14/9/11

Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt(15 Chương)

Chương thứ nhất: Nghĩa hai chữ "quốc dân"

Xưa nay người ta thường hay nói đến nước thì trước hết kể vua, thứ nửa quan, còn dân không bao giờ kể đến. Nhưng đời bây giờ thì khác thế! Bên Âu, bên Mỹ cho đến Nhật Bổn, Trung Hoa ở Á Đông, họ không nói đến nước thì thôi, thoạt nói đến nước thì tức khắc nói đến dân, tai nghe chữ Quốc dân, mắt thấy chữ Quốc dân, miệng đọc chữ Quốc dân. Quốc dân! Quốc dân! Hai chữ đó như hình cha cha mẹ mẹ, không bao giờ quên.
Gần mấy năm đây, làn sóng Âu Mỹ tràn vào nước ta, mà người bảo hộ ta lại là người nước dân chủ, người ta trông có dân chủ mà hai chữ quốc dân mới phãng phất trong óc mình, nhưng miệng đọc hai chữ Quốc dân mà hỏi nghĩa chữ Quốc dân là sao chắc không ai trả lời đươ.c.
Chữ "Quốc" vì sao liền chữ "Dân", chữ "Dân" vì sao dính chữ "Quốc". Muốn trả lời câu hỏi đó, tất phải theo lịch sử. Sử nước ta đến đời Đường Nghêu mới có hai chữ "Việt thường", đời nhà Hán mới có hai chữ "Giao chỉ", đời nhà Đường mới có hai chữ "Yên Nam". Vậy từ đời nhà Đường Nghêu về trước, đã có gì nên nước đâu, núi rậm rừng hoang, đồng không mông hoạnh, bốn mặt chim kêu vượn hót, một vùng nước bạc đất vàng, xó này năm ba chú mọi, góc nọ sáu bảy anh Lào, kể bộ lạc cũng chưa nên gì, huống gì là nước? Vì ai gây dựng, vì ai mở mang, ai dọn đường, ai trổ lối ai xẻ núi, ai đốt rừng, bỗng chốc núi rậm hóa nên thôn cử đồng hoang gây nên thành thị? Đó chẳng phải ngìn vạn ức những người tổ tiên cao tằng ta làm nên ử Huống gì Quãng bình dĩ Nam Cao man dĩ Bắc, xưa vẫn có đất, mà đất gì của ta đâu? Vẫn có người mà người gì của nòi giống ta!
Nào Lâm Ấp, nào Chiêm Thành, nào Mên nào Lạp, nếu không dân ta xưa dắt đoàn kéo đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội mưa, trèo non vượt bể, khua nòi Chiêm, đuổi bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ vào túi mình, thì cơ đồ gấm vóc như sau này, chúng ta làm sao trông thấy được?
Suy thấu lẽ ấy, mới biết rằng Quốc là Quốc của dân ta, dân là ông chủ tiên chiếm của Quốc ta. Xưa tôi làm quyễn "Hải ngoại huyết thư" mà ông Lê Đại dịch đã có câu rằng: "Nghìn muôn ức triệu người chung hiệp. "Gầy dựng nên cơ nghiêp nước nhà. "Người dân ta, của dân ta "Dân là dân nước, nước là nước dân" Đọc mấy câu ấy thời nghĩa "Quốc dân" cũng đã rõ lắm.
Anh em thử nghĩ, trên dưới bốn nghìn năm, trong ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao nhiêu giây máu hột mủ tuôn đổ ra cung cấp cho nước đó, có một giọt nào là không phải của dân ta đâu? Biết bao lũ trước đàn sau, dắt díu nhau kinh dinh cho nước đó, có người nào không phải dân ta đâu! Vì vậy nếu không dân thì ai làm nên nước? Nếu không nước thời còn quý gì dân? Linh hồn nước là đâu! hẳn là dân đó! Khu xác dân ở đâu, hẳn là nước đó! Quốc tức dân, dân tức Quốc, hai chữ "Quốc dân" không thể rời nhau đươ.c. Nghĩa hai chữ "Quốc dân" là thế.



Chương thứ hai: Quốc dân với gia nô

Đau đớn thay! Thảm hại thay! Địa vị mình quốc dân mà chưa từng một ngày nào được chịu cái ơn giáo dục cho làm quốc dân; thân phận mình quốc dân mà chưa từng một ngày nào được hưỡng cái quyền lợi quốc dân.

Tục ngữ có câu: "Dân như trùn như dế" lại có câu thường nói: "Dân như gỗ tròn", điều đó suốt xưa nay, khắp Đông Tây không một dân nước nào như dân nước ta cã. Vì sao? Hay là trời cách chức quốc dân của nước mình rồi chăng? Hay là người nước mình không đang nổi cái chức quốc dân chăng? Hai lẽ tất có một. Đạo trời rất công, lòng trời rất nhân ái, người nước nào cũng là con trời cả, trời vẫn xem làm bình đẵng, trời có thương riêng gì dân nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật Bản? Có ghét riêng gì nước ta? Cái chức Quốc dân này, có lẽ nào trời cho ở họ mà cướp mất ở ta? Vậy thời cái chức làm Quốc dân vẫn là trời thưởng cho ta đó, nhưng tội tình thay! Trời vẫn ban cho ta mà ta không biết vâng chịu!
Xem lịch sử nước ta từ xưa đến nay hơn ba nghìn năm chỉ có gia nô mà không quốc dân thật. Quyền vua quá nặng, nặng không biết chừng nào; gia dĩ quyền quan lại hứng đở quyền vua mà tầng tầng áp chế, từ cửu phẩm kể lên đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng đến dân là vô phẩm, thân giá lại còn gì. Thằng này là con ngựa, thằng nọ là con trâu, buộc cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi, gặp Đinh thời làm nô với Đinh, gặp Trần thời làm nô với Trần, gặp Lê Lý thời làm nô với Lê Lý, phận con hầu với thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải thời đã lấy làm hớn hở vinh quang, tối năm đứng đầu ruộng mới được bát cơm, suốt đêm ngồi trên bàn khung cửi, mới có tấm áo mặc, mà thoạt mở miệng ra thời chỉ nói rằng "cơm vua áo chúa", đồn điền nầy sông núi nọ, mồ hôi lẫn nước mắt mà cày cấy mở mang, nhưng mà "chân đạp đất vua", lại giữ chặt một câu hoạt kê vô lý. Than ôi! Cái tư tưởng gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại cho chúng ta, bắt ta phải gông đầu khóa miệng, xiềng tay xích chưn, mà chịu gánh gia nô cho già đời mãn kiếp! Đau đớn thật! Thãm hại thật! Anh em ôi! "Dân vi quý" là câu nói của ông Mạnh Đại Hiền, "Dân vi ban bản" là câu nói của ông thánh Hạ Vũ hai người đó có phải nói lừa ta đâu? Ta ngu, ta ngẩn, ta hèn hạ quá chừng!
Mình ta sang trọng nhứt là cái quốc dân mà ta bỏ xó đi không nhắc tới, khăng khăng chỉ ôm lấy cái phẩm hàm gia nô làm vinh quý; Ôi! phẩm hàm làm gì anh em ôi! Nhà giàu phỉnh thằng ở thời vất cho một hai đồng tiền, nhà vua phỉnh đứa dân thời vất cho một hai trương giấỵ Nhưng nghĩ cho ra kỹ, thời một đồng tiền của nhà giàu phỉnh ta đó mà thân giá ta vẫn còn, đến như một trương giấy của nhà vua phỉnh ta đó, thời thân giá ta đã ô hô, ai tai rồi hẳn. Lại còn khi rủi gặp cơn dâu bể đổi đời, tờ giấy của nhà Đinh trải qua nhà Lý thời đã không đáng một xu, tờ giấy của nhà Lý trải qua nhà Lê hoặc nhà Trần thời cũng không ai ngó đến, huống gì vì một trương giấy đó mà quỳ mòn đầu gối, lạy lắm cả cằm râu, lại phải vất vô số máu me, ép vô số dầu mở cung cấp cho nhà ai mới hủ hỉ được một trương giấy đó, thời còn gì vinh quý nữa đâu! Gia nô! Gia nô! Cái oai kiếp đó, từ đây nên sám hối là phải.


