huy trong lao động . Tôi được các anh bầu chọn làm người coi về phân công lao động vì thành tích trước đó ít ngày dám bạt tai giáo gian con một huyện ủy VC được VC chỉ định quản lý nhà kho, vì tên này dám ỷ thế coi thường chúng tôi .

Khi Tôi từ Cà tót về đây thì trại này đà có trên vài ngàn . Các anh từ Lâm đồng , Bình tuy , Phan rang , Ðà lạt .... đã.tập trung về đây . Không biết chính xác nhưng ước lượng 3 trại có khoảng 5000 ngàn người .Thân nhân những người tù từ Cà tót hàng ngày lên đứng ngoài vòng rào kẽm gai dòm vào tìm xem thân nhân của mình còn hay mất .

Không ai được biết tin gì cả . Tất cả Chuẩn úy được cho về đều bi cảnh cáo trước không được tiêt lộ tin tức chết tai Cà tót . Không biết tại sao tin anh Ðặng văn Hai bị chết lại đến tai vợ anh . Gia đình lên Xã Chợ lầu hỏi thì bị chối phăng . Họ nghi ngờ anh Chuẩn úy Nguyễn Hai tiết lộ , vì nhà anh sát nhà vợ anh Hai .Thế là anh Nguyễn Hai phải lãnh đủ , thiếu điều bắt nhốt anh . VC thật hèn hạ , đã có gan giết người lại còn muốn bưng bít, qua 35 năm chứng nào tật ấy vẫn còn . Thôi thì để lịch sử phán xét vậy .

Chúng tôi chiều chiều ra đứng trên các hồ chứa nước bằng xi măng rất cao để thân nhân nhìn thấy biết mình còn sống. Chỉ được vài ngày , BCH Trại quyết định chấm dứt tình trạng này , bằng cách điều toàn bộ chúng tôi lên phi trường Sông mao cách đó hơn 1 km khiêng loại vĩ sắt làm phi đạo về rào kín mít , đến nỗi gió cũng bị cản lại . Sông mao là địa danh có tiếng nóng nhất Bình thuận , nay như cái lò lửa . Tình trạng khô hạn không đủ nước sinh hoạt , mặc dù chúng tôi đã đào hàng trăm giếng nước . Một tuần một lần được lên đập É Chiêm ở trên con sông mao tắm giặt .

Cuộc vượt trại đầu tiên xảy ra trong tháng 9/75, do ba anh em ở khối C ( thiếu úy ) thực hiện, Cầm đầu nhóm là Thiếu úy Tám, biệt danh Tám đặc công, trước đây anh là một đặc công VC hồi chánh,được mang quân hàm Th/úy của QLVNCH, và là trưởng toán Thám báo tại Chi khu/Hòa đa . Nhân việc đi khiêng vĩ sắt về rào khu trại, anh đã lôi kéo anh Trần văn xuân và một số anh em khác cùng trốn vào rừng lập chiến khu .

Nhưng cuối cùng chỉ có anh Ðoàn tiến Xe ( người Chàm thuộc Ðại đội 118/ÐPQ ) và anh Bá tự là Bá lé người Phan thiết là vượt thoát. Hai anh Xe và Bá, bị bắt lại, riêng anh Tám đặc công là một người có võ nghệ cao cường, lại từng là đặc công VC, nên anh trốn thoát dễ dàng và cướp súng của du kích địch, hoạt động tại vùng phía tây Hòa đa . Anh đánh phá VC hơn một năm làm cho chúng nhiều tổn thất, cuối cùng anh bị VC bao vây bắn chết kéo xác về cho dân chúng Hòa đa coi .

Nguồn an ủi duy nhất là chiều về leo lên hồ nước để hy vọng nhìn thấy vợ con nay chấm dứt Khối A Ð/úy chuyển lên khu nhà tiền chế . Tổ đội khối được thành lập để chuẩn bị học tập . Trước khi học tập , toàn trại làm bản Tự khai lý lịch .Lần này có kinh nghiệm ở lần làm trên Cà Tót,tôi chép lại y chang nên thông qua trước tổ và trại dễ dàng . Một số rất đông cứ làm đi làm lại hoài mà không được thông qua .

Chỉ tội cho nhóm Giáo chức biệt phái và các anh làm việc văn phòng ,không biết lấy tội ở đâu ra mà nhận , đành phải bịa ra những tội thật ngớ ngẫn để được thông qua . Hơn nửa tháng trời mới xong phần lý lịch và được phát giấy đặc biệt cùng mực Cửu Long để chép vào đem nộp . Tôi nghiệm ra một chân lý,trong nhà tù Cộng sản Tay nào nói giốc hay thì được đánh giá là học tập tốt, nhưng ở tù lâu hơn .

Trước khi bước vào học tập chính trị gồm cả thảy 10 bài . BCH trại quyết định cho chúng tôi thăm nuôi để lên tinh thần . Khu rạp hát cũ kế lầu nước được chọn làm chỗ thăm nuôi . Anh em tôi hăng hái tình nguyện xin đi ra đó quét dọn mục đích được ngắm cảnh người qua lại và tìm người quen .

Nhà tôi chỉ cách đây 3km nên rất nhiều người quen biết . Nhiều lúc họ lén ném thuốc lá vào cho vì khu này chỉ cách con đường Tự Do một hàng rào kẽm gai thấp .Ðang quét dọn , tôi bỗng nghe một tiếng nổ lớn , quay lại thì thấy anh Trần Quang Ảnh (em ruột dược sĩ Trần Quang Tuấn), Trưởng ban 4 CK/ PLC nằm ngã bên canh. Môt bàn chân đã bị nát , máu me cùng mình, tôi vội sốc anh lên lưng cõng chạy về trại cấp cứu . Anh được chuyển đi bệnh viện và sau đó về luôn nhà .

Sau gần 5 tháng mới gặp lại người thân , thật vui mừng không kể siết . Một giờ thăm nuôi quá ngắn ngủi nhưng có còn hơn không . Nhờ gia đình tiếp tế đầy đủ các vật cần thiết, nhất là thuốc trị sốt rét nên sức khỏe có khá hơn trước .

Ngày đầu tiên được học tập ai nấy cũng hâm hở , áo quần nghiêm chỉnh , giấy bút đầy đủ để ghi chép . Tôi hoàn toàn thất vọng khi biết ban giảng huấn là ai . Trưởng ban là Ðại úy VC tên Phong người Phan Rí , Trước khi tập kết là giáo viên trường làng . Chính trị viên Tiểu Ðoàn .. anh em đặt cho biệt danh là Phong gió , vì tài nói phéc có hạng .Phụ tá cho Chính trị viên Phong người Xuân hội , Chợ lầu cũng mang quân hàm Ð/úy .Tôi quên mất tên chỉ nhớ biệt danh “LÀ “ mà anh em lén đặt . Chúng tôi gọi hắn là đại úy Là , bởi vì ăn nói cà lăm và trong 2 tiếng lên lớp tôi thấy hắn dùng chữ Là cũng có trên vài trăm lần. Thường trong khi lên lớp chúng tôi thường đếm hôm nay y nói bao nhiêu tiếng Là . Nguyên gốc của hắn Xuất thân từ chăn trâu cho gia đình Phú hộ . Sau bị dụ dỗ nhảy rừng tập kết ra bắc nay trở về làm ông lớn, nhưng cái gốc dốt nát làm sao chửa được nếu không được đi học . Không biết tại sao VC lại chọn một người có trình độ như vậy làm chính trị viên, hèn nào cấp dưới tay nào cũng đạt trình độ siêu nhân ..

Thành phần quản giáo đa số là người địa phương đi tập kết ra Bắc nay trở về . Gồm Tr/úy Thanh người Chợ lầu , Th/úy Cảnh phan rí , Th/úy Tùng Phan rí , Th/úy Bảng người Hà nội .Chuẩn úy Xây trước đây là lính SD/22/BB nội tuyến , sau chạy theo VC lập nên công trạng được phong quân hàm chuẩn úy. Nhin chung vì là người địa phương nên cũng đôi chút dễ dãi , chỉ phải vì sống ,hoc tập chung lâu ngày với Cộng sản nên tiêm nhiễm cái tật cố hữu của cán binh cộng sản là bốc phéc không chê vào đâu được .

Ngày học đầu tiên , chúng tôi bị ngay tên CTV Phong gió phán một câu nghe nhức nhối . Các anh chưa phải là thành phần Trí thức , các anh chỉ tạm thời là người gọi là có học .Ðây là đòn đánh phủ đầu để che giấu cái dốt của bản thân hắn, vì rất nhiều trong chúng tôi biết gốc gác tam đời cổ đại nhà hắn .Ngồi phía dưới chúng tôi ngơ ngác không hiểu hắn nói gì . Trong chúng tôi quy tụ cả tinh hoa miền nam . có cả Bác sỹ , luật sư , cao học . người nào ít nhất cũng là ông Tú , đủ sức dạy dỗ tất cả các tên cán ngố như hắn .

Những đầu đề các bài học nghe thật kêu , nhưng đầy lố bịch và rỗng tuếch

_ Ðế quốc Mỹ là tên Xâm lược và là Sen Ðầm quốc tế .

_ Ngụy Quân ngụy quyền là tay sai của Ðế quốc Mỹ

_ Xã hội chủ nghĩa nhất định thành công .

_ Hồ chí Minh Vỹ đại , vị cha già cứu tinh của dân tộc

_ Ðảng cộng sản việt nam quang vinh , đời đời sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta .

_ Chính Sách khoan hồng của Ðảng và Nhà nước trước sau như một ..

Ðại loại những bài như vậy , trong học tập phải đào sâu tư tưởng , Phát biểu đúng trọng tậm Sau khi lên lớp về thảo luận ở tổ gồm 18 người cho thật nhuần nhuyễn . Mỗi bài chúng tôi phải thảo luận bốc phéc trong một tuần .Trong học tâp khi thảo luận phải nghiêm chỉnh .tự đánh giá bản thân là người có tội , được cach mạng khoan hồng tha chết , đem về đây cho cải tạo thành người hữu ích mai sau .Ðể đền ơn Bác và đảng . Chúng tôi phải học tập tốt , lao động tôt . Sẵn sàng tố giác bất cứ ai có hành vi cử chỉ, lời nói chống lại chính quyền cách mạng .Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối chính sách của đảng .

Vì căng thẳng quá nên có một anh ở Lâm đồng tối ngủ cắt đứt mạch máu tự tử chết . Lúc đi vệ sinh trong giờ giải lao , anh Nguyễn Hoành biệt kích nói móc họng “ tụi mày nhớ đái cho đúng trọng tâm “ . Có vậy thôi mà anh bị kiểm điểm trước tổ rồi đội . Anh Lê văn Vinh trong lúc đánh Domino với chúng tôi , vô tình nói “ đừng nghe lời mấy thằng Cộng sản “ . Thế là mang đại họa vào mình .Thời gian hoc tập chỉ có hai tháng rưỡi , nhưng cảm thấy nó dài vô tận , Ðầu óc như mụ mẫm vì phải vắt óc nói láo theo đơn đặt hàng . Thế rồi cũng qua cơn gây go, chờ ngày đi lao động .

Trong một đêm tháng 11/75 vào khoảng 11 giờ đêm , cả trại đang ngủ . Bỗng hốt hoãng vì những tràng đạn bắn như sát bên tai . Một bóng người từ cửa sau lao vào leo lên sạp nằm kế bên tôi , chuyện gì đã xảy ra ? .Chừng mười phút sau . Quản giáo và vệ binh ập vào phòng chúng tôi bắt đi anh Vinh . Thì ra anh đã cùng một nhóm ở Lâm đồng tổ chức Vượt trại . Trong khi vượt rào kẽm gai , bị phát giác nên cảnh vệ trên chòi canh bắn chết một anh , số còn lại may mắn chạy được vào phòng .Tổng cộng số người chết ở Sông mao vì di chứng của Căn bệnh Sốt rét ở Cà Tót lên đến hơn 20 chục người .

Sau khi học tập xong , Một số đông trên 1000 ngàn người được cho về . Hầu hết là các anh có thân nhân có công với cách mang . Có cha chú tập kết trở về bảo lãnh , hoặc giữ những chức vụ không gây nợ máu với nhân dân, trong lần này có nhà văn quân đội Hải Triều (Lê Văn Hai) và hầu như những anh em có thân nhân đi tập kết trở về đều được cho về .

Cái tết đầu tiên đến với tù cải tao trong buồn tẻ, người nhà lại được phép thăm nuôi . Chúng tôi được lệnh tổ chức đêm văn nghệ thật “ hoành tráng “ để đón xuân . Về thể thao thì có các đội bóng chyền ở Chợ lầu và Hải ninh được phép vào thi đấu .Với Tuyển thủ từ Bốn quân khu về đây , Ðội bóng chuyền Tổng trại 8 đã hạ dễ dàng các đối thủ vô trại thi đấu .

Về văn nghệ , Trại B phối hợp với trại C , cùng tổ chức đêm văn nghệ ngoài trời . Tất nhiên chương trình phải được thông qua trước . Với sự tham dự của toàn thể trại viên cùng ban quản giáo. Hầu như tất cả vệ binh và gia đình đều có mặt để xem cái tụi ngụy quân này trình diễn ra sao . Ðêm văn nghệ rất thành công về mặt nghệ thuật . Cán bộ quản giáo phải thừa nhận trong tù cải tạo có nhiều nhân tài .làm cái gì cũng hay cũng giỏi .Những vở kịch , mặc dù đã kiểm duyệt trước , nhưng khi trình diễn mấy anh đã cương vào nói xỏ siêng vào chính sách , nên ngày hôm sau toàn bộ nghệ sĩ và trưởng ban văn nghệ Khối phải làm bản kiểm điểm .

Ngoài ra chúng tôi còn có tờ bích báo, nội dung rất súc tích , trong đó có những bài viết có những ẩn ý sâu xa, nhưng vì trình độ cán bộ kiểm duyệt quá thấp, không thấy được nên cho đăng .Về ăn uống , tuy có thiếu thốn nhưng nhờ có thăm nuôi nên cũng tạm đủ, chúng tôi tận dung. tất cả đất trong khu gia binh còn trống để trồng thêm rau xanh, trong những tháng có mưa .

Ðể chuẩn bị đi lao động , chúng tôi lại phải học thêm bài lao động là vinh quang . Sau tết, toàn bộ chúng tôi rời sông mao để bước vào cái gọi là lao động quang vinh . Chả thấy quang vinh ở chổ nào chỉ thấy chúng nó vắt kiệt mồ hôi của người tù cải tạo , sau khi đã bẻ gãy bằng tinh thần qua các buổi học tập .Ðại bộ phận làm việc tại Nông trường Bông vải Lương Sơn . Nông trường này kéo dài từ Ðập Ðồng mới tới Suối nhum , chạy sát với sông lũy và nằm bên kia bờ .Khu vực này trước đây thời Ðại tá Ngô tấn Nghĩa còn làm Tỉnh trưởng đã khai quang phát đất cho dân Quảng ngãi vào định cư ở xã Nghĩa thuận nằm sát Ðập đồng mới .

Hai trăm người , trong đó có tôi di chuyển đến đóng quân tại Dốc Bà Chá . Nơi đây trong đêm 16 rạng 17/ 4/75 . DD/1/212/ÐP của Ðại úy Vĩnh đã gài địch vào trận địa mìn chống chiến Xa . Tiêu diệt 7 chiếc làm rối loạn hàng ngũ địch, tiêu diệt bảy chiếc tank, và chậm bước tiến của địch trên đường tiến về Phan thiết. Chúng còn bỏ lại tại chỗ 3 chiếc,bên bờ sông chúng tôi dùng làm nhà cầu . Nhiệm vụ của Ðội chúng tôi là đắp một con đường bằng đất rải đá từ QL1 đến bờ sông có bến phà qua Sông , mục đích là chuyển số bông thu hoạch khi mùa mưa đến .

Làm việc thật nặng nề , lúc đầu vừa cuốc đất vừa khiêng về đổ . Sau được tăng cường một xe chở đất . Chúng tôi phải đi xuống đồi đá ở xóm nùng Ðập đồng mới để cuốc đá sỏi . Sau 3 tháng làm việc nặng nhọc , con đường hoàn thành . Một việc đáng tiếc xảy ra là một quả mìn chống chiến xa đã phát nổ , một em bé chăn bò đã biến mất trước mắt chúng tôi . Trước khi chyển chỗ khác chúng tôi được cho thăm nuôi .

Chúng tôi tập trung về nông trường Bông để thu hoạch cho đến gần tết . Trại C ( thiếu úy ) một số anh em khoảng 20 người tổ chức Vượt trại, Trưởng nhóm là Th/úy Trần văn Xuân và các anh Hoàng văn Toàn, Nguyễn Phương, Phạm Thời v v.. . Công việc bị VC phát hiện vì có ai đó mật báo, các anh vừa lội qua Sông trong đêm để qua Lương Sơn định phân tán mỏng , thì lọt vào ổ phục kích của Vệ binh trại do Chính trị viên Hồng dẹo chỉ huy . Các anh toàn bộ bị bắt , may mà không có ai bị bắn chết . Anh Trần văn Xuân chủ chốt nên bị bắt cùm một năm tại Giếng triềng, Tà dôn, mãi khi về đến Hàm trí mới được thả ra đi lao động .

Gần tết một nhóm khá đông gần 400 người được cho về , gây cho chúng tôi thêm niềm hy vọng dù mong manh . Tết 1976 lại đến chúng tôi lại tổ chức văn nghệ vui xuân, lần này Quản ca Hoàng bị làm kiểm điểm vì cho rằng dám ví quản giáo như con cò ngóng cổ nghe trong câu hát Ca dao sau đây “ Ở đây không hát thì hò . hò lơ .Chẳng phải con cò mà ngóng cổ nghe “.



ÐẬP TRÀN SÔNG LŨY

Trước khi đi Làm việc ở chỗ khác chúng tôi được cho biết là cố gắng lao động tốt sau 3 năm sẽ được cho về . Vì vậy niềm hy vọng tăng thêm , tin tưởng ngày về đã gần kề .Sau khi ăn tết xong vài ngày , Ðại bộ phận đi ngược dọc con sông lũy lên đầu nguồn, qua đêm ở trong rừng ngày hôm sau đến vị trí đóng quân . Chúng tôi mới biết nhiệm vụ mới là làm con Ðập tràn trên thượng nguồn Sông lũy , và đào con mương dẫn nước về tưới cho cánh đồng Bông Lương Sơn . Một bộ phận vài trăm người đến Giếng Triềng gần núi Tà Dôn để khai khẩn ruộng ,sản xuất lúa gạo nuôi quân .

BCH chỉ cho một ngày để làm chỗ ở , May mà chúng tôi qua thời gian làm việc nặng nhọc đã chân cứng đá mền mới làm kịp. Cán Bộ Thủy lợi Ðoàn 8 chịu trách nhiệm thiết kế , đo đạc . Tù cải tạo chịu trách nhiệm thi công . Việc khảo sát địa chất vùng này được thực hiện vội vã , hay sự bất tài của Kỹ sư thiết kế dự án mà khi đào mương gặp phải lớp đá nằm dưới mặt đất chừng một mét . Không thể nào đào bằng dụng cụ thông thường và bằng sức người . Quân khu 6 tại Ðà nẵng phải cung cấp chất nổ để chúng tôi đánh đá đào mương . Làm kéo dài thời gian và không hoàn thành được .

Con Ðập đã làm xong nhưng nước thì cứ bị rò rỉ, nước không tràn qua được . Ngày khánh thành con dập đã đến , các Kỹ sư trách nhiệm bí quá đành phải hỏi ý kiến chúng tôi xin giúp đỡ. Sau khi hội ý chúng tôi giải quyết trong một đêm , bằng cách lặn xuống đáy dùng đá nhỏ chèn lại các lổ rò rỉ , nước tràn qua đập. Ngày hôm sau Ðại tá Sư trưởng đến khánh thành đập, hết lời tán dương đoàn 8 , nhưng quên nhắc đến công lao đám tù cải tạo đã đổ mồ hôi, thậm chí cả máu để hoàn thành đúng kỳ hạn con đập .

Mặc dù chúng tôi đã có nhiều sáng kiến như chế tạo cần cẩu theo nguyên tắc đòn bẩy để chuyển đá lên bớt cực nhọc , và năng xuất tăng rất cao , nhưng vì con mương nằm trên vĩa đá , nên đến giờ này con Ðập thì làm xong nhưng con mương không hoàn thành được .Uổng công cho chúng tôi đã đổ biết bao nhiêu mồ hôi , công sức . Ðúng với câu “ nước sông công tù “. Gần đó đám Thanh niên xung phong được điều lên đây làm không được đành bó tay . Các em than thở là bị bắt buộc đi Thanh Niên Xung Phong . Một số lớn đã trốn về nhà vì không chụi nỗi công việc nặng nhọc và cái nắng nóng như thiêu như đốt .

Ðoàn quay phim của nhà nước lên quay đám này về làm phim tài liệu tuyên truyền, nhưng có khúc nào mà đám thanh niên xung phong làm ra hồn, nên tới mượn chỗ chúng tôi làm để quay về tuyên truyền . Tù cải tạo thì bắt trốn kỷ vào rùng , thật xảo trá hết chỗ chê .

Thấm thoát Tết lại đến , Hơn 9 tháng không được thăm nuôi , lại làm việc trong điều kiện quá tồi tệ . Ngày thì nắng cháy da người , đêm thì lạnh buốt xương . Ăn uống đói khác , nên ai nấy đều hóc hác thấy rõ . Có lần phải ăn củ nần bị trúng độc xém chết cả đội . Ðể chuẩn bị ăn tết , BCH trại cho Tù Cải tạo thăm nuôi , để thân nhân tiếp tế thực phẩm cho tù cải tao có thêm thực phẩm mà có sức cày tiếp

Ngày thăm nuôi thật rộn rịp . Bên bờ sông , từng gia đình quây quần trên bãi cỏ ăn cơm . Một anh bạn Ðai úy viết một lá thư trao cho vợ gởi về cho mẹ bị cán bộ quản giáo bắt được . Tối đến bức thư được đem ra đọc cho toàn trại nghe , vì lâu quá nên tôi chỉ nhớ đại ý . Ðầu thư là gởi lời thăm gia đình sau đó có đoạn viết than thở về sự cực khổ ở đây . Ðồng thời cho biết là có hy vọng là sẽ được về nay mai . Trong thơ có đoan Viết “ Ðêm thì trăng sao , ngày thì nắng giọi . Con nay đã ở cuối đường hầm, Con đã thấy vài tia sáng le lói ở cuối đường .” Cả đám tù như lặng câm, cảm thấy bị xúc phạm nặng nề , ngồi im lặng và càng thấm thía cho kiếp tù, giận thay lũ VC ngu xuẩn, đem cảm xúc ý nghĩ thành thật của một tù nhân ra làm trò đùa ..Bức thư này được cho là phản động , nên bắt anh phải kiểm điểm nhận lỗi .

Tết năm đó ăn tết trong buồn tẻ . Mai rừng nở rộ tô điểm cho rừng hoang thêm sắc màu . Nhưng lòng người càng ảm đạm . Càng ngày mương dài ra và gặp toàn đá , công trình bị châm lại , không biết bao giờ mới xong . Sau tết hơn 200 tù cải tạo được về .Không biết vì lý do gì toàn bộ rút về Hàm Trí . Các anh em làm ruộng ở Giếng Triềng cũng tụ hết về đậy



HÀM TRÍ LONG HOA

Ngay trước đồn NORA Long Hoa có con đường đất nối liền QL 1 với Hàm Trí chừng 3km . Vùng này khô cằn đất đai không được màu mỡ , cách chỗ trại đóng chừng 2 km mới có vài ngôi nhà và có một giếng nước. Trong phạm vi trại có con suối cạn chảy qua . Khi có mưa thì có nước hết mưa thì khô can . Chúng tôi phải làm đập chận nước lại mà phải đào giếng dưới lòng suôi cũng không có nước .

Trại A ở cách trại B + C một quãng đường ngắn , nhưng ít khi thấy nhau . Hai trại được rào lại bằng cây rừng cao 3 mét . Mỗi trại được lệnh phải cất một hội trường . Không có dụng cụ và đinh để đóng tole . BCH trại điều một đội khối Ðại úy ra đồn Nôra lấy Concertina về chặt làm đinh . Sáng hôm đi như đi vào cõi chết , đoàn người phải mang theo võng để khiêng người , có thể có người chết vì vòng rào Ðồn toàn mìn , may mà không ai có việc gì . VC đã coi mạng những người Tù cải tạo VNCH không ra gì , thua mấy cây đinh .

Tại đây , chúng tôi phá rừng làm Rẫy , trồng bắp, Cao lương , Lúa , Ðậu phụng ,Ðậu xanh ...Một đội lên rừng lấy gỗ về cưa xẻ thành từng miếng đóng sạp cung cấp cho Quân khu 6 .Nói chung Trại trung úy và thiếu úy có phần dễ dãi . Bên đại úy bị kềm kẹp một cách tàn độc .

Toán đầu tiên vượt trại là nhóm của Ðại úy Nguyễn văn Ba , Thông minh Xê ( gồm 4 người ) Sau đó không lâu , nhờ sự giúp sức của gia đình thêm một Ðại úy vượt trại thành công , gây tức tối cho BCH trại , các anh càng bị khe khắt hơn .

Trung tuần tháng 3/78 . một toán Ðại úy khoản 20 anh vai mang ba lô đi ngang qua trại B , gặp lúc chúng tôi đang làm việc sát đường nên hỏi các anh đi đâu đó , các anh cho biết là đi chặt tre . Tôi thấy trong toán có những người tôi quen như Ðại úy Nguyền văn Ngư . Thông ngộ, Ðặng phiên .... Hôm sau thì nghe tin các anh vượt trại thành công . Riêng Ðại úy Ngư trở về Ðồng trên Sông mao giả làm thầy Chang làm ruộng . Vì bị tố giác nên anh bị bắt nhốt tại Ðồn Công an Bắc Bình ( tại CK/ Hải Ninh ) năm1981 .

Sau đó Trại B cũng tổ chức vượt trại nhưng bất thành , các anh bi bắt cùm chân biệt giam cho đến khi được chuyển ra A30 Phú Khánh . gồm Hoành Biệt kích , Lê quang Nồng , Trác , Qúy......

Ðể răn đe , BCH trại cho tập họp toàn thể trại viên để nghe lời Thú tội của Ðại tá Ngô Tấn Nghĩa gởi đến toàn thể Quân Dân Cán Chính Tiểu Khu Bình Thuận . Thât là láo khoét, lúc này Ðại tá Nghĩa đã vượt biên được qua Thái Lan và đang định cư tại Mỹ . Không biết Ðai tá Nghĩa nào đây . Qua giọng nói rè rè nghe không rõ . Giọng Ðại tá dõm , kêu gọi tất cả mọi người an tâm học tập . Chính bản thân ông cũng đang được nhà nước khoan hồng cho cải tạo .

Ðai úy Thông minh Xê , người thượng vượt trại trước đó về sống ở buông thượng trên Buôn mê thuộc bị bắt lại đem về dằn mặt chúng tôi . Lúc này Cộng sản VN đã tấn công và chiếm Cam Bốt. Kế tiếp là chuẩn bị đánh nhau với Trung công, anh em môi hở răng lạnh dạy cho VN bài học . Chúng tôi được lên lớp cho biết bọn Bá quyền Tàu đỏ xâm lăng nước ta . Không còn tình hữu nghị gắn bó Môi hở răng lạnh như trong lúc học tập mà đảng đã rêu rao .

Ðầu năm 1979, còn một tháng nữa là Tết Âm lịch . Không phải ngày Lễ mà trại làm bò cho ăn . Chắc có chuyện gì đây , và quả nhiên như vậy . Sáng sớm tất cả mang toàn bộ hành lý tập trung ngoài sân .Danh sách đọc chia làm 3 nhóm . Một trăm người được cho về, 400 đi trại Sông cái Phan Rang .Số còn lại hơn 600 lên xe ra quốc lộ 1 trực chỉ về Bắc cùng với trại A đai úy . Ðây toàn là thành phần cực kỳ ác ôn còn sót lại sau bao lần sàng lọc .theo lời kết tội của VC.



TRẠI A 30 PHÚ KHÁNH

Qua một ngày môt đêm di chuyển liên tục , cửa bửng sau của xe tải bị khóa chặt . Mỗi xe 50 người ngồi thờ thẫn trong thùng xe . Tiểu tiện trong những thùng mang theo . Ðiều oái âm , không biết vô tình hay cố ý , Món thịt bò ăn hôm ra đi , làm chúng tôi tiêu chảy khủng khiếp . nếu muốn nhân lúc này chạy trốn cũng không nỗi .

Khuya hôm đó , xe dừng lại ở đỉnh đèo cả cho đi vệ sinh với sự canh phòng nghiêm ngặt . Ðến Tuy hòa , xe quẹo trái trên Tỉnh lộ 7B (đại lộ kinh hoàng ) . Chừng 10km , phía bên phải đường là xã Thạch Thành . Bên trái là trại A 30 Phú Khánh khét tiếng. Phía trên chừng 2km là Ðập Ðồng Cam lớn nhất miền trung . Trại nằm sát bờ Sông Ba . cách đó 3km dọc theo sông là Phân trại Bình Sơn .

Trước 75 khu này là Ðồn điền trồng mía của người Pháp . Hê thống dẫn thủy nhập điền rất hiện đại , đất đai phì nhiêu . VC dùng nơi này làm nông trường cho trại tù .Quá mệt mõi vì lái xe liên tục, một xe chở tù lủi xuống mương nước , may không ai bị chết , xe vào trại lúc 9 giờ sáng , chúng tôi được bàn giao cho công an quản lý . Tiêu chảy làm toàn bộ đuối sức, không còn đứng nỗi để tập họp bàn giao . Anh em kéo ra ngồi tiêu chật kín cả hai đám ruộng lớn .

Trại A30 là một trại khét tiếng về mức độ tàn ác dã man của CSVN . Chúng dùng tù hình sự làm toán trật tự đàn áp thẳng tay các vụ chống đối . Ðứng đầu nhóm này là tên Ghe , trước đây là Xã đội trưởng VC .Y đã lạm dụng quyền lực giêt chết người nên vào tù . Phụ tá là tên Bình , tên Ðức , tên Sơn...Phân trại Bình Sơn dùng nhốt tù Hình sự và phản động. Trại được chia theo các đội ngành nghề gồm có Ðội Rau xanh , Ðội Mộc , Ðội cưa xẻ , Ðội gạch ngói , Ðội xây sát.....

Ðặc biệt có 2 đội nữ hơn 400 chị em , Tội phản động vượt biên hình sự đều nhốt chung .Có 2 đội nam , tuổi các em còn rất nhỏ có em chỉ 17 vì can tội Vượt biên . Một nhà kỷ luật trang bị gông cùm chuyên nhốt những tù chính trị cứng đầu . Bên cạnh đó là nhà giam các Linh mục . Tôi thấy có ba vị bị nhốt tại đây, trong một nhà riêng có rào bao quanh không cho ai được tiếp xúc . Bên các sư Phật giáo có vài Sư Tuyên úy nhưng cho ở chung với thường phạm nhưng phải để tóc .

Chừng nửa tháng sau , các anh em của tổng trai 5 cũng bị dồn về đây . Số người tại đây tăng lên hơn 6000 người . Quả là kinh hoàng , nhưng cũng nhờ sống chung đụng như vậy mà tôi ghi nhận được nhiều điều lý thú về chế độ tàn bạo này .

Nhà ở chật chội , tối ngủ phải nằm nghiêng mới ngủ đươc .Ăn uống rất kham khổ, mà lao động làm theo chỉ tiêu nên chúng tôi có phản ứng mạnh. Ðại tá Phó Trưởng ty công an Phú khánh phải đến trấn an ngọn lửa phản kháng gần như công khai qua các buổi họp đội có quản giáo tham dư. Chúng tôi có đặt thẳng những câu hỏi như : Cách mạng có nói láo hay không khi hứa với chúng tôi sau 3 năm lao động tốt sẽ cho về . Ðại tá Công an tim cách lẫn tránh , giải thích rằng tình hình biến chuyển bên ngoài rất khó khăn , các anh ở đây an toàn hơn

Lúc ở Tổng trại 8 cách xưng hô có phần tôn trọng phẩm giá con người , Dùng ANH và TÔI để xưng hô . nay phải xưng hô thưa Cán bộ , Ban trưởng . Thằng công an cảnh vệ quèn cũng phải đứng cách 3 bước trình với thưa vì thế chúng tôi rất bực mình nên nổ ra các cuộc vượt trại .Gần 500 người của trung uý và thiếu úy và một ít đai úy được chuyển lên Bình Sơn , vì tại đây mới được tân trang mở rộng .Ðội Nữ chủ yếu là Vượt biên cùng các em trai mang tội vượt biên , già thì cho về , trẻ thì tống vào Thanh niên Xung Phong .

Gần 600 mạng khi đến nơi giao quân chỉ còn mấy mạng vì sợ không dám nhảy xe , hoặc vì lý do gì đó không dám trốn, số còn lại trốn mất làm Ban trưởng Tr/ tá Hạnh điên lên .Mới ra đây hơn tháng , Gặp bão lớn ập vào , nước sông Ba lên cao , chúng tôi phải chạy lụt ra xã Thạch thành . Ðội chúng tôi được ở chung với nhà Kỷ luật trong một ngôi trường . Phòng bên hơn 40 người bị xiềng chân lại với nhau . Người gầy gò xanh xao hóc hác trông rất thương tâm . Trong đó có một nữ tù nhân .Tôi hiểu ngay đây là những người tù chính trị , theo cách gọi của đảng là phản động . Những ai chống lại chế độ, Không ca tụng Bác Hồ vĩ đại đều là phản động .