Chương thứ ba: Quốc dân nên tự lập

Ô hô gia nô! Ô hô gia nô! Tủi thân vai ngựa lưng lừa, một kiếp gia nô biết bao giờ là thôi? Câu hỏi đó là một câu hỏi rất thiết ở đời bây giờ. Tôi xin trả lời rằng: "Gia nô nay đã biết thân, thời lo gánh chức quốc dân mới là". Gia nô là thằng ở của một nhà, Quốc dân là ông chủ của một nuớc, một bên thì ty tiện rất mực, một bên thì cao quý rất mực, mắt còn chưa mù, miệng còn nói được thời chắc cũng muốn lấy phần cao quý mà bỏ phần ty tiện. Ham cao quý mà chê ty tiện là gốc tự tấm lòng lương tri của chúng tạ Người xưa có câu rằng: "Vương giã dĩ dân vi thiên", nghĩa là dầu ông vua cũng phải xem dân bằng trờị Vậy thời không gì cao quý hơn dân hẳn. Nhưng với cái chúc Quốc dân đó, chúng ta đã ngu hèn dại dột, bị ai cướp bóc những tự bao giờ, nay muốn khôi phục lại cái chức quốc dân, chúng ta phải gấp lo thế nào mới được. Chức Quốc dân đó ta muốn khôi phục lại, có lẽ xin xõ với ai mà được rủ Xin với trời, thời trời vẫn cho ta tự bao giờ, không cần xin nữạ Sách Tây có câu: mình hãy tự giúp lấy mình, thời trời giúp cho (aide-toi, le ciel t’.aidra). Sách Đông Phương có câu:"Dân ta muốn điều gì, trời vẫn nghe theo điều ấy". Nếu đạo lý ấy mà thật, không cần gì xin ở trời.
Hay là xin ở người mà được rủ Lòng beo dạ thú, mắt ó miệng hùm, người thế giới đời bây giờ không ai thương ta hẳn. Nếu một mai mà ta lấy chức quốc dân quốc dân ta lại, thời ách cổ trâu, cương đầu ngựa, tức khắc phải giải phóng cho ta ngaỵ Lòng tham dục họ lấy gì đầỷ Tay hung tàn họ lấy gì sướng. Nào xe, nào ngựa, nào lầu, nào đài, nào vợ đẹp hầu non, nào của ngon vật lạ: những giống ép nặn máu mủ ta mà được đó, lấy gì như ý sở cầu? Ta một ngày thoát ngục gia nô thời nó một ngày đổ nền phú quý, nếu ta rày xin mai xỏ, lưỡi rát cổ khan, chúng nó có ân thưỡng cho ta chỉ qua "ngọn roi" và "ngòi bút", có đời nào mà chúng nó đem chức quốc dân cho ta đâụ Huống hố chức quốc dân là chúc sẵn trời ban cho ta, ta lấy lại thời còn, ta bỏ đi thời mất, không cần ai cho, mà ta cũng không cần gì xin ai cả.
Ôi quốc dân! Ôi! quốc dân! Cái chúc đó là chức rất cao quý của chúng ta, vẫn không ai cách được, mà cũng không ai cho được, chỉ cốt ở lòng ta cầu, vai ta gánh, tay ta đỡ, sức ta đua trí khôn ta tìm tòi, quyết lấy được mà thôi. Thiệt là: "Của ta, ta cậy gì ai Gánh ta ai có nghiêng vai đỡ cùng".
Vậy nên tôi nói rằng: Quốc dân nên tự lập.


Chương thứ tư: Bài thuốc tự lập có những vị gì?

Muốn cho quốc dân hay tự lập, trước hết phải biết tệ bệnh của quốc dân ta những điều gì. Có biết tệ bệnh quốc dân ta vậy sau chứng nào thuốc ấy mới bày ra phương tự lập được. Bây giờ tôi xin kể những tệ bệnh của quốc dân:
1. Tính ỷ lại
2. Lòng giả dối
3. Thói nhút nhát.
4. Tham lợi riêng.
5. Đua những việc hư danh vô vị
6. Không lòng thực yêu nước.
7. Không biết nghĩa hiệp quần.
8. Mê tín những tục hủ cổ.
9. Không biết đường kinh tế.
10. Không thương nòi giống.
Những bệnh đó muốn chữa cho lành, phải theo bệnh nguyênmà trị cho đến gốc. tôi xin kê bài thuốc như sau này:
1. Khí tự cường: nặng vô số ki-lô-gờ-ram (kg)
2. Lòng thành thực: mười phần già.
3. Gan quả quyết: hai lá thực lớn
4. Lòng công ích: một tấm rất dày
5. Vai thực nghiệp: một gánh càng nặng càng hay
6. Bụng nhiệt thành: mười phân luyện chín.
7. Giãi đồng tâm: một dây càng kiên thực càng tốt.
8. Trí thúc mới: 100 phân, trộn vào "hoa tự do" không kỳ nhiều ít.
9. Nội hóa: một vạn thức: kiêng ngoại hóa
10. Giống thân ái: hằng hà sa số, hột nào càng chắc càng hay
Hiệp cả bài như trên kia, tổng cộng 10 vị, bài thuốc đó là hiệp cả Đông Tây lại một lò, hòa cả tân, cựu làm một tể, dùng làm thuốc tự lập, chắc là không bài nào hơn. Anh em ta muốn biết cái ý dụng được, tôi xin kể vị thuốc nào chứng ấy như sau:


Chương thứ năm: Chữa chứng bệnh "tính ỷ lại"