Qua tìm hiểu tôi biết chị tên HỒNG . Sau ngày 30 tháng 4 chi gia nhập phục quốc , thư ký cho nhóm Phục quốc Quân tai Nha Trang . Giáo sư Tháo Trường Võ Tánh Nha Trang làm Chủ tịch Ðảng . Năm 1976 bị bắt ra tòa ở tòa án Nha trang . Giáo sư Tháo bị kêu án 20 năm . Riêng chị 8 năm .Sau khi bị kết án , quan tòa cho phép chị nói lời cuối cùng . Ðứng dậy , chị chỉ thẳng vào mặt tên quan tòa nói lớn . “ Liệu chế độ của các ông có tốn tại 8 năm nữa hay không mà các ông kêu án tôi chừng đó “ Ðây mới là Anh thư của thời đại . Bọn cò mồi lập tức tuyên án chị lên 20 năm , và chị bị cùm tại nhà kỷ luật A30 Phú Khánh 1 năm .Sau khi được thả ra đội nữ , Chị tiếp tục kêu gọi chi em trong đội không tham gia lao động và tỏ ra khinh miệt bọn công an . Chúng lại tiếp tục đem chị vào cùm cho đến hôm nay .

Riêng giáo sư Tháo bị giam ở Bình Sơn trong Ðội phản động . Khi được chuyển về Bình Sơn tôi ở chung với đội Phản Ðộng này .Cái Tết 1978 đến trong lặng lẽ , ngày tết hoặc lễ lớn , khẩu phần ăn của tù cải tạo có thêm miếng thịt bằng ngón tay . Anh em sông được là nhờ cải thiện thêm khi đi lao động và của gia đình thăm nuôi .

Ban trưởng là Trung tá Công an Trần Ðức Hạnh . người Bình định , Quê mùa dốt nát không biết sao lên được trung tá , nghe cách ăn nói thì đủ biết .Tay này rất thích hát bội , nên đội văn nghệ trại có thêm gánh hát bội . Thật khổ sở cho đám tù cải tạo chúng tôi vô cùng . Hễ có quan chức nào đến thăm viếng là mỗi lần gánh hát bội phải hát và khán giả là đám tù mệt mõi . Có tuồng hát đến chục lần, đó là tuồng Ngũ hổ Bình Tây . Nhân vât chính là tên tướng Tàu Ðịch Thanh đời nhà Tống . Một tên đã từng cầm quân xâm lược nước ta , vậy mà y không biết lại hết lời ca tụng tên Ðịch thanh là hiếu nghĩa vẹn toàn .

Ban Hạnh ưa Trình Diễn nên trại có đủ các bộ môn , Báo chí Thể thao, văn nghệ . Có một đêm Ban ta ghé nhà thăm nuôi được các chị nói sao không biết . Ban ta quyết định cho tất cả ai có thân nhân trong đêm đó được ra nhà thăm nuôi ngủ với gia đình . Vì nặng phần trình diễn nên Ban nhà ta tổ chức đám cưới rình rang cho một cặp ở ban văn nghệ .Trong ban văn nghệ có chi Hồng, ca sĩ đài Truyền hình Nha trang, chị hát rất hay, nên Ban Hanh rất cưng . Chị xin về Nha trang chữa bệnh viêm mũi và trốn vượt biên luôn .

Hai anh thuộc diện phản động vượt trại thành công nhưng sau một tuần bi bắt lại môt anh . Ngay lập tức một tòa án được lập ra để xét xử Nguyễn Ðỏ tại hội trường trại . Thành phần tham dự được giới hạn . Anh Nguyễn Ðỏ lúc bấy giờ chừng 22 tuổi bị cái tòa án quái gỡ kết án tử hình( án trước của anh là 20 năm vì tham gia phục quốc ) . Ba ngày sau anh bị đem ra bắn tại chân Ðèo cả .

Trong nhóm Ðại úy từ tổng trại 8 ra đây , các anh đã có kế hoạch vượt trại chỉ chờ thời cơ . Nhân khi đi làm , các anh cướp súng đánh và đầu tên cảnh vệ và đào thoát .Vụ này gây chấn động trong trại . Bọn vệ binh trở nên sợ sệt và có lễ độ hơn với anh em . Trong toán vượt trai hôm đó có Ðại úy Trương đức Tuấn (em ruột bà Trương Đức Nghi vợ Thiếu Tá Trịnh Vĩnh Bình) và Ðại úy Dậu .

Tháng sau nghe tin các anh bị bắt lại Khi tính vượt qua biên giới Lào . Các anh bi giải về lại A30 . Nhốt trong nhà kỷ luật , những tên trật tự trại đánh các anh dã man , nhất là Đại uý Tuấn. Riêng Tr/úy Lương Hải người Chợ lầu . Trong lúc đi rừng chặt cây anh đã có hẹn với gia đình đưa bằng Honda về Sài gòn . Ðược một năm sống không có hộ khẩu , lại không đủ tiền chung cho công an khu vực , nên anh bị bắt giải lai A30. Ngày anh ra nhà Kỷ luật, tôi thấy anh như một thây ma biết đi . Khi qua được Mỹ theo diện HO .anh chêt năm 1995 vì vết thương của đòn thù năm nào .

Tôi được ở chung đội với các anh tù chính trị ,VC gọi là phản động vì tham gia lực lượng Phục quốc . Ngoài Giáo sư Tháo ra còn có thêm 40 anh hùng , án từ 8 năm đến 20 năm . Có một giáo sư dạy pháp văn mà tôi quên tên đã gần 80 tuổi . Bác Quang , chú Triển . Ðăc biệt Th/sỹ Biệt kich Sạc lai . . . nhiều lắm những chiến sĩ vô danh cấp bậc chỉ là Tr/sỹ , hạ sỹ , binh nhì mà có tinh thần yêu nước một cách nồng nàn . Tôi tự thấy hổ thẹn cho bản thân vì không bằng được một phần của các anh .

Một tù nhân đặc biệt , khi em vào đây chỉ mới 15 nay 18 tuổi . Ðược em kể lại lý do vào đây, tôi càng cảm phục .Khi VC tiến chiếm Quận Diên khánh Khánh hòa . Tuy em mới 15 tuổi, nhưng em căm thù VC vô cùng . Em giấu lại một khẩu carbin M1 với vài băng đạn . Khi Phong trào tham gia Phục quốc lan rộng . Em cùng với một sô lính VNCH lên rừng chống lại VC . Bị bao vây tất cả giơ tay đầu hàng giặc nhưng em thì không . Em đã chiến đấu tới viên đạn cuối cùng và bị thương bất tĩnh .VC nghĩ em đã chết nên không bắn bồi . Khi xác em được khiêng về thì em tĩnh lại . Nếu em trưởng thành chắc đã lãnh án tử hình vì có vài công an đã bỏ mạng trước mũi súng của em .

Với án tập trung cải tạo , không có ngày về . Còn nữa Anh Sơn , anh Doan biệt kích cũng là những chiến sỹ kiêu hùng .Trên đường đi về sau khi lao động , hai anh đã lẫn vào đám cỏ biến mất .Vài người có biết nhưng không ai báo cho quản giáo . Ðến khi điểm danh vào cổng mới thấy thiếu hai anh Nừa tháng sau , nghe tin hai anh đã bị bắt lại nhốt vào nhà Kỷ luật, khỏi phải nói hai anh lãnh đủ mọi đòn thù . Ða số các anh trong Nhóm phản động này đều xanh xao , và ho ra máu . Các anh cho biết bi công an tra tấn khi bị bắt vì tham gia phục quốc .

Vì vượt trại quá nhiều , Ðể trấn an và tìm kế hoạch chận đứng . Ban trưởng Hạnh cho triệu tập một cuộc họp gồm tất cả Quản giáo , Ðội trưởng , đội phó và Thư ký đội ( Trại có 54 đội ) ngoài ra còn có nhiều tổ biệt lập ..Mở đầu , Ban Hạnh yêu cầu tất cả mọi người cho biết sự thật , lý do tại sao gấn đây lại vượt trại nhiều . Ông ta hứa danh dự là không bắt tội vì nói sự thật, có đụng chạm với BCH trại .

Sau gần năm phút im lặng , một anh xin phát biểu như sau . Thưa Ban và Quản giáo . Không có gì khó hiểu cả ,. lúc còn ở Tổng trại 8 có hứa là sau 3 năm sẽ giải quyết cho về . Nay trên không giữ lời hứa . Là con người, chúng tôi có tình cảm . Vợ con ở nhà nheo nhóc , đói khát . Có chị phải bán thân trong tuổi nhục mà nuôi con chờ chồng . Ban có biết không .Các anh Ðại úy nhìn thấy Th/úy , Tr/úy chưa về thì đến bao giờ các anh mới được về đây ? Chỉ còn con đường vượt trại . Nếu một năm nữa mà không được về chắc bản thân tôi cũng phải tự ra đi . Ban Hạnh đánh rầm một cái xuống bàn quát im ngay . Sau đó ông ta hứa là sẽ cứu xét , đề nghị cho về , và đề nghị Trại viên an tâm , chấm dứt việc vượt trại . May mắn sau đó Ban Hạnh giữ lời hứa không truy cứu người phát biểu hôm đó .

Cái Tết năm 1979 lại qua trong lặng lẽ tại phân trại Bình Sơn . Những đợt về thì nhỏ giọt tượng trưng vài chục mạng . Lao động càng ngày càng gian nan, nên tiếp tục có những cuộc vượt trại .Tại Phân trại Bình Sơn , Tr/úy Hoành Biệt kích , hẹn cùng Quý người Ðà lạt cùng vượt trại . Ðây là nhóm hai người vượt trại ở Hàm Trí .Không biết lý do gì anh Quý thất lạc với anh Hoành , nên chỉ mình anh Hoành ra đi, còn anh Quý lẫn quẩn trong đêm bị Công an trại truy đuổi bắn chết khiêng về bỏ nằm trước trại cho tất cả thấy để dằn mặt .

Nhờ sư đấu tranh của Tù cải tạo mà Tháng 10/80 . Năm trăm người được thả về . Sau đó tháng 12 lại thả về vài trăm .Giừa năm 1981 coi như gần hết các anh em ở tổng trại 8 Sông Mao đươc về .Người Tù có cấp bậc cao nhất tai đây là Ðại tá Lương , Ông ta đã bị cô lập không cho chúng tôi tiếp xúc . Luôn luôn bị đám Trật tự rình mò theo dõi , Không biết ông về thời gian nào .

Ra khỏi nhà tù nhỏ , bước chân vào nhà tù lớn hơn . Tất cả Chiến Sĩ Quân lực VNCH bị đầy đọa về thể xác lẫn tinh thần . Hận thù triền miên do cộng sản tiếp tục gây ra biết đến bao giờ chấm dứt .

Ghi lại đây một đoạn đời bi thảm, không phải để kể lễ hay kêu than cho số phận của người lính, người dân Miền Nam bị bán đứng , đến nổi phải nát cửa tan nhà. Tất cả những giòng chữ trên đây đều là máu và nước mắt của không riêng tôi mà là của tất cả bạn bè đồng đội đã cùng bước vào cổng thiên đường xã nghĩa và một số may mắn trong số này có tôi đã trở về để làm một nhân chứng trước lịch sử dân tộc. Mục đích cũng chỉ thế thôi !

CAO HOÀI SƠN
Cựu Trung Uý QLVNCH
Lính Già 229/TKBT

Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tử


LTS- Hôm nay ngày 14 tháng 4 năm 2011, đúng 39 năm ngày thất thủ Charlie, chúng tôi xin đăng lại bài "Charlie, Ngọn Đồi Quyết Tử" để tưởng nhớ đến bao anh hùng chiến sĩ Nhảy Dù đã an nghỉ trong lòng đất mẹ Việt Nam. (Tredeponline.com)

Thơ và Hồi ký của Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập

Nửa ngày ở Dakto

Sớm mai bắn súng lên trời
Chào cô gái Thượng mang đời trên lưng
Buổi trưa xuống, phố tưng bừng
Chào nhau, Mũ Đỏ không mừng không lo.

Vào Charlie

Trăm con chim lạ về rừng
Cờ treo hai ngọn, lẫy lừng chiến khu
Kontum gió núi, sương mù
Theo quân vào cuộc, sinh, từ, quê hương
Ba lô, súng trận, sa trường
Tiếng quân reo, dấy biên cương ngút ngàn
Điệu sầu nửa phím tơ loan
Áo phong sương đã mấy lần tả tơi
Xung phong vũ khúc lên đồi
Bom rơi, pháo nổ, thây người ngả nghiêng
Tóc tai phủ mặt đêm đen
Đầy trời khói lửa Tam Biên, bảo bùng
Một thời ngang dọc kiêu hùng
Charlie gẩy cánh thiên thần. Tiếc Thương
Cánh dù lộng gió muôn phương
Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi
Tay khô đốt sáng đỉnh trời
Lập loè đốm lửa, thắp đời quạnh hiu.

Để kính nhớ cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn trưởng 11 Dù, và đồng đội tôi.
Để tưởng nhớ đề lô Tiểu đoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù, Trung úy Nguyễn Văn Khánh, Chuẩn Úy Sơn, và 10 đệ tử trong đó có hai đệ tử chúng tôi là Hạ sĩ Hạnh, Binh nhì Nhỏ còn ở lại Charlie...
Để tưởng nhớ anh em Không Quân đã hy sinh để bảo vệ chúng tôi suốt trận đánh lịch sử này...
Vào khoảng thời gian này, tất cả ám danh đàm thoại truyền tin của Pháo Binh Nhảy Dù đều bằng 4 con số, thí dụ như pháo kích gọi là 3113, bắn hiệu quả gọi là 3134, và tên các giới chức gọi bằng 3 con số, thí dụ như tên chúng tôi gọi là 314, mổi khi đụng trận, mọi tần số truyền tin đều chuyển qua hệ thống của đề lô cho dể tác xạ. Bài này sử dụng bạch văn cho độc giả dể hiểu.