Bệnh người nước ta, kể có 10 chứng, tôi đã nói như bài trên kia mà thăm xét cho ra chúng gì nặng thứ nhất thời có một chứng gọi rằng "ỷ lại tính".
Ỷ lại tính như thế nào? Tục ngữ có câu rằng "Tháp đổ có Ngô xây, việc gì vợ góa lo ngày lo đêm". Xem như câu ấy thực đáng nực cười! Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay saỏ Nghễnh đầu nghểnh cổ trông ngóng vào Ngô, nếu Ngô không xây thời vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp. Kìa người vợ góa thấy tháp đổ mà lo ngày, lo đêm, vẫn là một người có tâm huyết, mà lại bị những món bàng quan kia mỉa mai chê trách, thế thời những người đứng xung quanh tháp đó, tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, chém cha món này, nghiễm nhiên là một đống bồ nhìn rồi hẳn? Hỏi vì can cớ làm sao?
Thời chỉ ỷ lại mà thôi. Câu tục ngữ ấy thiệt vẽ đúng tâm tính của người nước ta. Hai muơi triệu người, ai nấy cũng mắt cũng tai, cũng tay chân mày mặt, nếu ai cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của mình thời có gánh gì không cất nổi?
Nhưng tội tình thay! Anh nào chị nào trong óc cũng chất đầy một khối ỷ lại: anh Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường trông mong vào thiếm Lục, lại chắc chắn có anh Cột cô Hường rồi. Rày lần mai lửa, tháng đợi năm chờ, kết cục không một người làm mà cũng không một người phụ trách nhiệm. Thế thời 25 triệu người, kỳ thực thời không người nào cả.
Chao ôi! Ma bệnh tính ỷ lại không xua đuổi cho sạch, còn mong có nòi giống ta nữa đâu! Bây giờ muốn chữa bệnh ỷ lại đó, tất cần phải dùng một vị rất quý trọng đem dùng chửa bệnh tính ỷ lại chắc kiến hiệu như thần. Tên vị thuốc này gọi rằng "khí tự cường". Khí tự cường đó không phải vay mượn cùa ai đâu: khi trời đất inh ra ta thời phải phú dữ cho ta một vừng chính khí. Xưa thầy Mạnh Tử có câu nói rằng:"chí đại, chí cường", bốn chử đó tức là khí tự cường của tạ Xương sắt, gan đồng ngang tàng 7 thước, đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Ta chẳng phải là người hay saỏ Cớ gì người mạnh mà ta hèn? Người vinh mà ta nhục? Người chủ nhân mà ta nô lệ? Ta chẳng oan uổng kiếp người lắm ru! Thôi cái tội tự bạo, tự khí, ta quyết rửa sạch cái vết nhơ này mới thôi.
Ỷ lại mà chi! Ỷ lại mà chi! Ta quyết tự cường cho chúng mày biết. Xin các anh em! Xin các chị em! Ai nấy cũng nhức nhối tinh thần, rán vai nong cánh, đồng một lòng, đều một sức, mình sắp lấy núi sông mình, tháp mình mình xây. Khí tự cường đã đầy đủ như thế, thời ma bệnh tính ỷ lại còn dám dùng dằng nữa đâu.
Vậy nên bài thuốc tự lập, vị thứ nhất phải dùng khí tự cường nặng vô số ki-lô-gờ-ram.

Mười thang thuốc chữa bệnh cho dân tộc Việt

Phan Bội Châu

Dẫn ngôn

Nước ta bây giờ đang cần có sách học. Học sách Tàu? Hán văn đã không còn thích dụng ở đời naỵ Học sách Tây? Pháp văn còn chưa mấy người thông hiểu. Lấy người mình đọc tiếng mình, thì sách nước mình ở lúc bây giờ không gì hơn làm bằng quốc văn. Tuy nhiên việc làm sách đó có dễ dàng đâu! Tất phải: dò xét lịch sử của nước mình đời xưa, thăm dò tệ bệnh của nước mình ngày nay, trông các gương liệt cường ở hiện tại, đo tính vận mạng dân tộc ở tương lai, nghĩ thế nào, viết một chữ, mở một lời mà hữu ích cho nhân tâm thế đạo, có thế sách mới có giá trị...
Tôi viết quyển sách này, chẳng qua dâng một phần nghĩa vụ với Quốc dân, hay dở, đúng không, hoặc có công hiệu gì không, thì quyền ở người đọc sách. Khổng Tử nói: "Tri ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ, tội ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ", nghĩa là ai biết lòng ta tất ở sách Xuân thu, ai bắt tội ta tất cũng ở sách Xuân thu. Quyển sách tôi viết đây cũng nói như vậy.
Sào Nam, 1927

Chương thứ nhất: Nghĩa hai chữ "quốc dân" 
Chương thứ hai: Quốc dân với gia nô 
Chương thứ ba: Quốc dân nên tự lập 
Chương thứ tư: Bài thuốc tự lập có những vị gì? 
Chương thứ năm: Chữa chứng bệnh "tính ỷ lại" 
Chương thứ sáu: Chữa bệnh "giả dối" 
Chương thứ bảy: Chữa chứng bệnh nhút nhát 
Chương thứ tám: Chữa Chứng Bệnh "Tham Lợi Riêng" 
Chương thứ chín: Chữa Chúng Bệnh Đua Đuổi Hư Danh
Chương thứ mười: Chữa chứng bệnh "ái quốc giả"
Chương thứ mười một: Chữa chứng bệnh "không biết hợp quần"
Chương thứ mười ba: Chữa chứng bệnh "không biết đường kinh tế" 
Chương thứ mười hai: Chữa chứng bệnh "mê tín hủ tục"
Chương thứ mười bốn: Chữa chứng bệnh "không biết thương nòi giống"
Chương sau hết: Bài tóm cách làm việc 

Tòa Án [mạo danh] Nhân Dân: Hoàn thành nhiệm vụ của Đảng và các nhiệm vụ chính trị