(Tiếng động cơ trực thăng hoặc tiếng phi cơ vận tải dồn dập rồi đáp xuống). Những ngày gần cuối tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 2 Pháo Binh theo Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù đi hấp tại Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp ở Phước Tuy, giửa chương trình huấn luyện có một cuộc hành quân nhảy dù và có phi pháo yễm trợ bằng đạn thật. Cũng như những lần tập trước đây, bải đáp là một cánh đồng trống với nhiều bụi tre lúp xúp, khi toàn bộ Tiểu đoàn 7 và một Pháo đội Dù với 6 cây đại bác 105 ly kiểu M102 được trang bị vũ khí đầy đủ nhảy từ phi cơ 123 an toàn đáp xuống đất, là mở đầu ngay cuộc tấn công mục tiêu bằng đạn thật vào một khu rừng sát chân núi (tiếng đạn nổ trên mục tiêu). Cũng vào thời gian này Pháo Binh Nhảy Dù vừa mới được trang bị loại đạn cay CS 105 ly nên Tiểu đoàn của chúng tôi được lệnh phải bắn thử loại đạn này, tôi cùng một Tiền Sát Viên hình như là Trung úy Đỗ Trọng Dụng được lệnh đeo mặt nạ ngồi dưới hầm gọi tác xạ bắn ngay trên đầu mình để thử công hiệu.
Cuộc bắn thử này có nhiều giới chức quân sự cao cấp đứng trên một khán đài ở xa để quan sát. Tôi vừa hồi hộp vừa tự trấn an, ai bảo đi pháo binh, sinh nghề tử nghiệp mà, nếu điều chỉnh xa mục tiêu thì mất mặt KBC 4522, còn nếu bắn ngay trên đầu thì chiếc mặt nạ thổ tả này có chịu nổi hàng chục trái đạn cay hay không. Tôi chưa kịp lo ra thì Tiểu đoàn thông báo cho tôi xuống pháo đội lảnh hai đề lô đi tiền sát cho Tiểu đoàn 9 Dù. Một chiếc xe Dodge đưa ngược chúng tôi về Saigon, thầy trò vừa xuống xe vào trình diện Ban 3 Tiểu đoàn 9 thì lại được một công điện về trình diện Tiểu đoàn 11 của Trung Tá Nguyễn Đình Bảo để đi Kontum.
Những bất thường trong đời lính làm cho tôi không thấy có điều gì bất tường cả trong lệnh điều động này. Đầu năm 1972, chiến sự đã trở nên sôi động nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, cuộc chiến được gọi là chiến tranh ý thức hệ này cũng chẳng được giới sĩ quan trẻ như chúng tôi để ý nhiều, chỉ quan niệm đơn giản đến tuổi là phải đi lính để bảo vệ quốc gia. Mới đổi về Nhảy Dù đúng một năm mà đã tham dự hàng chục cuộc hành quân lớn nhỏ, cái chết lúc nào cũng cận kề làm tôi chẳng còn ý niệm gì về những cuộc ra đi của bạn bè về vùng 5 da ngựa bọc thây. Vì ở đâu, Nhảy Dù có đụng là đụng thứ thiệt, chơi thật sự với đại pháo 130 ly, với xe tăng T54, và biển người cỏ rác nhất định sinh Bắc tử Nam để thực hiện cho bằng được mộng làm tôi đòi cho cộng sản quốc tế của Bắc Bộ Phủ, ở đâu, chúng tôi cũng phải một đánh ba là thường xuyên, còn nếu không Bộ Tổng Tham Mưu chẳng bao giờ chịu sử dụng cả. Nhưng ở đây, Charlie, chúng tôi phải một đánh mười, Mặt trận B3 của cộng quân với Sư đoàn Thép 320, Sư đoàn 968, chưa kể các Trung đoàn pháo và phòng không dầy đặc đã sẳn sàng đợi Tiểu đoàn "Song Kiếm Trấn Ải " danh hiệu 11 Dù hai cây đèn cầy.
Phi cơ bay ra Pleiku ở một đêm, rồi hôm sau theo đường bộ ra Kontum, rồi đi Tân Cảnh theo Quốc lộ 14, dọc đường nhiều quán thịt rừng mọc lên làm tôi nhớ lại Saigon, những bửa còn tiền thì đấu với đại võ sĩ Rémy Martin hoặc cạn túi thì chơi với võ sĩ hạng lông rượu rắn tại Quán thịt rừng Tân Vạn, gần hậu cứ Nguyễn Huệ. Xe qua Căn cứ B5 rồi Diên Bình, những người lính Địa Phương Quân đứng trên cầu vẫy tay cười cười, cái khung cảnh bình yên này chỉ trong thời gian ngắn nửa thôi là có chuyện lớn xảy ra, đó là cái bất tường của đời lính. Tại Bộ Chỉ Huy Lữ đoàn 2 Nhảy Dù ở Võ Định, tôi nhận bản đồ hành quân từ Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Dù của Thiếu Tá Bùi Đức Lạc (hiện ở San Jose), là vị Tiểu Đoàn Trưởng tiền nhiệm của Tiểu đoàn tôi, và chuẩn bị nhảy vào Charlie. Sĩ Quan Liên Lạc Pháo Binh Tiểu đoàn 11 Dù tức đề lô chúa là Trung Úy Lưu Văn Đúng danh hiệu 310, một đàn anh chưa bao giờ chịu học nhảy dù, đã triệu tập chúng tôi lại phân chia và thông báo nhiệm vụ, Trung úy Nguyễn Văn Khánh danh hiệu 311, cũng là bạn cùng khóa với tôi là đề lô Đại đội 111 của Trung úy Thinh. Chuẩn Úy Sơn danh hiệu 312, đề lô Đại đội 112 của Đại Úy Hùng móm. Chuẩn Úy Trưng danh hiệu 313, đề lô Đại đội 113 của Đại Úy Hùng mập. Trung úy Nguyễn Văn Lập danh hiệu 314, đề lô Đại đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho (hiện nay ở Quận Cam). Đại đội 110 của Đại Úy Nho đóng chung với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11. Pháo binh từ Căn cứ 5 danh hiệu 415, Pháo binh Căn cứ 6 danh hiệu 416, Căn cứ Yankee của Pháo đội D1 ở hướng bắc danh hiệu 417, và Pháo đội C1 danh hiệu 418 với 1 trung đội 155 ly C 220 danh hiệu 419 ở hướng Nam yễm trợ trực tiếp hoặc tăng cường cho chúng tôi theo yêu cầu. Nhìn một dọc các căn cứ hỏa lực yễm trợ cho Tiểu đoàn 11, tôi nhận thấy ngay tình hình rất là nghiêm trọng, và một cuộc tapi khốc liệt sẻ diễn ra trên ngọn đồi vô danh nào đó nằm sâu trong dảy Trường Sơn.
Sáng ngày 25 tháng 3 năm 1972, Tiểu đoàn 11 được trực thăng vận bốc vào vùng hành quân, phi cơ bay ngang Tân Cảnh nơi đúng một năm trước đây, sau Hạ Lào, một số đơn vị của Sư đoàn Nhảy Dù từ Quãng Trị bay thẳng về đây giải tỏa Căn cứ 5 và Căn cứ 6. Cuộc hành quân ngoạn mục nhảy ngay trên đầu địch làm cho chúng bất ngờ và nhiều trăm tên bị tan xác tại đây, Đại Tá James Vaught, Cố Vấn Trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù đã gọi máy về MACV tại Saigon yêu cầu những tên nhà báo ngoại quốc phản chiến bay ra đây nhìn xem Nhảy Dù đánh giặc rồi về tường thuật lại cho trung thực, nhưng chẳng có tên nào dám ra. Lúc này cuộc hành quân đang đi vào giai đoạn chót, tôi từ Tiểu đoàn 183 Pháo binh dã chiến Long Khánh về trình diện Thiếu Tá Lạc tại vùng hành quân và được vị Tiểu đoàn trưởng chịu chơi cho 4 ngày phép về Saigon coi như một đặc ân về Pháo Binh Nhảy Dù, đồng thời xù luôn 4 ngày trọng cấm mà Trung úy Toàn, Chỉ huy hậu cứ ( hiện ở tại San Jose) tặng cho tôi về tội dám cãi lại quan anh ngay lúc tôi còn mặc bộ đồ xanh bộ binh về trình diện Dù. Từ trên trực thăng nhìn xuống, ở xa về hướng nam, con sông Pôkô màu bạc uốn khúc theo dẫy Trường Sơn rồi đổ ra cắt ngang quốc lộ 14, đẹp như một nét chấm phá của thiên nhiên, và dẩy Trường Sơn ở hướng Tây trùng điệp những đồi núi ngút ngàn với hầu hết là những ngọn đồi trọc lá trơ cành, giơ những cánh tay khẳng khiu lên không như cầu nguyện cho một thiên đường vừa đổ vở. Hai chiếc Cobra bay phía trước hộ tống cho những chiếc chuồn chuồn UH1B đáp xuống căn cứ Charlie, không có màn bắn dọn bải đáp vì đã có quân ta đáp xuống trước, những người lính dù nhảy xuống trực thăng rồi tản ra hai bên ghìm súng phòng thủ sát giao thông hào, và tôi đã có mặt tại ngọn đồi vô danh mà sau này đã đi vào chiến sử Nhảy Dù như một địa danh bất khuất không thể nào quên của người lính quốc gia, cũng như làm cho tất cả quân dân cả Miền Nam biết đến qua bản nhạc "Người Ở Lại Charlie" của Trần Thiện Thanh.
Theo sự bố trí, Đại đội 113 nằm phía bắc dưới chân đỉnh Yankee, cách Tiểu đoàn gần 3 cây số. Đại đội 111 thủ Charlie cao độ trên 1000 mét. Còn lại Bộ chỉ huy Tiểu đoàn và các Đại đội 110, 112, và 114 đóng quân tại căn cứ C2 cùng dẩy núi thoai thoải nhưng cao hơn và cách Charlie gần nửa cây số. Nhìn trên bản đồ thì tất cả các đơn vị của Tiểu đoàn 11 Dù đóng quân trên một trục Nam Bắc khá thẳng để dể quan sát về hướng Tây giáp với Kampuchia, nơi đường mòn Hồ Chí Minh rẻ ra các ngả vào ba biên giới Việt Miên Lào ở phía Tây Bắc, còn Căn cứ biên phòng Benhet thì nằm sâu gần biên giới hơn. Suốt trận chiến Charlie nổi tiếng trong quân sử, Benhet vẫn bình yên vì cộng quân dồn mọi nổ lực để nhổ cái gai Charlie nằm chận cuống họng xâm nhập vào Tỉnh Kontum qua ngả Dakto. Charlie là một căn cứ hỏa lực nhỏ của Mỹ bỏ đã lâu giờ trông rất hoang tàn, khi Tiểu đoàn 11 đổ quân xuống, sửa sang lại giao thông hào và giăng lại kẽm gai cho tiện việc phòng thủ. Bao quanh Charlie là những ngọn núi cao thấp với cao độ trên một cây số. Phía Tây dưới chân Charlie có một con suối nhỏ dốc đứng rất khó lên xuống nhưng nguồn tiếp tế nước uống và tắm rửa cũng từ con suối này. Trận chiến diễn ra ác liệt tại quanh khu vực này nên gọi chung là trận Charlie.
Đại đội 114 đóng vòng cung phía Nam chịu trách nhiệm nặng nhất vì địa thế thoai thoải dể đánh lên, và ngoài phòng tuyến cở 50 mét có nhiều cây cao rất dể cho cộng quân nấp vào đó mà tấn công, và trận chiến bắt đầu cũng từ hướng này trước. Chưa bao giờ tôi thấy một Đại đội trưởng cho đào một cái hầm trú ẩn hình chử nhật to và kiên cố đến như vậy với nắp hầm vừa thân cây vừa bao cát cao đến gần 1 mét, Trung úy Cho bảo tôi ra gần ngoài tuyến tìm chổ đào hầm, tôi nói tôi yễm trợ cho Trung úy, nếu Trung úy nằm đâu thì tôi nằm đó. Trung úy Cho đành để tôi ở chung trong hầm, nhờ vậy sau này tôi thoát chết dưới làn pháo khủng khiếp của cộng quân. Tôi bảo hai đệ tử Hạnh và Nhỏ ra gần ngoài tuyến tìm chổ đào hầm, còn máy PRC 25 thì đưa cho tôi, và thỉnh thoảng chạy vào xem tôi có cần gì không. Chiều xuống, như thường lệ khi đi trận, tôi gọi 417 tác xạ phòng thủ lập một số tuyến cản theo hình vòng cung ngoài vòng vị trí khoảng 100 mét (có tiếng pháo binh bắn điều chỉnh), xong yêu cầu gửi yếu tố tác xạ đến các căn cứ khác để bắn theo yêu cầu khi cần. Nhờ những tuyến cản này mà chúng tôi đã giữ được phía Nam C2 cho đến ngày Charlie thất thủ. Đêm đầu tiên, tôi ngủ không được vì những tiếng rì rì của xe cơ giới chạy suốt đêm, từng đoàn xe Molotova và có cả tiếng xe tank chạy trong dảy Trường Sơn, hướng Tây và Tây Nam cách căn cứ Charlie không xa, quân xa cộng quân mở đèn chạy công khai như xa lộ không người. Tôi chấm một số điểm đâu đó trong rừng tình nghi là đường mòn theo hướng xe chạy để bắn quấy rối (harassing fire), khi pháo binh ta bắn, quân xa địch tắt đèn ngưng chạy, hết loạt đạn, chúng mở đèn chạy tiếp, đêm nào cũng thế, ngoài tầm bắn của pháo binh ta nên bọn chúng gần như công khai di chuyển. Chắn chắn chúng đang mở chiến dịch lớn lắm nên mới ồn ào điều quân như thế này, và Quân đoàn II cũng biết như thế nhưng không hiểu tại sao không cho B52 dập.
Ngày hôm sau 26/3/1972, tôi theo Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu đoàn phó danh hiệu Mê Linh (hiện nay ở San Jose), dẫn hai đại đội 112 và 114 đi đánh giải vây cho một đơn vị Tiểu đoàn 2 Dù ở hướng Nam. Mục tiêu là một đỉnh đồi cách Charlie khoảng gần 1 cây số, cộng quân thuộc Trung đoàn 3/ 320 đã chiếm ngọn đồi này và xác một Chuẩn Úy của ta vẫn còn đó. Gần đến nơi, Thiếu Tá Mễ gọi tôi bắn dọn đường xong chuyển xạ bằng một quả khói lên ngay trên đỉnh đồi cho phi cơ nhận diện đánh bom, rồi pháo binh làm tiếp .
-418 đây 314 xin tác xạ. Hết.
-314 đây 418 xin tác xạ. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói nổ chạm. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
-Lệ Hằng phải 1.5 lên 2.3. Một khói. Hết.
Độ hai phút sau.
-Bắn. Trả lời.
-Bắn. Hết. (tiếng pháo nổ)
Thiếu Tá Mễ liên lạc với đứa con đi đầu, xong xin điều chỉnh tác xạ
-Hướng 800. Gần lại 100. Một khói . Hết.
-Hướng 800. Gần lại 100. Hết.
Đến quả đạn khói thứ hai thì điều chỉnh vào đúng mục tiêu, dứt trái khói, Mê Linh nói tiếng Anh như gió liên lạc thẳng với phi cơ Phantom Mỹ nhào xuống thả bom, rừng núi rung chuyển như cơn địa chấn vì mục tiêu cách chúng tôi chỉ hơn 100 mét (tiếng bom nổ). Khi phi đội rời mục tiêu, tôi xin pháo đội bắn hiệu quả 10 tràng vừa đạn nổ vừa delay để phá hầm, khẩu 3 (đang điều chỉnh) bắn trước một quả (mổi pháo đội có 6 đại bác tức là bắn 60 quả). Mê Linh dặn tôi khi dứt loạt đạn này là xung phong. Tôi trình Mê Linh để tôi chuyển xạ ra phía sau thành một tuyến lửa không cho tụi nó chạy, phải chấp nhận giao chiến với mình. Mê Linh OK. Dứt loạt đạn hiệu quả, pháo đội chuyển xạ thành một tuyến phía sau. Trung đội đầu tiến dè dặt vì địa hình không cho phép và đạn AK từ phía trên đỉnh đồi bắn xuống xối xả không xung phong được. Từng khinh binh Dù tiến lên theo thế chân vạc. Đạn AK và M16 thi nhau nã từng loạt (tiếng súng nổ rời rạc). Dù len từng gốc cây, người này bắn che cho người khác tiến, và cuối cùng lên được triền đồi. Toán đầu tiên báo cáo sơ khởi dứt được hai vịt con (tức Việt cộng) tịch thu được 1AK, 1 CKC, và tìm được xác viên Chuẩn úy Tiểu đoàn 2 Dù cùng một binh sỉ. Mê Linh bảo ráng lên đến đỉnh xem có gì không. Vừa dứt lời thì tiếng depart đại bác từ phía Tây bắn tới cắt ngang hông Dù. Xịt oành, Xịt oành. Tiếng đại bác này là sơn pháo 75 ly không giật có sơ tốc độ cao nên vừa nghe tiếng depart là nổ liền. Dù bị đánh ngang hông, vừa dứt loạt pháo là bộ binh địch tràn lên cũng từ phía Tây. Mê Linh cho toán đi đầu lùi lại tránh pháo, kết quả ta chết một, bỏ lại một M16. Lúc này thì địch đã ngưng pháo chỉ dùng súng nhỏ. Mê Linh cho rút toàn bộ về nhập lại một vì sợ địch cắt đôi. Địch vẫn tiếp tục bắn theo. Mê Linh bảo tôi bắn chận.