         Trịnh Viên Phương (bạn đọc Danlambao)
Hôm nay ngày 13.9.2011 đúng 66 năm thành lập Tòa án của chính quyền. Chánh án Tòa án tối cao (TATC) hiện nay là ông Trương Hòa Bình đã có viết một bức thư gởi cho các cán bộ của ngành tòa án. Bức thư này thể hiện quan điểm của ông chánh án của TATC cũng chính là bản chất thật của ngành tòa án trong chế độ hiện nay: Tòa án chỉ làm nhiệm vụ chính trị và hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ do đảng đề ra.
Ông Chánh án TATC Trịnh Hồng Dương để lại câu nói lịch sử. "Luật ở Việt Nam xử sao cũng được" và ông chánh án TATC kế tiếp là ông Nguyễn Văn Hiện cũng đi vào lịch sử với câu nói bất hủ: "ngành tòa án thiếu cán bộ trầm trọng phải vơ vét cả lái xe, nhân viên vệ sinh, cán bộ phòng tiếp dân của tòa án đi học nghiệpp vụ về đẩ làm thẩm phán".
Và bây giờ sau một nhiệm kỳ trong nhiệm kỳ tiếp theo của mình, ông chánh án Trương Hòa Bình, một tiến sĩ Luật xuất thân từ ngành công an phát biều một câu thật ấn tượng: "Nhìn lại lịch sử vẻ vang của ngành TAND 66 năm qua, trong mọi thời kỳ của Cách mạng Việt Nam, ngành TAND đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của đất nước, góp phần xứng đáng vào việc bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và sự nghiệp cách mạng của dân tộc."
Người ta chờ đợi người kế nhiệm tiếp theo sau các ông Trịnh Hồng Dương, Nguyễn Văn Hiện là ông Trượng Hòa Bình hiện nay nói một câu lưu truyền cho hậu thế đã lâu. Sau 1 nhiệm kỳ im hơi lặng tiếng chưa thấy ông Chánh án TATC nói câu gì thì bây giờ trong nhiệm kỳ tiếp theo này ông Trương Hòa Bình đã lên tiếng như vậy.
Một tiến sĩ luật thì phải hiểu hơn ai hết nhiệm vụ của Tòa án là XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT chứ không bị lệ thuộc vào ông A, bà B hay là lệnh miệng, chỉ thị của đảng này, nhiệm vụ của đảng kia.
Sau 66 năm ròng rã, bao oan khiên ngút trời của những phiên tòa thời cải cách ruộng đất. Công lý bị bóp méo từ thời vụ án Nhân Văn Giai Phẩm và những phiên tòa trở nên thành những bi kịch báng bổ công lý như vụ án Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ mới đây. Người ta ai cũng biết ai là đạo diễn, ai là người chi phối các phiên tòa đó theo đúng tuyên bố của Trương Hòa Bình "ngành TAND đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của đất nước, góp phần xứng đáng vào việc bảo vệ Đảng,..".
Dư luận thế giới loài người văn minh bàng hoàng về những bản án kỳ cục. Và bây giờ nhân dịp 66 năm thành lập ngành Tòa án gọi là của "nhân dân" thì chính miệng ông chánh án TATC khẳng định sự thật đen tối và đau lòng cho những ai còn ngây ngô còn một chút niềm tin vào công lý và nền pháp luật Việt Nam: đảng đứng đằng sau điều khiển và chỉ đạo bắt buộc Tòa án phải làm theo lệnh của đảng. Một sự thật đau lòng: luật pháp không bằng lệnh đảng.
Trong một rừng luật âm âm u u xử sao cũng được và những con người không chút kiến thức về luật pháp, không có một trình độ nhận thức tối thiểu chỉ biết làm theo mệnh lệnh và chỉ đạo của đảng thì thật là nguy hiểm. Được công nhận thẩm phán nhưng đọc hồ sơ, các điều luật khó khăn cho họ hơn là việc lái xe hay quét dọn nhà vệ sinh là những việc họ quen làm hơn. Hàng ngàn bản án bị sửa, hàng trăm ngàn bản án oan khiên người ta kêu cứu còn chồng chất ở TATC mỗi năm một nhiều hơn. Chính đảng cầm quyền nhận thấy rằng có oan sai nên mới ra nghị quyết 388 về bồi thường oan sai. 3 cháng trai ở Hải Dương đi tù oan hơn 10 năm có bồi thường 1 ngày tù 20 ngàn đồng đã thua thiệt rồi. Cho dù có bồi thường 1 ngày tù là 1 triệu đồng thì những thiệt hại về tinh thần, danh dự, uy tín và cả tuổi thanh xuân của họ thì trả bằng giá nào cho tương xứng?
Rất ít các vụ bồi thường oan sai, được xin lỗi ở địa phương và trên các phương tiện truyền thông mà báo chí phát hiện. Bao nhiêu mảnh đời tan nát khi gia đình của họ bị oan khiên bới những con người cầm cân nảy mực vừa ngu dốt vừa theo lệnh đảng? Lấy trường hợp nghệ sĩ piano lừng danh Đặng Thái Sơn làm một ví dụ minh họa. Anh nổi tiếng nhưng cha anh là ông Đặng Đình Hưng, một thành viên trong nhóm nhân văn giai phẩm bị trù dập cho đến ngày nhắm mắt. Hữu Loan, Hoàng Cầm bị đày đến tận cùng khổ ải. Phùng Quán, Trần Dần thì đau khổ trăm bề. Đảng đứng đằng sau chỉ thị cho làm bậy nhưng chỉ bắt vài quan chức tép riu của Viện kiểm sát hay tòa án địa phương đến nhà nạn nhân xin lỗi qua loa rồi thì thôi.
Dù biết là luật pháp chỉ bảo vệ quyền lợi cho nhóm cầm quyền nhưng luật pháp cũng có đạo đức và liêm sĩ chứ không phải luật pháp bị ép làm điều phi nhân như hiện nay thì lịch sử loài người thời man rợ nhất cũng không hành xử như vậy.
Ai đứng trên luật pháp? Ai biến công lý thành trò báng bổ lương tri nhân loại? Cám ơn ông Trương Hòa Bình, chánh án TATC hiện nay, một tiến sĩ luật từ lò công an đã trả lời cho muôn ngàn thắc mắc xưa nay: đảng cộng sản Việt Nam.
Biên Hòa, nhân ngày thành lập ngành tòa án Việt Nam: 13.9.2011
Trịnh Viên Phương (bạn đọc Danlambao)
danlambaovn.blogspot.com
__________________
Thư của đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC gửi cán bộ, công chức ngành TAND nhân kỷ niệm 66 năm Ngày truyền thống ngành TAND (13/9/1945-13/9/2011)
Thứ Năm, 08/09/2011 23:32
Nhân dịp kỷ niệm 66 năm Ngày truyền thống ngành TAND (13/9/1945-13/9/2011), thay mặt Ban cán sự Đảng, Lãnh đạo TANDTC, tôi xin gửi đến các đồng chí nguyên là lãnh đạo TANDTC và Trọng tài kinh tế Nhà nước qua các thời kỳ; các cán bộ ngành TAND đã nghỉ hưu cùng toàn thể cán bộ - công chức; các vị Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân cùng gia đình lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và thắng lợi trong công tác.
Nhìn lại lịch sử vẻ vang của ngành TAND 66 năm qua, trong mọi thời kỳ của Cách mạng Việt Nam, ngành TAND đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của đất nước, góp phần xứng đáng vào việc bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Với những thành tích đã đạt được, ngành TAND đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao Vàng; Tòa án quân sự trung ương được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì và Huân chương Độc lập hạng Ba. Đồng thời, hàng trăm đơn vị, hàng ngàn cán bộ công chức của ngành TAND đã được Đảng, Nhà nước và Chính phủ tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý như Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Huân chương Lao động, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Cờ Thi đua của Chính phủ…
Nhân kỷ niệm 66 năm ngày truyền thống, ngành TAND trân trọng cảm ơn sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời và sâu sát của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành hữu quan ở Trung ương, các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương… tạo điều kiện giúp đỡ ngành TAND hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao.
Nhiệm vụ của ngành TAND và trong những năm tới đây là rất nặng nề. Một mặt, chúng ta phải hoàn thành chỉ tiêu, đảm bảo chất lượng xét xử các loại vụ án theo thẩm quyền trong bối cảnh các vụ án tăng về số lượng và phức tạp về tính chất. Mặt khác, ngành TAND phải quyết tâm nỗ lực phấn đấu để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng; tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 49/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và các nghị quyết của Quốc hội liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngành TAND.
Để đảm bảo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ nêu trên, tôi đề nghị mỗi cán bộ, công chức trong ngành cần phát huy truyền thống vẻ vang 66 năm xây dựng, trưởng thành của ngành TAND, đoàn kết chung sức chung lòng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, phấn đấu thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ được giao, ra sức thi đua “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, gắn với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” để góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chung của ngành TAND.
Tôi tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan hữu quan; phát huy truyền thống tốt đẹp trong 66 năm xây dựng và phát triển, nhất định chúng ta sẽ vượt qua khó khăn, thử thách, phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, xứng đáng là vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp.
Chào thân ái!
TRƯƠNG HÒA BÌNH
Nguồn: http://congly.com.vn/thu-cua-dong-chi-truong-hoa-binh-bi-thu-trung-uong-dang-chanh-an-tandtc-gui-can-bo-cong-chuc-nganh-tand-nhan-ky-niem-66-nam-ngay-truyen-thong-nganh-tand-13919451392011-c1035n20110908233226718p0.htm

Vì sao tội ác lên ngôi ?

Tống Văn Công
Theo Viet-Studies


Suốt mấy tuần qua, báo chí trong nước đăng nhiều bài phân tích nguyên nhân của hai vụ giết người cướp của ghê rợn xảy ra cùng thời gian ở Bắc Giang và Bình Dương. Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình vốn là nhà giáo, bà bức xúc “rung chuông về giáo dục nhân cách”. Nhiều vị tiến sĩ tâm lý vào cuộc. TS Thạch Ngọc Yến có bài viết Thiếu vách chắn trước cơn bốc đồng, cho rằng các vụ này có “mẫu số chung là: Họ có một quá khứ không bình thường. Có thể là sự xáo trộn trong gia đình, là tuổi thơ bị bỏ rơi…”. PGS-TS Lê Trọng Ân có bài Người lớn hãy làm gương, với mở đầu “Ông bà ta dạy: Con dại cái mang. Do đó con cái hư hỏng, cha mẹ phải xem lại mình…”. Nhà báo Cao Tuấn có bài Sức mạnh kháng thể, “khái quát hơn cái ác có vẻ như đang ẩn hiện khắp nơi”. Thế nhưng ông lại nhận định: “Nó là sản phẩm “quái gỡ” (nhưng không nhiều) của một xã hội đang vận động đi lên – các yếu tố cũ, lạc hậu chưa mất hẳn và yếu tố mới, tiến bộ chưa định hình… Xét về mặt triết học, đây là thời kỳ chuyển tiếp không dễ dàng đối với bất cứ xã hội nào”. Lạ lùng là ông khuyên đừng “quá chú tâm truy tìm gốc rễ của những hiện tượng quái gỡ, hãy dành nhiều thời gian hơn để thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng lành mạnh”. Thật không khác nào trước con bệnh ngặt, lại khuyên thấy thuốc chớ chẩn đoán bệnh, mà hãy khuyến khích họ vui chơi, chạy nhảy!


Tôi không phải nhà nghiên cứu tâm lý, nhưng có lưu tâm đến vấn đề đạo đức xuống cấp, khi nghe anh Thái Duy (tức nhà văn Trần Đình Vân – tác giả Sống như anh) từ miền Nam trở ra Hà Nội tâm sự: “Cậu ạ, Đảng mình có trách nhiệm đã làm xuống cấp đạo đức người dân Hà Nội. Hồi tớ đi học, mỗi khi thấy đám ma từ xa, cả bọn xuống xe đạp, giở mũ cúi đầu, chờ xe đi qua. Còn nay, bọn trẻ ngang nhiên phóng xe, lại còn lớn tiếng chửi thề, tại sao xe tang đi chậm cản đường!”. Tôi nghĩ đạo đức xuống cấp bắt đầu từ chuyện lớp trẻ chửi xe tang cản đường đã phát triển dần từng năm một! Tết Nguyên đán năm 2009, Hà Nội xảy ra vụ hằng trăm người xô đạp nhau tranh cướp hoa anh đào, tôi đã viết bài Vì sao đạo đức băng hoại tặng nhà thơ Hoàng Hưng và giáo sư Nguyễn Huệ Chi là hai người quan tâm vụ việc này. Gần ba năm qua, tình trạng xã hội và con người Việt Nam đã đi tới câu hỏi bức thiết hơn: Vì sao tội ác lên ngôi?
I. Đoạn tuyệt với đạo đức truyền thống!


Xin đọc Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Marx – Engels, Phần 2, “Những người vô sản và những người cộng sản” (Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội, năm 1974, trang 77):
“Có người sẽ bảo: “Cố nhiên những quan điểm tôn giáo, đạo đức, triết hoc, chính trị, pháp quyền, v.v. đã biến đổi trong tiến trình phát triển lịch sử. Nhưng tôn giáo, đạo đức, triết học, chính trị, pháp quyền vẫn luôn được bảo tồn qua những biến đổi ấy.


Vả lại, còn có những chân lý vĩnh cửu như tự do, công lý, v.v. chung cho mọi chế độ xã hội. Thế mà chủ nghĩa cộng sản lại xóa bỏ những chân lý vĩnh cửu, nó xóa bỏ tôn giáo và đạo đức chứ không đổi mới tôn giáo và đạo đức; làm như thế là trái ngược với tất cả sự phát triển lịch sử trước kia?”.


Lời buộc tội ấy rốt cuộc là gì? Lịch sử của tiến bộ xã hội từ trước tới nay đều diễn ra trong đối kháng giai cấp, những đối kháng mang những hình thức khác nhau tùy thời đại. Nhưng dù những đối kháng mang hình thức gì đi nữa, hiện tượng một bộ phận này của xã hội bóc lột một bộ phận khác cũng vẫn là hiện tượng chung cho tất cả các thế kỷ trước kia. Vậy không có gì đáng lấy làm lạ khi thấy rằng ý thức xã hội của mọi thế kỷ mặc dù có muôn màu muôn vẻvà hết sức khác nhau vẫn vận động trong một số hình thức chung nào đó, trong những hình thái ý thức chỉ hoàn toàn tiêu tan khi hoàn toàn không còn có đối kháng giữa các giai cấp nữa.


Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với tư tưởng cổ truyền…”.


Từ những năm 50 của thế kỷ 20, người Việt Nam bắt đầu được nghe, “nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á”. Nhà nước này sắp xếp thứ tự của “tứ dân” từ sĩ, nông, công, thương phải thay đổi: Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng; Giai cấp nông dân là quân chủ lực cách mạng, nhưng lại chia thành: cố nông, bần nông, trung nông. Cố nông, bần nông là cốt cán tin cậy. Trung nông kém tin cậy hơn, chia ra trung nông lớp dưới và trung nông lớp trên. Phú nông vừa lao động vừa bóc lột, phải tước bỏ tính bóc lột của họ. Địa chủ không còn nằm trong lực lượng yêu nước mà là đối tượng phải tiêu diệt. Tầng lớp trí thức có cái đuôi là tiểu tư sản, được gọi đùa là “tạch tạch xè”, bị xem là có lập trường bấp bênh, dễ bị dao động, cần được theo dõi, uốn nắn. Thương nhân là hạng người xấu xa nhất. Giai cấp tư sản là đối tượng phải tiêu diệt, nhưng tư sản thương nghiệp, gọi là bọn mại bản phải tiêu diệt đầu tiên. Nhiều người cho rằng sự sắp xếp lại “tứ dân” như trên là đem tay chân thay thế cho bộ não của xã hội! (Đến nay, ở thời đại kinh tế tri thức việc gọi giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo thì sự vô lý càng trở nên bức xúc!). Từ lúc ấy, “Đại đoàn kết” đã nhường bước cho “đấu tranh giai cấp”, đạo đức bắt đầu đảo lộn, chữ “tố” lên ngôi thành một loại hoạt động xã hội được tôn vinh, đẻ ra thành ngữ mới “con tố cha, vợ tố chồng”!