-418 đây 314. Mục tiêu. Hướng 1000. Gần lại 200. Một nổ. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
Lúc này Pháo đội C1 đã biết chúng tôi bị đánh ngang hông nên đã sẳn sàng bắn chận. Oành. Một tiếng nổ lớn như tiếng sét đánh ngay trên đầu, mãnh đạn bay túa túa, tiếng cành cây bị chém gảy rớt xuống đất nghe rào rào, xong hoàn toàn im lặng, có thể nói một tiếng thở kế bên cũng nghe rỏ. Chiến trường hoàn toàn im tiếng súng. Tôi biết đạn đạo chạm cành cây nên nổ trên không thay vì rớt xuống đất mới nổ, vì gấp rút quá nên tôi không cho bắn đầu nổ cao, mặc dù tôi đã trừ hao yếu tố nhưng đường tên đạn đạo chạm nổ trên cành, và đã vô tình ngăn chận địch không dám liều lĩnh truy nã. Tôi trình với Mê Linh:
-Thiếu Tá hỏi xem con cái mình có bị gì không, còn tụi vịt con tôi đoán thế nào cũng lãnh đủ trái này, mình giử nguyên yếu tố này, nếu tụi nó lên, mình dứt nó liền. Lúc này thì Cobra cũng lên vùng nhưng chưa bắn. Tiểu đoàn trừ cũng dừng lại dàn hàng ngang đề phòng địch xung phong. Một lúc sau, tôi nghe nói Trung úy Lạc, Đại đội 112 là người bạn cùng Khóa 27 Thủ Đức với tôi bị mãnh đạn chém ngay đầu bị thương nặng. Tôi bò lại thấy Lạc nằm gần đó mở đôi mắt lờ đờ, đầu quấn băng, máu tuôn xối xã. Tôi nằm xuống ghé sát tai Lạc nói:
- Tao xin lổi, tao bắn đó, chỉ có mình mày lãnh trái này, còn tụi nó không dám tấn công nửa nên chưa biết thế nào, mày mà chết tao ân hận lắm, phải bắn chận nếu không tụi nó tràn lên.
Lạc chỉ mĩm cười héo hắt, còn tôi thì hết sức buồn bả hỏi tiếp:
-Mày thấy thế nào.
-Đau, không còn cãm giác gì hết. Thấy Lạc tỉnh táo như thế tôi càng lo hơn vì người bị thương nặng trước khi chết thường rất bình tỉnh như thế. Tôi lại nói với Lạc như nói với một người sắp chết:
-Một lần nửa, tao xin lổi mày. Nói xong tôi bò lại phía Thiếu Tá Mễ. Nhờ quả đạn đại bác này mà địch không dám đuổi theo. Trời đã gần chiều nên có lệnh trở về căn cứ, Lạc cũng được trực thăng di tãn. Trong lúc hai đệ tử lo ăn uống còn tôi xuống suối tắm. Tại đây tôi gặp Trung Tá Bảo cũng vừa đi xuống tắm, thân hình ông cao lớn và nụ cười rất dể thương, nhưng tôi thấy lạ một điều là ông mặc áo giáp khi đi tắm, và chỉ có ông là duy nhất mặc áo giáp mà thôi. Điềm gì đây, hay là ông đã linh cãm được điều gì.
Sáng ngày 27/3/1972, trong lúc tôi ăn cơm thì có một người lính chạy vào nói Thiếu Tá Mễ gọi. Tôi xách máy chạy ra ngoài tuyến giửa Đại đội 112 và 114 thì thấy Thiếu Tá Mễ và Thiếu Tá John Duffy (hiện ở San Jose), cố vấn Mỹ đang ngồi sát gốc cây nhìn về phía trước mặt chỉ chỉ. Lính gác phát giác địch xuất hiện phía bên kia triền đồi hướng Tây Nam căn cứ Charlie, bọn chúng đang đi lên đồi như đi chợ. Thiếu Tá Mễ hối tôi :
- Bắn nhanh lên không tụi nó đi hết.
Địch xuất hiện khá xa cở bảy tám trăm mét đường chim bay, tôi quay sang Thiếu Tá Duffy hỏi có đem theo ống dòm cho tôi mượn, xa quá mắt thường bắn không chính xác, Thiếu Tá Duffy chạy vội về hầm rồi trở lại đưa ống dòm cho tôi. Tôi giở bản đồ và địa bàn ra nhắm mục tiêu, xong chấm điểm địch xuất hiện rồi mở máy gọi 417 ở Yankee xin bắn, và gọi thêm 415 tăng cường. Quả đạn nổ đầu tiên cách mục tiêu khoảng 200 mét, điều chỉnh một lúc vào đúng mục tiêu, xong vạch một tuyến dài cở 300 mét trên bản đồ xin 417 và 415 chia nhau bắn, vừa gọi bắn tôi vừa nói
-Bảo đảm thế nào tụi nó cũng khiêng đó Thiếu Tá.
Thiếu Tá Mễ lại hối:
- Nếu trúng rồi bắn hiệu quả luôn.
Sau loạt đạn cuối cùng độ 10 phút, quả nhiên địch cứ hai thằng dìu một thằng bị thương đi ngược xuống đồi, tôi đưa ống dòm trình lại với Mê Linh:
-Trúng rồi, Thiếu Tá nhìn xem tụi nó khiêng xuống đồi kìa. Thiếu Tá Mễ xem xong đưa máy cho Thiếu Tá Duffy rồi lại hối tôi bắn hiệu quả (fire for effect). Tôi đề nghị:
-Đề nghị Mê Linh cho tụi nó dìu em xuống đồi, đồi cao như vậy thế nào tụi nó cũng phải tập trung dưới chân đồi băng bó và nghỉ mệt một lát rồi mới di chuyển, đợi tụi nó tập trung đông mình làm một lần đưa em vào hạ, dứt cội da. Thiếu Tá Mễ phì cười nói OK. Còn Thiếu Tá Duffy không hiểu tiếng Việt cũng nhe răng cười theo nói OK đô.
Tôi gọi xin chuẩn bị bắn T.O.T (time on taget) tức là các vị trí pháo binh xa gần bắn trước sau nhưng cùng lúc đạn nổ trên mục tiêu, đợi 20 phút sau khi địch không còn khiêng quân xuống đồi nửa, tôi cho lệnh tác xạ. Lúc này thì họ nhà pháo cũng đã biết tin nên đích thân Bùi Đức Lạc cho bắn tối đa, tiếng đại bác từ các căn cứ thi nhau rót vào mục tiêu, còn Mông Cổ nhà ta (anh em đùa vui Nhảy Dù dũng mãnh như quân Mông Cổ) thì đứng dọc theo chiến hào quan sát như là một chuyện thường tình (tiếng đạn pháo nổ tới tấp). Dứt loạt đạn tôi hỏi xem mình có lục soát không, Thiếu Tá Mễ nói để Trinh Sát làm chuyện này. Đến trưa thì một loạt đạn pháo binh của địch từ dẩy đồi hướng tây đối diện và chỉ cách khoảng hơn một cây số với Đại đội 112 bắn qua, tiếng depart cũng giống như đã bắn hôm qua, vậy là tụi nó đưa 75 ly nhắm qua thằng 312 để trả lể rồi, tiếp loạt đạn này là những trái đạn 105 ly rồi hỏa tiển 122 ly thi nhau rót xuống Charlie mở đầu cho trận chiến khốc liệt nhất tại Quân khu 2 từ trước đến nay, và từ đó Charlie không một phút nào bình yên.
Trừ 75 ly không giật bắn thẳng trúng mục tiêu thì những loạt đạn khác rơi đâu đó ngoài căn cứ Charlie, như vậy là tụi nó không có đề lô, anh em đề lô chúng tôi thay nhau đo hướng và phản pháo, khi chúng tôi phản pháo thì địch im tiếng súng, dứt loạt pháo là bọn chúng trả lễ. Các cuộc đấu pháo diễn ra như cơm bửa, và là lần lần thì những loạt pháo binh tầm xa của địch rơi trúng căn cứ, đến ngày 29/4/1972 thì chúng đã điều chỉnh pháo binh được toàn bộ Charlie mà nặng nhất là vào C2. Chúng tôi biết đề lô của địch đã áp sát được căn cứ và điều chỉnh được mục tiêu. Tôi nói với Trung úy Cho:
- Tôi nghỉ mấy ngày đầu tụi nó pháo thăm dò khả năng mình, sau đó mới kéo 130 ly đến gần để bắn chính xác hơn và cũng ngoài tầm phản pháo của ta (đại bác 130 ly của địch bắn xa 32 cây số, còn 155 của ta thì 15 cây số, và 105 ly của ta thì chỉ gần 11 cây số mà thôi), chổ mình dể lên hơn cả, thế nào tụi nó cũng đánh hướng mình.
Sau đó tôi cũng chia xẻ mối âu lo này cho Trung úy Đúng:
- Tụi nó chắc chắn sẻ tapi tôi sau màn pháo kích dữ dội, những yếu tố tác xạ tôi đã điều chỉnh xin 310 gọi bắn phụ nếu tôi bắn không kịp. Trung Úy Đúng nói
- Tôi cũng nghỉ như vậy, chổ của 314 dể lên lắm.
- Tôi thấy khói xịt từ ngọn đồi ngay trước mặt thằng 312 bắn qua, có lẻ 75 ly hoặc 57 của tụi nó trực xạ rớt qua luôn bên tôi sao không thấy thằng 312 gáy (xin bắn).
-314 quan sát được bắn luôn đi, khỏi nhờ 312. Hết.
Dứt chử "hết" tôi hiểu ngay Chuẩn Úy Sơn đề lô Đại đội 112 bị pháo kích đã tử trận. Tôi vẽ thêm tuyến pháo binh cận phòng trùm lên thêm hướng Tây Nam để bắn che cho Đại đội 112. Lợi dụng pháo binh tầm xa pháo kích, 75 ly của địch bắn thẳng từng vị trí của ta mà không sợ phản pháo vì chúng tôi phải chui vào hầm tránh pháo. Dứt loạt pháo tôi chạy vội ra tuyến điều chỉnh pháo binh bắn cấm chỉ (tức là bắn rời rạc thỉnh thoảng từng quả không cho địch hoạt động) vào vị trí pháo trực xạ của địch, nhưng không hề hấn gì, chắc tụi nó khoét hầm trong núi, mổi lần pháo tầm xa pháo kích thì chúng kéo súng ra bắn theo để khỏi lộ vị trí. Tôi gọi 310 xin mổi lần tôi bị xơi pháo thì cứ gọi Phở Bò (pháo binh) nào của ta rảnh thì bắn cấm chỉ không cho tụi nó kéo pháo ra trực xạ.
Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mổi ngày cở ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly, và cả hỏa tiển 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc tụi tôi bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lãnh pháo? Lúc này Đại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn II Dù ở Căn cứ Võ Định cũng đã trình lên cấp trên xin cho 11 Dù rút ra ngoài căn cứ, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lãnh pháo như thế này thì phản chiến thuật quá. Nhưng Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ gì chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên trì áp lực...tử thủ, chắc là định dùng 11 Dù nhử cho địch lên tapi như Đại Đội 2 Trinh Sát Dù tử thủ ở Đồi C1 dứt gần hết cả Tiểu đoàn cộng quân nằm phơi xác ở đồi C1, vì trận này mà cộng sản đã lên án tử hình Đại úy Trương Văn Út, Đại đội trưởng Trinh Sát 2 Dù và thề tiêu diệt đại đội này. Quân đoàn II còn lệnh cho 11 Dù ra hố pháo tìm chứng tích của đầu nổ130 ly mới cho B52 dập. Quân đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân số 11 Dù bị loại ra ngoài vòng chiến vì đạn pháo và chưa đươc di tản. Cái hào quang chiến thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Dù thật quá đắt, và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng bắn và bới tìm đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây. Hằng trăm thương binh, mấy chục binh sỉ tử thương vì pháo còn chưa di tản được nằm đầy các giao thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2 500 mét thì nói gì đáp xuống tãi thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một pass B52 đánh về hướng Nam gần Charlie thì nhằm nhò gì, pháo của chúng đặt về hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số thì không dập. Mổi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ còn biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản pháo nếu có thể. Tình hình hết sức khẩn trương, nếu không có lệnh rút, chắn chết hết vì pháo.
Sáng sớm ngày 01/4/72, đúng như chúng tôi dự đoán, sau màn điểm tâm đại pháo các loại, địch bắt đầu tấn công từ hướng Nam Charlie trực diện Đại đội 114. Địch đông như kiến bám theo các thân cây cổ thụ dùng đủ các loại súng bắn thẳng vào vị trí Dù, trong lúc đó, đề lô địch cũng chuyển xạ vào các vị trí pháo binh của ta để cấm chỉ không cho yễm trợ. Lúc này đã lộ rỏ ý định của địch, mấy hôm nay, chúng chỉ pháo kích Charlie chứ không pháo vị trí pháo binh của ta, để ta lầm tưởng chúng chỉ pháo kích Tiểu đoàn 11 chứ không đánh, rồi ta chỉ lo phản pháo mà quên đi bộ binh của chúng đang im lặng tiếp cận ta. Như vậy có thể Charlie bị bao vây rồi. Cũng may việc giương đông kích tây này mà các pháo đội của ta không bị pháo binh địch điều chỉnh chính xác, cho nên còn rảnh tay yễm trợ được cho tôi. Trước mặt chúng tôi tôi là đơn vị tinh nhuệ nhất của cộng sản Bắc Việt, Sư đoàn 320 có một Trung đoàn có biệt danh là quả đấm thép đang dàn hàng ngang trước mặt chúng tôi ồ ạt xông lên bất kể phi pháo, Đại đội 114 anh dũng bắn trả, Đại đội 112 cũng tiếp ứng, những người lính Dù thiện chiến nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đứng thẳng từ các chiến hào đan một lưới lửa ra ngoài phòng tuyến, và tất cả hệ thống tác xạ pháo binh đều chuyển qua hết tần số của tôi, sẳn sàng gom bi.
-415, 416, 417 đây 314 xin tác xạ, địch tấn công, trường ca L1, L2, L3 (các hỏa tập pháo binh làm thành những tuyến cản). Một quả. Bắn khi sẳn sàng. Hết.
Không cần tôi xin tác xạ. Các pháo đội đạn đã lên nòng khi biết tôi bị tấn công, nên khi nghe được tiếng tôi gọi bắn thì đã nghe tiếng depart, những tiếng hú rợn người lướt qua đầu, đất tung mù mịt trước mắt.
- Các trường ca. 5 tràng. Bắn hiệu quả. Hết.
Đạn túa túa hú gọi mục tiêu, những cây cổ thụ bật gốc ngoài phòng tuyến, bụi tung mù mịt, cứ hể dứt loạt đạn pháo của ta thì địch cũng nhỏm dậy bắn vào, chúng đã đào các hố núp ngoài vị trí nên liều lỉnh bắn che cho tốp khác từ hướng tây nam tiến lên, bất kể đạn pháo, những con thiêu thân dàn hàng xung phong lên đồi. Lúc này thì phi cơ đã lên vùng sẳn sàng thả bom, Trung úy Cho nói với tôi:
-Nếu tụi nó vượt được hàng rào thì bắn ngay sát tuyến của mình. Tôi trả lời :
-Trung úy bảo các con đội nón sắt và mang luôn ba lô luôn che phía sau lưng, lở có trái nào lọt vào tuyến thì phải chịu, nếu chịu tôi mới dám bắn.
Trung úy Cho nói OK, và tôi gọi các vị trí bắn gần lại từng chục mét cho đến khi sát tuyến. Những loạt đạn cận phòng này rất có hiệu quả và không biết có quả nào lọt vô luôn trong phòng tuyến hay không vì đạn pháo của cả hai bên lúc này bắn dử quá. Sau mổi loạt pháo tôi lại nhỏm dậy nhìn ra ngoài, xác địch đầy ngoài tuyến nhưng chúng vẫn bám chắc không chịu rút lui. Tiếng súng lúc này đã rời rạc, có thể chúng chỉ lui lại để làm một cái gì đó. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 bảo ngưng tác xạ để tụi Tây (tức phi cơ Mỹ) nó làm việc, những chiếc phóng pháo cơ vào vùng nảy giờ gầm thét ngang trời thả những loạt bom ngoài vòng rào, chỉ cách vị trí cở 50 mét, những núi lữa bốc lên cao sau mổi tiếng nổ. Lần đầu tiên trong đời lính, tôi thấy Nhảy Dù chịu chơi dám thả bom gần như vậy và bắn pháo binh cách mình hai ba chục mét (hiệu quả sát hại của pháo binh 105 ly là từ 50 đến 100m, bắn cách mình cở hai ba chục mét là rất liều lĩnh và hết sức nguy hiểm). Con cháu bác và đảng cũng không ngờ những người lính Dù chịu đựng dưới mưa pháo khủng khiếp nhiều ngày, phòng tuyến bể hết mà vẫn gan dạ tử thủ như thế.
Bên tai tôi có tiếng gọi của Thiếu Tá Lạc, ông bảo tôi có cần gì thì tất cả đều sẳn sàng, và tôi trả lời nếu gà mình còn gáy (tức pháo binh còn bắn), thì không có tên răng đen mã tấu nào nào có thể bước qua 114 được. Sở dĩ tôi dám khẳng định như vậy là nhờ tinh thần chiến đấu dũng mảnh của anh em 114 Dù cho tôi sự an toàn trong lúc gọi pháo, nếu không thì bể tuyến lâu rồi. Còn Trung úy Đúng thì rất tế nhị không xen vào hệ thống tác xạ, để dành hết thời gian cho tôi gọi các pháo đội bắn, 310 cũng dặn tôi cẩn thận, tụi nó tạm yên là có vấn đề mới, nhớ canh chừng thêm phía thằng 112. Vừa lúc đó thì hàng loạt tiếng depart từ trong núi vọng về, thôi rồi, lần nầy chúng tập trung tất cả các loại pháo chứ không riêng gì 130 ly rót tới tấp vào vị trí ta, ít nhất cũng 5 vị trí pháo của chúng bắn đồng thời vào C2, đây là một kiểu bắn T.O.T giống như của ta, C2 rung lên dưới những cơn địa chấn, tôi chạy vội vào hầm, tất cả các vị trí tác chiến và pháo binh của ta đều bị pháo, tiếng các pháo đội gọi báo cáo ồn hẳn lên trên hệ thống rồi im lặng vô tuyến, có vị trí trúng pháo nhưng không trúng hầm đạn nên không có tiếng nổ phụ. Tụi nó mà điều chỉnh được các vị trí pháo của mình thì bỏ bú, vừa lo sợ tôi cũng vừa tìm những ngôn từ dễ thương như thế để trấn áp nổi hồi hộp, sau loạt pháo này là chúng mày sẻ tràn biển người lên lấy thịt đè người, Nhảy Dù cố gắng, Nhảy Dù cố gắng, tôi lẩm bẩm bốn chử đơn giản này, binh chủng chúng tôi không có những khẩu hiệu đao to búa lớn, rất đơn giản như một sự cố gắng, anh em quân đội hết thế hệ này đến thế hệ khác cố gắng làm cho máu đồng bào bớt đổ bằng chính máu của mình. Trong tiếng pháo nổ vang trời, tôi nhấc máy gọi 310:
-310 có nghi tụi đề lô nó áp sát mình không, nghi tụi nó ở đâu thì con gà nào của mình "quởn" cho gáy đại vài tiếng dằn mặt tụi nó cho biết thế nào là lễ độ, chứ chơi như vậy hiếp quá. Nhưng 310 vẫn im lặng. Một sự im lặng rợn người vì tất cả im lặng chờ đợi.
Dứt loạt pháo bắn T.O.T này, quả nhiên địch hô xung phong, nhưng tiếng hô xung phong càng lúc càng yếu, chúng tôi đã quen thuộc kiểu này, chúng mày chém vè ai mà không biết, chắc chắn chúng mày bị thiệt hại rất nặng nếu không thì đã là nhào lên tiếp để...lãnh đạn rồi. Những tiếng pháo thưa dần tại C2 nhưng các vị trí pháo của ta vẫn còn bị cấm chỉ, tôi nhìn ta phía Yankee, những cột khói bốc lên, rồi căn cứ 5 và căn cứ 6 cũng thế, tụi nó đang điều chỉnh pháo binh. Thấy mẹ rồi.
Chiều đang xuống dần, những người lính cũng vội vã sửa lại hầm hố, đào giao thông hào cho sâu thêm, người chết và thương binh tăng thêm làm nặng thêm mối âu lo của Tiểu đoàn, tôi chạy vội ra phía hai đệ tử đang ngồi chong mắt nhìn ra ngoài tuyến, trên tay hai đứa có hai cây M16 và dây đạn từ lúc nào (hai đệ tử pháo binh mang máy cho ông thầy thường không đem theo súng).
- Khỏi cần nấu cơm, tao ăn cơm sấy được rồi, có gì nhớ kiếm tao. Hai đệ tử nhìn tôi, lo lắng, tôi hất mặt về hướng đông căn cứ không nói, nhưng chúng cũng hiểu tôi nói gì.
Một đơn vị tổng trừ bị cơ động vào bậc nhất của quân đội bị chôn chân làm vật tế thần, đóng quân ở Charlie ngày ngày ăn pháo không khác nào con dê bị trói vào cột đợi ngày hiến tế, Việt cộng quá nóng lòng đánh gấp để lấy tiếng trên bàn Hội nghị Paris là đã tiêu diệt được một đơn vị Nhảy dù, chứ nếu chúng khôn ngoan một chút thì chỉ cần pháo thôi là cũng đủ tiêu tùng hết. Tiểu đoàn xin rút, Lử đoàn xin rút, Quân đoàn cũng không cho, có một âm mưu gì muốn chúng tôi thân bại danh liệt tại ngọn đồi vô danh này, họ muốn biến những người lính 11 Dù thành những chiến sỉ "L'enfer Des Hommes" tức là những người ra đi không về trên ngọn đồi quyết tử trong bộ phim vừa chiếu ở Saigon hay sao, nếu là những đơn vị khác thì đã rút đi lâu rồi. Thật oan nghiệt cho những người lính mang danh những đứa con của Thần Chiến Thắng Micae (Tổng Lãnh Thiên Thần Micae là Thánh bổn mạng của binh chủng Dù Việt Nam Cộng Hòa).
Những ngày hôm sau địch tiếp tục pháo căn cứ, và sau loạt pháo là mon men đánh thăm dò tiếp Đại đội 114. Liên tiếp trên một tuần, 114 bị tấn công nhưng mức độ chỉ vừa phải, và không lần nào địch vào được sát tuyến, sau mổi lần tấn công thất bại, đêm về là chúng bò lên lấy xác, và Đại đội 114 cũng không buồn bò ra ngoài thu chiến lợi phẩm. Sau mổi đợt pháo kích, căn cứ càng xơ xác không còn nhìn ra hình dáng nửa, từng tấc đất bị xới lên, mùi thuốc súng nồng nặc khắp nơi, cây cối bị khói ám đen thui và bị mãnh đạn pháo chém ngang dọc ngả nghiêng, hầm hố tanh banh, tôi có cãm tưởng một con kiến cũng không sống được, những cuộn băng vết thương văng tung tóe dính trắng xóa trên các ngọn cây, địch đã điều chỉnh được toàn bộ căn cứ C2, pháo vô là trúng phóc. Những hàng dây kẽm gai cao ngang ống chân ngoài tuyến Đại đội 114 giờ biến đâu mất dưới cả hai làn pháo của ta và địch, có thể nói là nằm lăn xuống đồi cũng không còn vướng một cộng kẽm nào. Những ngày đầu chúng chỉ bắn bằng đạn nổ, những ngày sau thì xen vào đạn delay tức là đạn chui vào lòng đất hơn một mét rồi mới nổ, không có hầm hố nào chịu nổi cả, thế mà ngoài phòng tuyến anh em Dù vẫn sống, vẫn thở, những người chết và bị thương thì vẫn nằm chung với anh em dưới chiến hào, mùi thuốc súng và đạn pháo đánh át đi mùi tử khí, nội hơn một trăm anh em bị thương không được di tản cũng là gánh nặng tâm lý đè lên tinh thần chiến đấu của người lính. Nhưng đây là Nhảy Dù, một dân chơi thứ thiệt, dám cân hồ tất cả giới giang hồ khét tiếng sinh Bắc tử Nam thì còn coi cái chết vào đâu...Là dân pháo binh nhưng tôi cũng ngán kỷ luật chiến đấu của Nhảy Dù, về Saigon chịu chơi tới đâu thì chịu, chứ ra trận thì có lệnh là phải tiến, không có lệnh lui thì...mẹ kiếp, trận này nằm đây chịu chết để vinh quang cho những tên không biết mẹ gì là chiến thuật đã trói tay chúng tôi, tận diệt.
Ngày 6/4/1972, địch tấn công căn cứ Delta của Tiểu đoàn 2 Dù ở phía Nam nhưng bị đánh bật ra để lại hằng trăm xác, không chừng Tiểu đoàn 11 Dù cũng được lệnh phải đợi địch đánh để làm giống như vậy chăng, tụi nó đánh Đại đội 114 cả tuần rồi mà, chết quá trời mà đâu có lên được. Địch lại pháo kích, nằm dưới hầm nghe đạn pháo, có những trái đạn delay rơi sát hầm, nổ tung dưới lòng đất kêu ục ục, đất chuồi xuống, cái chết đang từ từ đến với tôi với tất cả nổi phẩn nộ, đúng là sinh nghề tử nghiệp, pháo nó thì chết vì nó pháo là công bằng sao, tôi đang bị trói tay mà. Sau dứt mổi loạt pháo, tôi chạy vội ra tuyến quan sát, những người lính vừa tu bổ cộng sự chiến đấu vừa đưa mắt nhìn tôi dò hỏi, như khẩn khoản tôi nói một lời gì, tôi biết họ muốn hỏi gì nên cũng chỉ biết hất mặt về hướng đông, đường ra quốc lộ 14, nếu bị địch tràn ngập. Ngay lúc đó thì có một người lính dơ tay ngoắc tôi, xong chỉ về ngọn đồi xéo về hướng đông nam, tôi cúi mình chạy đến, cách đó khoảng 500 mét đường chim bay, bóng một tên lính Bắc Việt in trên nền trời với tất cả thách thức, như vậy là cả ba hướng Đông, Tây, và Nam đều bị địch bao vây, vậy còn hướng Bắc, gần nhất với ngọn đồi Charlie của Đại đội 111, chưa biết thế nào, không đánh được thằng 114, tụi nó dám chơi thằng 111 sao, chỉ có phía Tây mới có thể đánh lên 111 mà lại là là dốc đứng nửa...Tôi gọi Hạnh chạy vào hầm báo cho Trung Úy Cho biết và xách máy PRC 25 gọi 415 bắn, điều chỉnh trúng mục tiêu rồi cũng chả ăn nhằm gì, dứt loạt đạn lại thấy nó đứng lên chống nạnh, như vậy là tụi nó đã khoét núi nằm sâu trong đó rồi, đâu có móc ra được. Không chừng thằng này là đề lô, tôi chỉ còn biết xin 415 bắn cấm chỉ khi có thể.
Những ngày kế tiếp, lương thực cạn dần, có dấu hiệu địch sẻ đánh Charlie vì Đại đội 111 nằm riêng rẻ, còn thằng 113 thì nằm kế bên pháo binh khó đánh, và chúng tôi cũng không còn xuống dưới chân 111 lấy nước được. Hai Trung đoàn địch quân số gấp 8 lần, luân xa chiến, tiền pháo hậu xung gần nửa tháng cũng không chơi được Đại đội 114, nên thế nào tụi nó cũng tìm hướng khác và mục tiêu thì chỉ có Charlie của 111. Ngày 9/4/1972, địch pháo dử dội Bộ chỉ huy Tiểu đoàn 11 và mưa pháo xuống Charlie xong bắt đầu tấn công 111. Đại đội 111 chống trả quyết liệt, xác địch đầy sườn đồi. Khu trục rồi trực thăng võ trang vào vùng trút xuống hằng tấn bom đạn quanh căn cứ. Sau nhiều đợt xung phong không thành, địch lại rút lui để lại hằng trăm xác chết.
Lúc này thì địch đã công khai di chuyển quân xa ban ngày, tiếng xích sắt xe tăng, tiếng xe Molotova có thể nghe thấy sau những loạt pháo. Bằng mọi giá chúng phải nhổ cái gai Charlie dầu có hy sinh cả hai Trung đoàn này thì còn những Trung đoàn khác sẳn sàng vào trận để lấy tiếng trên bàn hội nghị. Không chơi được Song Kiếm Trấn Ải thì còn gì là danh hiệu hai Sư đoàn của chúng đây. Vừa đánh chúng vừa điều quân, phía đông tức là đường rút của11 Dù, tôi đã quan sát được vị trí bọn chúng đã đặt hai cây phòng không, một cây 12 ly 7 và một cây 37 ly. Hướng đông địch đã công khai để lộ vị trí để bắn máy bay và uy hiếp tinh thần 110. Máy bay yễm trợ cho Charlie thì phải bay từ hướng Bắc hoặc hướng Nam rồi đánh một vòng về hướng Tây để thả bom, xong phải chúc mủi về hướng Đông ra thẳng quốc lộ 14, địch đã đặt hai cây phòng không tại đây chặn đầu khiến cho máy bay không dám xuống thấp, thỉnh thoảng chúng còn nhắm xuống Charlie trực xạ. Mổi lần máy bay vào vùng là tiếng phòng không từ các hướng nổ đầy trời, và ít nhất cũng cả chục cây phòng không giờ đây đã dàn trận. Pháo binh của ta thì gần như bị tê liệt vì bị pháo cấm chỉ của địch, cả Tiểu đoàn 11 cũng thấy được nhiều chiếc Chinook từ Phi trường Phượng Hoàng tải đạn pháo binh vừa đến Yankee thì bị pháo và phòng không từ hướng đông bắn qua phải trở lui, ngưng tiếng pháo thì lại bay vào rồi lại bị bắn không đáp xuống được, cứ như vậy cả ngày. Tôi đã gọi các vị trí pháo bắn hai cây phòng không này hoài mà cũng chẳng ăn thua gì. Cả nửa tháng nay chúng đã đào hầm trong núi đợi giờ quyết tử dứt điểm 11 Dù, dầu có bắn trúng cây này thì chúng cũng sẻ điều cây khác đến. Mấy chiếc khu trục đã trúng đạn phòng không, còn trực thăng võ trang của ta hay Cobra của Mỹ là miếng mồi dể lãnh đạn phòng không nhất nên khó có thể vào vùng.
Đến giờ phút này thì đả rỏ thế nào bọn chúng cũng dứt điểm Charlie, sáng ngày hôm sau, Đại đội 111 bị pháo thật nặng nề, dứt dợt pháo, bộ binh địch tràn lên, pháo binh của ta cũng bị cấm chỉ không yễm trợ được, định mệnh đã dành sẳn cho 111, bị tràn ngập nhưng thiệt hại vừa phải, 111 phải rút về nhập chung Bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Độ nửa tiếng sau, Trung Úy Thinh Đại đội trưởng 111 chạy vào hầm chúng tôi, Trung úy Cho hỏi, Thinh kể lại :
-Việt cộng tràn lên là lo kiếm mấy cái ba lô của ta, chúng chụp được ba lô của tôi, tôi buông ba lô chạy, tụi nó không đuổi theo, có lẻ tụi nó đói lắm nên lên được là lo kiếm ăn, chúng lục ba lô của ta, khui đồ hộp ra ăn tại cho (thường là khi rút lui, ta mang theo ba lô trên lưng đề phòng bị bắn phía sau). Ngay lúc đó thì Trung Úy Khánh cũng chạy vào hầm, tôi hỏi thì Khánh cũng nói bị y như tình trạng của Thinh. Tôi hỏi tiếp vậy súng của mày đâu. Khánh kéo cái địa bàn M1 đeo nơi cổ ra nói tao chỉ còn có cái này. Tôi ôm bụng cười ngặt nghẻo làm mọi người cũng cười theo. Nửa tháng nay, tôi không thể nở nổi một nụ cười, giờ này ôm bụng cười ra nước mắt về cái chuyện tiếu lâm có thực này thật thoải mái. Việt cộng ngoài việc bị bỏ đói phải liều lĩnh hy sinh tính mạng kiếm từng lon đồ hộp của ta, chúng còn bị ép uống thuốc "Hùng Tâm" tức là một loại thuốc kích thích uống vào là hăng máu lên xung phong chẳng coi việc sống chết ra sao cả, chiến thuật biển người của chúng thường kèm với liệu pháp hùng tâm này. Cứ xem ảnh xác Việt cộng bị xích trên xe tank thì mới biết cấp chỉ huy của chúng dã man như thế nào.
Sáng ngày 11/4/1972, Đại đội 112 được điều xuống chiếm lại Charlie đem theo cả Đại bác 90 ly trang bị riêng cho Nhảy Dù để bắn xe tank hoặc phá hầm, máy bay Mỹ lại vào vùng thả bom, bay thấp thì sợ phòng không, nhưng bay cao quá khó trúng mục tiêu, nên những phi đội sau, Tiểu đoàn 11 xin thả bom napalm, còn pháo binh vị trí nào của ta không bị cấm chỉ thì pháo xuống phụ họa sau khi các phi tuần bay ra, hết đợt này đến đợt khác, từng phi tuần của không quân Việt Nam vào vùng trải những thảm lửa xuống Charlie, thả bom napalm phải bay thật thấp nên rất chính xác, từng trái bom rơi trúng mục tiêu, nhưng Việt cộng quyết cắt đôi 11 Dù nên cố thủ trong các hầm hố của ta bỏ lại. Bất kể phòng không, một chiếc phi cơ nóng lòng bay thật thấp xuống mục tiêu, thả một quả bom napalm, lúc ngóc đầu bay lên thì cánh bên phải vướng vào ngọn cây trên ngọn đồi phía đông kế bên chổ hai cây phòng không, bị gảy cánh rồi rớt xuống đồi nổ tung, viên đại úy phi công Việt Nam đã oanh liệt hy sinh. Chiếc còn lại bay vòng vòng tìm đồng đội, sau khi xác định được vị trí , bèn quay trở lại Charlie, giận dử trút xuống những trái bom lửa còn lại. Lửa thiêu cháy Charlie, thiêu luôn cả những con thiêu thân đợi ngày giải thoát.