Đạo đức cao nhất là trung thành với chủ nghĩa Marx – Lénin. Với nguyên tắc dân chủ tập trung, lãnh tụ Đảng cộng sản trở thành Thượng đế. Lãnh tụ quốc tế cộng sản đáng kính yêu hơn cả cha mẹ mình: “Vui biết mấy khi con học nói. Tiếng đầu đời con gọi Stalin” (Tố Hữu). Chữ trung, chữ hiếu truyền thống cũng thay đổi. Lời Cụ Hồ “trung với nước” bị đổi thành “trung với Đảng”. Trong cuộc chỉnh Đảng Trung ương khóa 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Có người nói, người cộng sản là vô tình, là bất hiếu. Con làm cộng sản có khi phải bỏ cả bố mẹ. Cái đó có hay không? Có! Người cách mạng nhất, là người đa tình, chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hằng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc phong kiến dày vò. Mình chẳng những cứu bố mẹ mình mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa. Phải hiểu chữ hiếu theo tinh thần cách mạng rộng rãi như vậy… Gia đình to là cả nước và gia đình nhỏ: Cái nào nặng? Cái nào nhẹ? Người cách mạng chọn gia đình to! Đó là cách hiểu xa thấy rộng. Phải hy sinh cái nhỏ cho cái lớn. Phải hy sinh cái riêng cho cái chung” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, trang 389).


Sách Đại học (Tập 1 trong Tứ thư) viết: “Có hiếu là phải biết phụng sự vua. Có đễ là biết phụng sự người lớn”, tức là có ý dạy rằng, phụng sự vua cũng có nghĩa là có hiếu với cha mẹ, chứ không phải đòi hỏi chọn việc phụng sự vua mà bỏ cha mẹ.


Có lẽ, vì “cách mạng chọn gia đình to, hy sinh gia đình nhỏ” thể hiện triệt để tư tưởng của chủ nghĩa tập thể, cho nên “5 điều Bác Hồ dạy” không có điều nào dạy con cái phải hiếu thảo, kính yêu cha mẹ, ông bà. Bởi vì cha mẹ, ông bà của gia đình nhỏ đã được đặt trong gia đình lớn là: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào”.


Trong hồi ký Chuyện làng ngày ấy nhà thơ Võ Văn Trực đã kể khá sinh động chuyện làng của ông phá bỏ chùa chiền, miếu mạo, tập thể hóa cả mồ mả ông bà. Tiếp theo đó, hồi ký Cọng rêu dưới đáy ao, Võ Văn Trực kể chuyện chính quyền, đoàn thể buộc người ta phải hy sinh mọi lợi ích riêng tư, dành tất cả cho tập thể. Con người muốn cho riêng mình thì buộc phải che giấu, nói dối (lý lịch gia đình, các mối quan hệ xã hội, báo cáo láo thành tích, những lo toan cho cá nhân, gia đình mình…). Do đó, Từ điển có thêm từ “khai man”, “tố điêu”.
II. Xây dựng đạo đức cách mạng


Từ năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Sửa đổi lề lối làm việc đã đề ra việc chống các bệnh chủ quan, ích kỷ hẹp hòi, cá nhân, bản vị, cục bộ và xây dựng đạo đức cách mạng. Từ đó cho tới năm qua đời, Cụ viết rất nhiều bài mở rộng tư tưởng này, tiêu biểu là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, viết ngày 3-2-1969, và trong Di chúc đoạn nói về Đảng cầm quyền. Cụ chỉ ra 10 bệnh của chủ nghĩa cá nhân cần phải xóa bỏ và đề ra nội dung đạo đức cách mạng gồm: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.


Chí công vô tư vốn là một khái niệm đạo đức cũ. Chí công nghĩa là rất công bằng; vô tư là không có lòng riêng khi làm việc chung. Khái niệm này vốn dành cho quan lại, chứ không phải cho dân thường. Với quan chức, nó cũng chỉ đòi hỏi họ chí công vô tư khi hành xử công việc, chứ không phải trong cuộc sống riêng tư. Bởi vì trong cuộc sống riêng tư, họ cũng muốn lên chức, có lương cao, bổng hậu, vợ đẹp con khôn, thành đạt.


Cụ Hồ biến ý nghĩa cụm từ này thành đạo đức cách mạng, đòi hỏi mọi người đều phải thực hiện. Thậm chí Cụ cho rằng, nhiều đảng viên không thâm nhuần tư tưởng chí công, vô tư cho nên mắc chủ nghĩa cá nhân; và phải chí công, vô tư thì mới có cần, kiệm, liêm, chính. Theo cách hiểu phổ biến thì các nội dung trên đòi hỏi con người phải triệt tiêu cái riêng, đưa cái chung, cái tập thể lên địa vị độc tôn. Trong thời chiến (mà nước ta thời chiến quá dài!), mọi người dân dễ chấp nhận tư tưởng ấy, nhất là khi đặt mình giữa cái sống, cái chết ở chiến trường. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Kiến Giang “trước sự hy sinh, con người thật ra phải có ý thức rất cao về cá nhân mình… Đó là phút thăng hoa của con người cá nhân”.


Tuy nhiên, nếu cho rằng chủ nghĩa tập thể giúp cho Việt Nam chiến thắng hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ thì không đúng. Chính chủ nghĩa yêu nước mới là động lực chiến thắng, còn chủ nghĩa tập thể chỉ hạn chế động lực ấy. Có thể đưa ông Kim Nhật Thành của Triều Tiên làm ví dụ. Ông Kim được cả triệu quân Trung Quốc chi viện, nhưng vẫn không thắng nổi Hàn Quốc. Bởi ông ta không có Cách mạng Tháng 8, không có Hiến pháp 1946, không có Mặt trận dân tộc giải phóng ở miền Nam với lá cờ Hòa bình, Độc lập, Trung lập.


Nước Mỹ giàu mạnh, nhờ có dân chủ mà người dân có quyền ngăn chặn chiến tranh Việt Nam chỉ trong 5 năm, khi họ thấy chính phủ sai lầm. Việt Nam nghèo, lại bị cấm vận, nhưng đã kéo dài sự có mặt ở Campuchia đến 10 năm, chịu biết bao hậu quả không đáng có!


Chủ nghĩa tập thể vô hiệu hóa trách nhiệm cá nhân và tước mất lực lượng đại đoàn kết dân tộc ngay trong thời chiến.


Những ai từng tham gia kháng chiến chống Pháp đều biết giai thoại này: Các ông Năm Lửa, Ba Gà Mổ bảo nhau: “Bọn Việt Minh hội họp liên miên, cho nên còn rất ít thì giờ tìm đánh mình. Nếu họ bớt hội họp thì nguy cho mình đó!”.Từ những năm 50, do lo sợ bị loại vì chủ trương chấn chỉnh tổ chức, nhiều cán bộ chỉ huy cấp khu đã rời bỏ kháng chiến như Bảy Viễn, Trịnh Khánh Vàng… Trong thời chống Mỹ, rất nhiều nhân tài bị cách chức (như Kim Ngọc), hoặc giam cầm (Đặng Kim Giang, Vũ Đình Huỳnh, Nguyễn Kiến Giang…).


Hơn 60 năm qua, năm nào cũng có chỉ thị, nghị quyết giảm hội họp, nhưng không thể giảm được. Bởi vì, cả hệ thống chính trị đều theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, rất cần có một quyết định tập thể để khi công việc thất bại chẳng có ai phải giơ đầu chịu báng! Vinashin nuốt tiền thuế của dân trung bình mỗi đầu người hơn một triệu đồng, nhưng đâu có ai bị kỷ luật. Bauxite Tây Nguyên, dự án lớn của Đảng, nhà nước đang băm nát đường vận chuyển ở hai tỉnh, gây tai nạn giao thông nghiêm trọng, và nếu mai kia xảy ra tai họa trút bùn độc lên đầu 20 triệu nhân dân thì cũng sẽ không có ai phải hầu tòa!


Sau giải phóng miền Bắc, chủ nghĩa tập thể bóp nghẹt mọi quyền tự do cá nhân. Tuy nhiên, chỉ có giới văn nghệ sĩ phản ứng bằng vụ Nhân văn – Giai phẩm. Bởi vì đặc thù của lao động nghệ thuật đòi hỏi phải có không gian tự do cá nhân tuyệt đối mới có thể sáng tạo.


Không chấp nhận cạnh tranh, chủ nghĩa xã hội tổ chức phong trào thi đua tập thể để thúc đẩy lao động sản xuất. Đó là hình thức làm tăng dối trá theo cấp số nhân. Ở miền Bắc ai cũng đã nghe chuyện Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến thăm trại lợn hợp tác xã. Ông hết sức ngạc nhiên khi thấy lợn cắn nhau quá dữ dội. Thì ra, Chủ nhiệm trại lợn đã có “sáng kiến” mượn lợn nuôi cá thể của các gia đình, đem nhốt chung vào chuồng hợp tác xã, để báo cáo Thủ tướng về tốc độ phát triển thần kỳ của chăn nuôi tập thể, chứng minh tính ưu việt không thể chối cãi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm sa sút, lụn bại ngành giáo dục cũng là phong trào thi đua tập thể “hai tốt”. Dù ông Nguyễn Thiện Nhân gào lên “nói không” thì phong trào thi đua với mục đích tối cao là thành tích rất lặng lẽ cãi lại ”nói có”!


Không có tự do báo chí, tự do ngôn luận, chủ nghĩa xã hội kêu gọi phê bình, tự phê bình để khắc phục khuyết điểm. Nhưng thực tế cho thấy chả có ai chịu “vạch áo cho người xem lưng”. Đã có giai thoại: “Xin nghiêm khắc phê bình anh Hai luôn làm việc quá sức. Xin chân thành góp ý với anh Hai rằng, sức khỏe của anh Hai không phải là của riêng anh mà là tài sản quý báu của tập thể, của Đảng”. Cho đến nay, những nơi bị phát hiện tham nhũng lớn đều là nơi đang có phong trào thi đua sôi nổi, có tinh thần phê bình, tự phê bình thẳng thắn, đã nhiều năm đạt danh hiệu “trong sạch, vững mạnh”, như Đại lộ Đông Tây của Huỳnh Ngọc Sĩ chẳng hạn.


Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu nói nổi tiếng “Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa” (Câu này trái với Marx, theo Marx vật chất có trước ý thức). Con người xã hội chủ nghĩa là con người có đạo đức cách mạng, là con người của giai cấp vô sản, mọi tính người hình thành trong lịch sử bị coi là của giai cấp tư sản, phải xóa bỏ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc đặt khuôn mẫu cho con người xã hội chủ nghĩa, giống như kiểu dùng chiếc giường Procuste đặt con người lên đó, ai dài hơn giường thì chặt bớt cho vừa, ai ngắn hơn thì kéo cho dài ra. Cho đến khi phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ cũng vẫn chưa có con người xã hội chủ nghĩa! Trong nhật ký ngày 18-3-1958, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết: “Bây giờ đã đến cảnh không ai dám nói thật với ai”. Năm mươi năm sau, nhà văn Nguyễn Khải, đảng viên 60 tuổi Đảng, giải thưởng Hồ Chí Minh, lặp lại lời Nguyễn Huy Tưởng như một tổng kết bản chất của chế độ trong bút ký chính trị cuối cùng: “Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật”. Như vậy có thể nói, tất cả những người ưu tú nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không có một ai thực hiện được đạo đức cách mạng. Nói dối, nghĩ một đằng, nói một nẻo chính là nguyên nhân đầu tiên, từ đó đẻ ra những tệ nạn khác làm sa đọa xã hội.
III. Đạo đức cách mạng xung khắc với Đổi mới!


Cuối thập kỷ 80, đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện, nổi bật là kinh tế và chính trị.


Ở thành phố Hồ Chí Minh, ông Võ Văn Kiệt lắng nghe nhân dân, đã dám làm một việc tày đình là “xé rào”, thực hiện “hài hòa 3 lợi ích”: lợi ích nhà nước, lợi ích doanh nghiệp và lợi ích cá nhân người lao động. Lợi ích cá nhân người lao động là điều chỏi với chủ nghĩa tập thể! Năm 1982, khi bị ra khỏi Bộ Chính trị, trở về làm Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Linh tiếp tục “xé rào” làm cho kinh tế, đời sống dễ chịu so với cả nước.


Năm 1983, trong đợt học tập Nghị quyết Trung ương (khóa 5), tôi được xếp vào tổ thảo luận của khối Dân vận Trung ương do Trưởng ban Vũ Quang làm tổ trưởng. Ông Vũ Quang hướng dẫn tổ phê phán “chủ nghĩa tự do kinh tế ở Sài Gòn” đang vi phạm nghiêm trọng các nguyên lý xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, năm 1986 Đại hội 6 đã chọn “xé rào” làm tiền đề của Đổi mới, lấy đổi mới kinh tế làm khâu đột phá. Đổi mới kinh tế tức là trả lại tự do, dân chủ cho nhân dân, nông dân được ra khỏi hợp tác xã để nhận khoán hộ, người có vốn được đứng ra kinh doanh sản xuất và mua bán. Đổi mới kinh tế xóa bỏ những nguyên lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, tức là chọc thủng một mảng lớn chế độ toàn trị, nhưng được gọi tránh né là “chế độ quan liêu, bao cấp”.


Thật đáng tiếc, ông Nguyễn Văn Linh không ý thức được rằng “ba lợi ích” mà ông là đồng tác giả với Võ Văn Kiệt đã làm bật dậy sức sáng tạo của toàn dân, chính vì nó rời bỏ chủ nghĩa tập thể lỗi thời, trả lại tự do cá nhân cho người lao động. Ông khư khư định hướng xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận đổi mới chính trị tương ứng với kinh tế. Ông vừa mới nghe Trần Độ để cho ra Nghị quyết 05 “cởi trói cho văn nghệ sĩ”, ngay sau đó đã giật mình, vội quy tội Trần Độ chệch hướng xã hội chủ nghĩa! Ông diệt sinh mệnh chính trị Trần Xuân Bách, chọn Đỗ Mười, người có “thành tích” trong một tuần đánh tan giai cấp tư sản dân tộc, làm người kế nhiệm. Ông chủ động cúi mình cầu thân với Bắc Kinh, vì cho rằng “dù có tư tưởng bành trướng, nhưng cùng là xã hội chủ nghĩa với nhau”. Đổi mới vì thế bị dẫm chân tại chỗ, đất nước bỏ lỡ nhiều cơ hội: không sớm bình thường quan hệ với Mỹ, chậm vào WTO, không dân chủ hóa xã hội, làm cho hệ thống chính trị thoái hóa, cản trở phát triển kinh tế, hiện nay có nguy cõ không thể thực hiện ðýợc mục tiêu ”ðến nãm 2020 nýớc ta cõ bản trở thành nýớc công nghiệp theo hýớng hiện ðại” (Nghị quyết Ðại hội 11), không tạo ðýợc ðiều kiện hòa giải, hòa hợp, phát huy sức mạnh dân tộc. Không đổi mới chính trị tương thích với kinh tế đã đưa tới khủng hoảng toàn diện mà nổi bật là hai tình trạng sau đây:


1- Một là, quyền lực nhà nước không bị kiểm soát, hạn chế, không có nền tư pháp độc lập; không có báo chí tự do, đã khiến cho đảng viên, cán bộ lợi dụng chức quyền làm giàu bất chính, nổi bật là tình trạng chiếm đoạt nhà cửa, đất đai, ghê gớm hơn là hình thành những “nhóm lợi ích” lũng đoạn chính sách nhà nước. Nhìn từng làng xã, nhìn rộng ra cả nước, ai cũng thấy những kẻ tự xưng là đầy tớ của nhân dân, mở miệng là rao giảng đạo đức cách mạng, chí công vô tư, chính là những “tư sản đỏ”, sống trên luật pháp, tham nhũng từ to đến nhỏ, ăn cả tiền từ thiện cứu trợ đồng bào các vùng bị lũ lụt. Những người cơ cực, những dân đen thấp cổ bé họng, uất ức tìm mọi cách giành quyền sống trong một xã hội bất minh, bằng mọi cách ”loạn cương” như lừa lọc, cướp giật, giết người. Thế là hình ảnh một xã hội trung cổ được tái hiện: “cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.


Có thể xếp song song hai dòng người sa đọa, nhưng đối chọi nhau trong bức tranh xã hội Việt Nam: Một bên là Đinh Văn Hùng Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình buôn bình cổ, trống đồng trị giá hàng triệu USD, đã “hạ cánh an toàn, đang sống trong cơ ngơi như đế vương; Nguyễn Trường Tô, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch tỉnh Hà Giang mua trinh học sinh vị thành niên, bị gái điếm chụp ảnh khỏa thân… đã “hạ cánh an toàn,” đang sống trong biệt thự sang trọng. Và tiếp theo chúng là hằng ngàn, hằng vạn “đồng chí chưa bị lộ”! Bọn này ngày càng đông nối nhau theo đà sa đọa của hệ thống chính trị. Chính chúng nó là nguyên nhân làm nảy sinh những kẻ thủ ác trong danh sách thứ hai, gồm những Lê Văn Luyện đang mọc lên như nấm!


2- Hai là, tự do kinh tế giải phóng sức lao động sáng tạo của cá nhân, đồng thời đánh thức cho họ biết rằng mình còn có những quyền của con người vẫn còn bị tước đoạt: Đó là quyền làm chủ nhà nước, quyền được mở mồm ra nói, quyền được hội họp và lập hội để bảo vệ quyền lợi nghề nghiệp… Những ông Vua Lốp mới (nhân dân Hà Nội gọi ông Nguyễn Văn Chẩn là “vua lốp”, người tự chế ra dép lốp, tái sinh lốp xe cũ như mới, bị chính quyền Hà Nội xử tù 3 lần và tịch biên tài sản) của tự do chính trị liên tục xuất hiện từ Trần Xuân Bách đến Nguyễn Văn An, rồi Cù Huy Hà Vũ…


Chân lý đang chia đôi thành hai trận tuyến hết sức gay gắt: Yêu nước và Phản động!


Báo chí lề trái cùng với đông đảo nhân dân gọi Cù Huy Hà Vũ là nhà yêu nước vĩ đại. Giáo sư Ngô Bảo Châu viết blog so sánh Hà Vũ với các vị anh hùng Hector, Tumus, Kinh Kha, “Những nhân vật huyền thoại này đã làm mọi thứ để được đối mặt với số phận, để hoàn thành sứ mệnh của mình trong cuộc đời này”. Hậu thuẫn Hà Vũ là hằng ngàn người ký tên kiến nghị đòi trả tự do cho ông, gồm nhiều đảng viên, lão thành cách mạng, nhân sĩ, trí thức và nhân dân trong, ngoài nước, kể cả những người đã tham gia hằng chục cuộc biểu tình khắp cả nước từ tháng 6 đến nay. Tiếp sau đó, là hàng triệu nông dân mất đất, bị “giải phóng mặt bằng” bởi các “nhà đầu tư” cấu kết với đảng viên, cán bộ địa phương ép họ chịu đền bù đất đai với giá rẻ mạt, khiến họ hết đường sinh sống. Bên cạnh đó là hàng triệu công nhân tham gia hơn 4000 cuộc đình công bị coi là trái pháp luật, vì không có quyền chọn cho mình một tổ chức công đoàn dám bảo vệ quyền lợi đoàn viên.


Ngược lại, phía nhà cầm quyền, báo chí lề phải gọi những người kể trên là bọn phản động, nghe theo xúi giục của các thế lực thù địch chống Đảng, chống nhà nước và có âm mưu chia rẽ tình hữu nghị Việt – Trung. Nông dân bị Luật đất đai tước quyền sở hữu cá nhân (vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân), bị chặn lại với lệnh cấm khiếu kiện tập thể. Công nhân bị cấm không được phép cử Ban đại diện công nhân ở những nơi chưa có công đoàn do Đảng lập ra.


Qua hai bức tranh xã hội miêu tả khái quát, có thể nói: Tội ác tràn lan hiện nay không phải do “thiếu vách chắn trước cơn bốc đồng”, không phải “con dại, cái mang”, càng không phải “yếu tố cũ, lạc hậu chưa mất hẳn”, nó là sản phẩm mới đang sinh sôi hằng ngày do khủng hoảng văn hóa, đạo đức, nằm trong cuộc khủng hoảng toàn diện của xã hội Việt Nam, nguyên nhân chính là hệ thống chính trị không phù hợp với nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản hoang dã. Bài thuốc chữa duy nhất cho nó là dân chủ hóa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền với tam quyền phân lập.


Ngày 9-9-2011
T.V.C