Ngày 12/4/72, để trả thù cho đồng bọn bị lửa bom đốt sạch tại Charlie, địch tăng cường pháo kích thật mạnh lên đồi C2, từng tấc đất bị cầy lên như địa ngục có thật, tôi ngồi trong hầm lại nghe cái chết đến từ từ, ước lượng có đến cở gần 10,000 quả đạn đại bác các loại rơi xuống C2 kể từ ngày tử chiến, ngoài hầm bê tông cốt sắt ra chứ hầm hố như thế này thì làm sao chịu nổi, bất cứ đơn vị nào mà trấn thủ nơi đây chắc là phải tự động rút từ lâu rồi, tôi không dám nghỉ đến một điều xấu nhất dành cho mình, không biết nhà tôi và đứa con đầu lòng đang mang trong người giờ này ra sao, mổi lần tôi đi trận, nhà tôi đều dặn cầu nguyện Đức Mẹ che chở, giờ tôi đang làm điều này...Chợt thấy Trung úy Cho nhổm dậy cầm lấy máy nghe rồi lo lắng, tôi cũng qua tần số Trung úy Đúng hỏi, Trung Tá Bảo, Tiểu Đoàn Trưởng Song Kiếm Trấn Ải đã gẩy cánh thiên thần sau loạt pháo kích vừa rồi, một quả 130 ly trúng hầm, Trung tá Bảo hy sinh còn Thiếu Tá Duffy và Thiếu Tá Mễ ở hầm khác chỉ bị thương nhẹ. Thiếu Tá Mễ lên thay. Suốt ngày hôm đó, địch tiếp tục pháo kích C2 và bắn cấm chỉ các vị trí pháo binh của ta. Một bịch gạo xấy cả tuần nay tôi nuốt không hết, miệng thật đắng còn nước uống thì đo bằng từng nắp bi đông, riêng việc vệ sinh thì giải quyết ngay ngoài miệng hầm. Pháo dữ quá nên tôi cũng giới hạn bớt chạy ta ngoài tuyến quan sát. Trên tấm bản đồ, tôi ghi chi chít những vị trí nghi ngờ pháo của địch báo cho Trung úy Đúng và Trung úy Đúng cũng chẳng làm được gì khác hơn, gần tối địch ngưng pháo kích, tôi thiếp đi lúc nào không biết cho đến khi Hạnh chạy vào lay chân tôi dậy hỏi cần gì không, tôi lắc đầu.
Sáng ngày 13/4/1972, Đại đội 113 được lệnh đi lên phía Bắc tìm bải đáp, còn Đại đội 111 lên ngọn đồi phía Đông xem có chổ nào tải thương được không. Khi Khánh chui vào hầm tôi, tôi thấy mặt có vẽ nghiêm trọng, không còn cái giọng Nha Trang đơ đớ Quãng Ngãi nửa, không thấy có vẽ đùa cợt hàng ngày như lúc còn ở hậu cứ, tôi bảo Khánh chạy theo tôi ra ngoài tuyến và chỉ về ngọn đồi mục tiêu trước mặt, theo hướng tôi chỉ, bóng tên Việt cộng đứng gác vẫn còn đó, tôi lại chỉ Khánh chổ vị trí hai cây phòng không cách đó không xa và nói:
- Tụi nó đầy ở trên đó, tao bắn hoài cũng chả ăn thua gì, mày hết sức cẩn thận, nếu muốn bắn mở đường tao bắn cho, khi lên coi chừng phòng không tụi nó trực xạ. Khánh trở lại 111 bàn với Trung Úy Thinh và cũng không thấy xin bắn mở đường, chắc là muốn giử im lặng.
Độ nửa tiếng sau, súng nổ vang dội từ triền đồi bên kia, 111 lên được gần đến đỉnh đồi thì địch khai hỏa, bằng luôn cả phòng không trực xạ. Không thấy Khánh xin tác xạ, tôi muốn bắn phụ lắm, nhưng giờ này không biết nó ở chổ nào. Súng vẫn nổ, một chốc tôi nghe tiếng Khánh trong máy, Trung Úy Thinh, Đại đội trưởng 111 đã tử trận, Khánh lên thay. Rồi một chốc lại nghe tin Trung sĩ Lung gọi máy, tôi biết Khánh cũng đã nằm xuống...Cánh dù lộng gió muôn phương - Vào lòng đất mẹ, máu xương ngậm ngùi. Đại đội 111 thêm lần nửa tan hàng. Một số còn lại rút về được căn cứ. Cả ngày đó địch vẫn tiếp tục giử mức độ pháo kích khủng khiếp, lương thực và đạn dược lại cạn dần, lại thêm người chết và bị thương. Đêm dần xuống, tôi nằm trong hầm buồn lắm, Trung Tá Bảo ra đi hôm qua, Chuẩn Úy Sơn đề lô ra đi trong loạt pháo đầu tiên, Khánh vừa đi sáng nay, Lạc bị thương nặng chưa biết ra sao, còn những người khác thì nằm đầy ngoài chiến hào, bao giờ thì rút đây, không phải tôi bi quan, mà tức vì cái lệnh tử thủ quái ác từ đâu đâu, chết như vậy thật uổng mạng.
Ngày 14/4/1972, Tiểu đoàn 11 Dù tự quyết định rút lui vào ban đêm, nhưng vào buổi trưa sau những đợt pháo kích dử dội, địch xung phong lên từ phía Đại đội 114 đồng thời pháo luôn các vị trí pháo của ta, tôi gọi mãi mà không con gà nào chịu gáy, ngoài tuyến, không còn sợ pháo binh ta bắn cản, địch nhào lên đông như kiến cỏ, Đại đội 114 chống cự không lại phải rút về dàn hàng ngang với Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, máy bay cũng đã lên vùng bỏ bom ngay trên tuyến 114, hai bên giành nhau từng hầm hố, từng giao thông hào. Pháo binh ta coi như bị tê liệt, tôi đứng dưới giao thông hào sát với Thiếu Tá Mễ, và Đại Úy Đoàn Phương Hải Trưởng ban 3 giờ kiêm Tiểu đoàn phó, Trung Úy Đúng đứng kế bên, cạnh đấy là Bác sĩ Tô Phạm Liệu, một Bác sĩ Nhảy Dù mê đánh trận còn hơn cầm ống chích, lưng đeo khẩu Colt 45, tay cầm súng M 16 giơ lên, miệng hét binh sĩ ráng giử vững vị trí, tôi nghỉ thầm trong bụng nói cha nội này đi quân y uổng quá, phải cầm quân đánh nhau mới đúng. Thỉnh thoảng tôi lại gọi máy, khản cổ họng nhưng pháo binh của ta im lặng vô tuyến vì vẫn còn bị pháo kích. Lúc này mặc dù chiếm được gần một nửa C2 nhưng địch vẫn chưa dám nhào tới cận chiến nên phòng tuyến thứ hai của ta vẫn giử được. Chổ tôi đứng, xác một binh sĩ Dù nằm trên chiến hào ngay trước mặt, chết đã nhiều ngày, xác trương lên nhưng không thấy mùi hôi vì đầy thuốc súng, còn trên mình mang thêm nhiều mãnh đạn pháo sau đó, có lẽ chết hai ba lần. Bổng Hạ sỉ Hạnh chạy tới chổ tôi nói:
- Em kiếm Trung úy nảy giờ, Thằng Nhỏ bị thương muốn gặp Trung Úy.
Tôi cúi đầu xuống chạy dọc ra ngoài tuyến, gặp Nhỏ đang nằm dưới giao thông hào, bụng bị mảnh pháo phá nát, ruột đổ ra ngoài dính đầy bụi đất. Tôi cúi xuống, Nhỏ thì thào bên tai:
- Em khát nước quá, Trung úy đái cho em uống.
Giửa tiếng đạn bay, tôi muốn khóc mà không rơi được giọt lệ, đệ tử tôi đến giờ phút hấp hối còn nghỉ đến ông thầy. Tôi nghẹn ngào nói với Nhỏ:
- Em còn điều gì muốn nói thì nói cho Hạnh biết, anh còn phải coi xem còn bắn được hay không.
Nói xong tôi đưa bi đông nước còn lại một chút cho Hạnh để cho Nhỏ uống rồi gạt nước mắt định chạy về chổ Thiếu Tá Mễ. Ngay lúc đó có nhiều tiếng đạn AK bắn xéo trên đầu tôi, khói súng mù mịt không thấy rỏ phía triền đồi, tôi rút quả lựu đạn M26 ném xuống dưới chân đồi. Đây là quả lựu đạn đầu tiên trong đời lính tôi sử dụng để ngăn địch. Không cần quan sát hiệu quả lưu đạn vừa rồi, tôi chạy lại phía Thiếu Tá Mễ. Giờ phút này địch đã lên được hơn nửa đồi C2 và từ hướng Nam cùng với hướng Tây đánh lên, cả Tiểu đoàn 11 chuẩn bị một màn cận chiến, bổng một viên đạn AK bắn trúng bình khói cay E8 của ta đặt trước mặt Thiếu Tá Mễ cở chục mét. Tôi thấy rỏ gió thổi ngược khiến cho khói cay màu vàng bay ngược về hướng Tiểu đoàn, những người lính la lên địch pháo khói cay rồi rút về phía Tiểu đoàn, và Tiểu đoàn 11 chính thức rời bỏ Charlie vào lúc này, nếu không bị bình khói cay thì không biết thế nào, đây có lẽ trời khiến cho 11 Dù không bị tràn ngập trên đồi C2.
Cũng may địch sợ ta dùng chiến thuật "đồng ư quy tận" tức là gọi pháo binh bắn ngay trên đầu cùng chết với địch nên không dám duổi theo, nhờ vậy chúng tôi xuống đến chân đồi không có phát súng nào bắn theo. Trời hơi tối, địch cũng không dám pháo kích nửa sợ lộ vị trí, vã lại chúng đã lên đầy trên C2 và giờ đây có lẽ đang lục hầm kiếm thức ăn, nên pháo binh của ta hoạt động lại được bắn chận không cho địch truy kích. Rút theo hướng đông nam độ vài trăm mét thì nghe nhiều tiếng rít xé trời, bom B52 rơi xuống Charlie cày nát thành bình địa. Đại đội 113 ở hướng Bắc hầu như còn nguyên vẹn từ ngày đầu đến giờ không bị đánh cũng như không thiệt hại vì pháo kích, nên được lệnh đi ngược xuống Yankee tìm đường ra PZ (tức bải bốc, tiếng Anh là Picking Zone), trên bản đồ cách Charlie khoảng gần 4 cây số. Trời tối, đồi cao, rất khó đi, máy bay lên vùng thả hỏa châu soi sáng, những dây đạn M 79 từ phi cơ OV10 rót đều phía sau chận hậu,đạn nổ tụp tụp bum bum nghe như một điệp khúc buồn nản của chiến tranh. Binh sĩ còn khỏe dìu những người bị thương nhẹ, thật không thể tưởng tượng được có người bị thương ở chân phải đi bằng cả hai tay ở những đoạn dốc khó đi không thể dìu được, bản năng sinh tồn của con người nhất là của người lính chiến thì không có gì có thể diễn tả ra hết được. Cạn hết lương thực, đạn dược, thuốc men, và dưới những cơn mưa pháo khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, hơn một trăm con người còn lại này chia đều mổi người đã lãnh cở gần 100 trái đại bác, thử hỏi còn có ai chịu đựng được như thế không. Tôi chợt nhớ đã đọc đâu đó một câu nói của danh tướng Mỹ, Mac Authur " Tôi thương những người lính bộ binh hằng ngày 24 giờ phải đối diện cái chết trên chiến trường, lại còn phải gánh chịu những bất công của thượng cấp". Nghỉ lại hoàn cảnh của 11 Dù còn tệ hại hơn thế nửa, bị trói tay để đánh.
Đến gần sáng thì ra đến bải bốc giống như một cái thung lũng cạnh một con suối, đây là một khoảng trống đầy lau sậy, Tiểu đoàn 11 kiểm tra lại quân số và chia khu vực phòng thủ đợi trực thăng bốc về Võ Định. Tôi và đệ tử Hạnh được cắt lên slick trực thăng sau cùng của Đại đội 114. Thông thường khi đi hành quân trực thăng vận, đề lô phải nhảy theo toán đầu tiên và khi rút thì đi sau hết, để có thể gọi pháo binh bắn bất cứ lúc nào.
Ngày 15/4/1972, trời sáng dần, khi ánh nắng mặt trời đầu tiên trong ngày vừa sáng hẳn lên từ phương đông thì có tiếng trực thăng bay đến, dẫn đầu là hai chiếc Cobra và phía sau là một đoàn Trực thăng UH1B của Mỹ, hai chiếc Cobra có trang bị rocket bay một vòng quanh bải bốc quan sát, một trái khói màu vàng được thả ra đánh dấu chổ trực thăng đáp xuống, chiếc UH1B thứ nhất vừa xà xà xuống mặt đất thì có tiếng đạn cối rơi xuống nổ ngay chóc bải đáp rồi hằng chục tiếng pháo cối 82 ly tiếp tục rơi xuống, những chiếc trực thăng vội vàng bay thẳng lên không bốc được toán nào. Dứt loạt cối, Việt cộng từ hai bên triền đồi xuất hiện như mọi da đỏ dàn hàng ngang xung phong y hệt trong phim cao bồi viễn tây, vì đồi lau sậy thưa thớt nên rất dể thấy chúng không thổi kèn xung phong mà vừa chạy, vừa bắn, vừa hô "hàng sống chống chết" vang trời. Tiểu đoàn 11 Dù đang bị nguyên một Trung đoàn Việt cộng phục kích, Trung đoàn này được lệnh đi đánh phi trường Phượng Hoàng đêm trước, khi Tiểu đoàn 11 Dù rút lui khỏi Charlie, chỉ huy của chúng đoán được ta sẻ bốc quân tại đây nên cho lệnh Trung đoàn này lui trở lại để phục kích định hốt gọn 11 Dù, bọn chúng tưởng khi pháo ở giửa tất nhiên ta sẻ bung chạy tản ra chung quanh, bọn chúng đã phục kích sẳn sẻ hốt gọn, nhưng không ngờ khi chúng tràn xuống, thì Nhảy Dù cũng bung ra chống lại mãnh liệt. Trận chiến lúc này như một cái nia đựng đậu đen và đậu trắng sàng qua sàng lại lẫn lộn như đang đánh xáp lá cà, chổ nào cũng có tiếng AK47 và M16 nổ lẫn lộn còn hơn pháo Tết, coi như cả Tiểu đoàn 11 trừ cùng bắn nhau một lúc với một Trung đoàn Việt cộng, hai bên chạy qua chạy lại thấy đâu bắn đó như xinê, làm Cobra bay trên đầu cũng không biết bắn vào đâu, một chiếc trực thăng liều chết đáp xuống đất, tôi thấy một số người chạy tới leo lên, những chiếc sau vừa xà xuống thì Việt Cộng cũng rượt gần đến nơi, xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh (hiện ở Houston) dừng lại ôm Đại liên 60 ria hết luôn một dây đạn còn lại, Việt cộng ngả rạp xuống đồi rụng như sung, viên đạn đại liên cuối cùng vừa ra khỏi nòng thì mấy cây AK đã chỉa vô đầu Vinh, có lẽ vì cãm phục tinh thần anh dũng của người lính Nhảy Dù này mà chúng không giết để trả thù cho đồng bọn, chỉ bắt sống. Nhờ lòng quả cãm của người xạ thủ đại liên này mà một slick duy nhất 4 chiếc trực thăng đã bốc được Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn 11, Sĩ quan liên lạc pháo binh, và cố vấn Duffy, nhưng Đại Úy Đoàn Phương Hải ,Trưởng ban 3 (hiện ở San Jose) thì bị một viên đạn AK bắn xuyên bàn chân từ dưới đất lên, rớt xuống máy bay, may nhờ Thiếu Tá Duffy gan dạ quay trực thăng trở lại kéo lên.
Đạn hai bên vẫn nổ tới tấp, thêm một cặp Cobra và slick trực thăng khác vào vùng bay vòng vòng trên trời. Việt cộng chỉ bất ngờ đi phục kích nên không đem theo phòng không cho nên trực thăng của Mỷ mới hoạt động được nhưng chỉ bốc chứ không dám bắn vì sợ trúng quân bạn. Chiến trường lần lần bớt đi tiếng súng, nhưng tiếng kêu hàng vẫn còn nghe văng vẳng, tiếng trực thăng vẫn còn nghe vần vũ trên đầu. Lúc này tôi đang sát dưới bờ suối với ba bốn người lính nhìn lên khá rỏ nên bảo họ chạy theo tôi ra bãi may ra trực thăng thấy được rỏ đồ rằn ri so với đồ vàng bụi đất của Việt cộng mà bốc chúng tôi lên. Những người lính nghe theo tôi chạy lên triền đồi, đang chạy, tôi thấy một chiếc Cobra bay phía bên trái ngược hướng tôi chạy lên, chừng quay lại phía sau thấy nó vòng lại nghiêng cánh, kinh nghiệm chiến trường đã cứu tôi thoát chết, Cobra mà nghiêng cánh về phía nào là nó bắn rocket về phía ấy, chắc là trực thăng nó thấy Việt cộng rượt theo chúng tôi nên bắn, tôi chỉ kịp hô:
- Dạt ra một bên, trực thắng bắn.
Tôi vừa nhào đại qua một bên thì một tiếng rocket nổ như trời giáng cách tôi cở vài mét không còn nhớ rỏ phía bên nào, tôi thấy mình văng lên rồi rớt lăn trở xuống triền đồi, cây súng colt 45 cầm trên tay văng đâu mất, cái địa bàn đeo trên cổ và tấm bản đồ nhờ bỏ trong áo nên còn lại, may mắn tôi chỉ bị chấn động nhẹ, nhưng không hiểu những người kia có sao không. Tôi đứng dậy chạy ngược xuống bờ suối thì gặp một tốp Dù, trong đó có Chuẩn úy Linh đang chạy theo bên bờ suối về hướng Bắc, thấy tôi họ mừng lắm, cả tôi cũng thế, chưa kịp hỏi thì tiếng súng đuổi theo cũng nghe kế bên, lẫn tiếng kêu đầu hàng, tôi chỉ hướng chạy qua bên kia bờ suối, vừa vượt qua bờ suối thì một người chạy sau bị bắn rớt xuống suối, tôi thúc anh em chạy tiếp, chạy khoảng 50 mét không nghe tiếng rượt theo, chúng tôi dừng lại để thở. Tôi nói vội với anh em:
- Tuyệt đối không đầu hàng, đi theo tôi, nếu người nào bị bắn mà bị thương, kể cả tôi, thì phải bỏ lại, chạy thoát thân, chứ không được đầu hàng.
Mọi người tuân lệnh. Vừa đi tôi vừa xem bản đồ. Võ Định cách khoảng 8 cây số, chỉ băng theo hướng đông bắc là đến nhưng thế nào cũng gặp Việt cộng, tụi nó dứt Charlie rồi tất phải đánh phi trường Phượng Hoàng, vô đó là lãnh đủ (về sau đúng như vậy vì bọn chúng đang điều quân đánh căn cứ Võ Định). Cho nên tôi quyết định đi thẳng lên hướng bắc khoảng một cây số đánh lạc hướng địch, rồi vòng lại hướng đông nam ra Diên Bình, cách đó khoảng mười mấy cây số. Vừa đói, vừa mệt, 10 người mà chỉ còn có 3 cây M16, mổi cây chỉ có một băng đạn, không biết lúc đụng trận nửa thì thế nào, tôi lại nhớ đến Hạnh, người đệ tử nhỏ con nhưng rất tháo vát, lên hạ sĩ thường được ở lại pháo đội học bắn, nhưng không hiểu khoái tôi cái nổi gì đòi theo tôi đi đề lô cho khổ tấm thân, bây giờ không biết ra sao. Đi gần nửa ngày, đồi cao cả ngàn mét, đói lã người, nửa tháng nay không đêm nào ngủ được vài tiếng. Bổng người đi đầu giơ tay ra hiệu dừng lại, khu rừng tre trước mặt có tiếng động, quan sát một hồi thấy được một toán Dù thất lạc, chúng tôi ra thủ hiệu nhận diện rồi nhập chung, tới chiều thì gặp thêm một toán nửa, thêm hai Chuẩn úy và mấy Hạ sĩ quan. Quân số bây giờ là 26 người với 10 cây M16, có vài người bị thương nhẹ nơi chân và tay, mọi người đều đói quá, không ai còn miếng gạo sấy nào, chỉ còn một lon thịt ba lát, anh em khui ra đưa cho tôi, tôi cắn một miếng rồi trả lại nói mặn quá, cả tuần nay chẳng nuốt gì được để từ từ rồi ăn. Biết được Chuẩn Úy Linh lớn tuổi và thâm niên hơn hai Chuẩn úy kia nên tôi kêu Linh riêng ra và nói:
- Lính của anh, anh dể chỉ huy hơn, còn tôi thì dẫn đường ra thôi.
Chuẫn Úy Linh trả lời:
- Trung Úy lớn nhất ở đây, chỉ huy, dẫn đi dâu chúng tôi theo lệnh Trung úy.
Tôi trở lại nói với anh em:
- Như vậy tôi ra lệnh, nếu gặp địch đông thì bỏ chạy, nếu địch ít thì đánh, ai bị thương kể cả tôi cũng phải bỏ lại, tuyệt đối không được đầu hàng, tôi có niềm tin tôn giáo, Đức Mẹ sẻ che chở chúng ta. Tôi động viên như thế và mọi người tuân lệnh. Tôi cho tất cả mọi người còn vũ khí đi đầu, ba Chuẩn Úy chia ra xen kẻ, còn lại không có vũ khí thì đi sau. Tôi cũng dặn dò kỷ hướng ra Quốc lộ 14, trên đường sẻ gặp những gì trên bản đồ. Nếu có thất lạc vì đụng trận thì theo hướng đó mà ra. Không phải tôi sợ anh em đụng trận, tôi chỉ muốn làm tròn bổn phận người anh, lỡ tôi có bề gì thì biết đường ra cho sớm, trể một ngày là có thể chết vì đói.
Tối đó, tôi dặn Chuẩn Úy Linh cắt gác xong chia nhau đi ngủ. Sau một đêm nghỉ thật ngon kể từ nửa tháng nay, tôi đánh thức mọi người dậy thật sớm để leo núi đở mệt hơn. Đến trưa, theo bản đồ chúng tôi đến một làng Thượng đã bỏ hoang, không có gì để ăn, chỉ có một cây xoài thật cao toàn trái xanh, đói gần chết mà chơi thứ này vô còn tịch sớm hơn nửa. Một người lính bổng thấy một cây điều rừng trong bụi cây trước mặt, có rất ít trái nhỏ màu vàng cở ngón tay, tôi nói để tôi thử coi, bứt một trái không dám đưa hẳn vào trong miệng để nhai, tôi nhây nhây ngoài răng cửa, hơi có vị ngọt chát, tới chừng nuốt vô vừa đến cuống họng thì nghe thật rát, tôi vội vàng nhổ ra, nguyên cổ họng tôi bị ngứa tàn bạo, và một chốc sau thì đôi môi bị sưng lên, tránh võ dưa gặp vỏ dừa, may mà không nuốt vô, nếu không dám toi mạng lắm. Chúng tôi tiếp tục đi một lúc thì lên một ngọn đồi dài mà đỉnh của nó thật bằng phẳng như ai đã san bằng. Ngọn đồi rất đẹp, cây cối rậm rạp, chúng tôi dừng lại ngồi nghỉ thì nghe tiếng trực thăng bay từng đoàn về hướng Nam, có lẽ trực thăng đổ quân, tôi cho anh em rút xuống triền đồi bên này, sợ trực thăng dọn bải hay pháo binh bắn ghép bải lở trúng thì xui tận mạng. Thật đúng như phép lạ, trực thăng dọn bải phía bên kia đồi, đạn bạn vút qua trên đỉnh mà chúng tôi vừa rút xuống. Hú hồn. Sau đó nghe tiếng trực thăng đáp xuống. Đúng là đổ quân nhưng không biết đơn vị nào đây (sau này tôi biết được Tiểu đoàn 9 Dù đổ quân). Sợ ngộ nhận, tôi quyết định đi tiếp, đến gần chiều thì dừng quân nghỉ đêm. Đôi môi tôi giờ này sưng vù lên và thâm đen phía ngoài, còn trong cổ thì ngứa vô cùng, chỉ muốn đưa cả nguyên bàn tay vào miệng mà cào cho đã ngứa, không biết tôi có ra kịp quốc lộ không, nếu bỏ mạng lãng xẹt như thế này vì ăn bậy thì đau quá. Trong lúc dừng quân, chúng tôi kiếm được đâu đó ít rau tàu bay, luộc lên với nước suối cầm hơi. Đêm đó nhìn lên bản đồ, tôi còn cách sông PôKô độ 2 cây số nửa, qua sông này được thì chiều tối đến xã Diên Bình. Nhưng con sông rộng và nước chảy thật xiết như thế và người nào cũng đuối sức hết thì làm sao mà qua đây. Trưa hôm sau, chúng tôi đến sông PôKô đúng y tọa độ. Tôi cho mọi người ngồi nghỉ trong các lùm cây trên bờ. Ngay lúc đó, một chiến trực thăng từ hướng quốc lộ 14 bay thẳng vô núi, chúng tôi chạy ra bờ sông cởi áo giơ tay vẩy vẩy. Từ xa trực thăng thấy được nhưng không dám bay lại gần, nó chỉ bay vòng vòng quan sát chúng tôi một hồi rồi xong cũng giơ tay vẫy vẫy rồi bay luôn. Tôi nghỉ trong bụng, chắc là trực thăng đi kiếm chúng tôi, thấy chúng tôi gần ra đến nơi rồi nên bay vào tìm những người còn kẹt lại trong sâu hơn, nhưng thế nào cũng báo về Lữ đoàn để báo cho đồn Địa Phương Quân Diên Bình biết đừng bắn lầm. Tôi xem lại bản đồ, đây là đầu một cái ấp, thế nào họ cũng có ghe để qua sông, tôi cho người đi dọc bờ sông khoảng một trăm mét thì thấy có một cái ghe nhỏ và một người đã tình nguyện bơi qua bên kia bờ lấy ghe, rồi lần lượt đưa chúng tôi qua sông. Có lẽ bề trên đã an bài, một cái ấp bỏ hoang như thế này lại có một chiếc ghe của ai đó bỏ lại để đưa chúng tôi qua sông, như một phép lạ. Mọi người đều kiệt sức nên tôi quyết định cho anh em đi ngang qua rẩy dân và cố tình nói chuyện lớn tiếng, để nếu có lính nghỉa quân ở đây thì nhận ra giọng miền Nam chứ không phải giọng Bắc con cháu giặc hồ mà không bắn lầm, đồng thời cũng vớt vát chút đỉnh củ khoai trái bắp gì đó trên đường đi. Đây là một quyết định có lẽ lạ đời nhất và phản chiến thuật nhất của một sĩ quan. Cứ như vậy mà đi, có lúc những người lính còn ca lên mấy câu vọng cổ hoặc mấy bài hát của miền Nam nửa, chẳng có gì ăn trên đường qua rẩy vì rẩy cũng bị bỏ hoang lâu rồi, thì lót lòng bằng tiếng ca ngọt ngào hương lúa miền Nam quê hương vậy.
Chúng tôi từ địa ngục trở về đâu có còn ngán cái địa ngục nào nửa đâu, ba cái thằng du kích xã dám xuất hiện ngăn chúng tôi sao? Tôi lấy cái lý của kẻ lỳ cho anh em tự do ca hát nói chuyện cho đến khi gần đến Xã Diên Bình thì dừng lại. Sợ mò vào ban đêm bị vướng mìn tự động hay lựu đạn gài nên tôi cho dàn quân lại phòng thủ ngủ đến sáng mới vô, và dặn dò hết sức cẩn thận, không chết dưới chục ngàn quả đạn pháo mà chết vì đạp mìn Địa Phương Quân thì lảng xẹt. Tôi vừa đi một vòng kiểm soát lại mọi người thì Chuẩn Úy Linh tiến lại nói có hai thằng mò vào liên lạc được bên trong rồi, họ mở cổng cho mình vào. Tôi nói tào thiệt, sau đó tôi đi vào đồn chào vị Đại Úy Tiểu đoàn trưởng Địa Phương Quân và trình bày lý do, viên Đại Úy nói hồi chiều tôi đã được biết trước anh em sẻ về đúng nơi đây đêm nay, nên đã chuẩn bị các thứ để giúp anh em Nhảy Dù. Tôi mượn máy liên lạc với Tiểu đoàn 1 Pháo Binh Dù và nhờ chuyển qua báo cho Tiểu đoàn 11 biết chúng tôi đã ra đến nơi, xong nói tôi có một số người bị thương, xin Đại Úy săn sóc dùm, viên Đại Úy cho người dẫn anh em bị thương lại một tu viện gần đó, tôi đi theo. Những vết thương được các seour rửa ráy hết sức cẫn thận, dòi con nào con nấy to bằng đầu đủa bò ra từ trong tủy xương tay mà anh em không cãm thấy đau đớn chi cả, có những nổi đau còn lớn hơn trong lòng mọi người và không ai dám nói ra vào lúc này vì nói ra chúng tôi sẻ khóc. Giọt lệ anh hùng phải rơi đúng lúc và đúng chổ. Các soeur cũng cho tôi vài viên thuốc gì đó uống cho khỏi làm độc, tôi cám ơn rồi về gọi Chuẩn Úy Linh đến để giao lại nhiệm vụ chỉ huy anh em. Viên Đại Úy hỏi tôi muốn ăn gì, tôi chỉ xin một tô cháo, và một chổ nằm.
Trong lúc chờ đợi, tôi bước ra khỏi hầm, bước lên cầu Diên Bình nhìn về dẫy Trường Sơn âm u phía Tây, ánh hỏa châu lung linh trong đêm tối như canh giấc nghìn thu cho đồng đội tôi đời đời an nghỉ, hay còn tiếp tục đâu đó cuộc chơi tốn nhiều xương máu vì hai chử tự do, những người đi không về đêm nay, có Hạnh, có Sơn, có Khánh hình như đang bay theo những đốm lửa nổ bộp trên không rồi tan vở từ từ thành hình một cánh dù trên đồi máu, tôi thấy mình nắm lấy hai dây thượng thăng, chạy băng xuống đồi, cánh dù từ từ lộng gió lên cao, bên tai tôi còn nghe tiếng kêu khát nước của Cho, tiếng đạn hú rợn người trên non, và tôi đi vào cơn mơ lúc nào không biết...
Tiểu đoàn 11 Dù, Song Kiếm Trấn Ải Charlie đã để lại nơi đây người anh cả Nguyễn Đình Bảo cùng ba trăm đồng đội , và Tiểu đoàn về được tới Võ Định trước sau chỉ có mấy chục người, chưa được một Đại đội. Sau Hiệp định Paris, Đại Úy Hùng mập, Đại đội trưởng 113 được trao trả. Xạ thủ đại liên Nguyễn Tấn Vinh dọc đường dẫn ra Bắc, nhiều lần bọn cán binh Việt cộng đòi giết để trả thù cho đồng bọn nhưng cấp chỉ huy của chúng không cho vì nhu cầu trao trả, anh hiện ở tại Houston. Người đệ tử tôi, Hạ sĩ Hạnh và nhiều anh em khác thì nằm lại tại một trại tù binh nào đó tại vùng Thượng du Bắc Việt vì bị sốt rét và đói khát. Trung úy Lạc giải ngủ sau trận này, không chết, nhưng vết thương trên đầu khi thở ra hít vào thì da đầu cũng phập phồng theo trông rất ghê, nên lúc nào cũng phải đội nón bảo hộ. Đại Úy Hùng móm và Chuẩn Úy Trưng đề lô bị bắt sống nhưng đã trốn thoát được sau đó, và chỉ vài tháng sau thì Đại Úy Hùng móm đã nằm xuống trên đường tái chiếm Cổ Thành Quãng Trị, chỉ cách ngôi nhà củ của mình có 100 mét. Sau trận Charlie, tôi được Thiếu Tá Mễ chạy cho một cái Nhành Dương Liễu, đợi mãi không thấy, hỏi lại thì được biết Bộ Tổng Tham Mưu cúp hết huy chương của Quân Khu 2 sau trận này.
Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù đã đánh hai trận lẫy lừng nhất trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa, Trận Charlie lãnh cở 10,000 quã đạn đại bác đủ loại trên một căn cứ nhỏ xíu, chưa có trận nào mà một đơn vị của quân đội ta bị pháo khủng khiếp đến như thế. Tiểu đoàn 11 Dù bị mất hơn 4 đại đội, nhưng đã tiêu diệt được ít nhất cũng một Trung đoàn cộng quân của Sư đoàn 320 quả đấm thép, một đổi bốn. Sau chỉ một tháng bổ xung quân số rồi ra tái chiếm Quãng Trị, chỉ trong một đêm đến sáng của một ngày tháng 6 năm 1972, Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù và đề lô pháo binh đã bắn cháy 26 xe tăng địch, đánh tan cả một trung đoàn cộng sản Bắc Việt gần bờ sông Mỹ Chánh, khiến viên Trung đoàn trưởng này bị cấp trên của chúng xử tử. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bay ra tưởng thưởng chiến công lẫy lừng này của Tiểu đoàn Song Kiếm Trấn Ải 11 Dù. Có lẽ quân sử thế giới cũng chưa có một đơn vị nào lập được một kỳ công thần kỳ như thế trong không đầy 24 tiếng đồng hồ, và cũng chính nhờ Tiểu đoàn 11 đã dùng hỏa tiển TOW bắn cháy một xe tăng T54 của địch định khóa đuôi Đại đội 1 Trinh Sát Dù của Thiếu Tá Dũng, Đại đội trưởng, mà tôi đã thoát chết được khi đi đề lô cho Đại đội này ngay sát bờ Nam sông Mỹ Chánh, Hải Lăng, Quãng Trị cuối tháng 6 năm 1972.

Thơ và Hồi ký của Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập