15/1/11

Mao Trạch Đông - ngàn năm công tội

“…tôi sẵn sàng kể với thế hệ sau lịch sử chân thực mình đã trải qua, mong họ đừng cuồng nhiệt như tôi hồi trẻ…”


Mao Trạch Đông - ngàn năm công tội
Tân Tử Lăng


1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11


Phạm Đỉnh: Ba năm trước đây, bạn đọc Thông Luận đã hứng thú theo dõi loạt bài do nhà báo lão thành Bùi Tín lược dịch từ nguyên bản tiếng Anh Những điều chưa biết về Mao (Mao - An Unknown Story) do Jung Chang và Jon Halliday hợp soạn (nhà xuất bản Globalflair).

Hôm nay, chúng tôi chuyển tiếp một tài liệu khác được phổ biến trong nước trong thời gian gần đây: tài liệu được Thông Tấn Xã Việt Nam dịch và phổ biến dưới dạng “tài liệu tham khảo đặc biệt” cuối năm 2009. Sách có nhiều chương, nhưng những người dịch có chọn lọc, có chương dịch trọn, có chương chỉ tóm lược qua ít dòng. Tập tài liệu này chứa nhiều thông tin mà bạn đọc thế hệ những năm 1970 đã từng biết rồi, thông qua một loạt những tài liệu do nhà xuất bản Sự Thật in ra trong khuôn khổ chiến tranh tâm lí của nhà nước Việt Nam chống lại chủ nghĩa bá quyền nước lớn Trung Quốc lúc bấy giờ. Nay tập tài liệu này cũng nhắc lại những hành vi tàn độc sắt máu của Mao trong cuộc tranh giành quyền lực với các đối thủ chính trị của mình.

Tuy nhiên, ra đời đầu thế kỉ XXI, tập sách của Tân Tử Lăng cũng còn ghi lại nhiều điều khác: ngoài chuyện phản ảnh tâm tư cố hữu của người Tàu là chủ nghĩa bá quyền nước lớn, tập sách còn phê phán thứ chủ nghĩa xã hội Maoist.

Một đặc sắc khác của tập tài liệu này là: nó vẽ lại khá hoàn chỉnh bản hoạ đồ tâm tư của Mao, một lãnh tụ, một hoàng đế thời nay của Trung Quốc; từ tâm lí tham quyền lực lại thêm tính đa nghi, Mao đã không từ thủ đoạn nào để trừ khử những người thân tín, những bạn đồng chí đã có công hãn mã tạo nên cơ đồ cho ông.

Đối với thế hệ trẻ 8X và 9X, những tiết lộ trong tập “tài liệu tham khảo đặc biệt” này rất đáng quý, vì nó xuất phát từ chính nguồn tin lề phải chứ chẳng do “thế lực thù địch” nào cả. Do vậy, tập tài liệu này cũng gợi được nhiều ý cho một cuộc khởi động tư duy mà thế hệ trẻ Việt Nam đang cần.
.

Cùng bạn đọc

Cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do nhà xuất bản Thư Tác Phường ấn hành, ra mắt tại Hồng Công tháng 7-2007 và tới bạn tháng 6-2008, là một trong những cuốn sách đang được dư luận Trung Quốc hết sức quan tâm, với những luồng ý kiến nhận xét trái ngược nhau, từ hoan nghênh đến bất đồng, thậm chí phản đối gay gắt.

Tác gia Tân Tử Lăng nguyên là cán bộ nghiên cứu và giảng dạy tại Học viện quân sự cấp cao, Đại học Quân chính, Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Ông nhập ngũ năm 1950, từng tham gia các phong trào chính trị do Mao phát động, về hưu năm 1994 với quân hàm Đại tá.

Đầu năm 2008, khi đề cập đến bối cảnh ra đời cuốn sách trên, Tân Tử Lăng nêu rõ: Công cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc đã thu được những thành tựu lớn lao, đồng thời cũng nảy sinh nhiều vấn đề nghiêm trọng, đáng chú ý là việc không thể ngăn cản có hiệu quả nạn tham nhũng, việc phân phối của cải không công bằng dẫn đến xã hội bị phân hóa, khiến dân chúng rất bất mãn, nhiều người thậm chí công khai tỏ ra luyến tiếc thời đại Mao. Các thế lực cực tả ở Trung Quốc hiện nay muốn lợi dụng tâm trạng bất mãn này để phát động cuộc “Đại cách mạng văn hóa lần thứ hai”, gây cản trở cho việc thực thi các chính sách hiện hành. Nhân ngày giỗ Mao Trạch Đông 13-9-2005, nhiều cuộc mít tinh đã được tổ chức tại 18 thành phố lớn trong đó có Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân… với mục đích phê phán ban lãnh đạo hiện nay đã phản bội chuyên chính vô sản, phục hồi chủ nghĩa tư bản. Những người tham gia các cuộc mít tinh đã công khai hô các khẩu hiệu thời Đại cách mạng văn hoá, kêu gọi dấy lên bão táp cách mạng.

Tình hình trên khiến tác giả thấy cần phải làm cho mọi người thấy rõ thực trạng đời sống chính trị, xã hội và kinh tế của Trung Quốc dưới thời Mao, để từ đó có thể đánh giá một cách công bằng những công lao cũng như sai lầm của Mao đối với đất nước Trung Hoa, nhằm loại bỏ sự chống đối của phái cực tả đối với tiến trình cải cách mở cửa. Tuy nhiên, trong khi cố gắng làm điều đó, tác giả lại làm nổi lên một vấn đề quan trọng khác là: quan điểm của Trung Quốc về “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" thực chất là gì? Và đâu là lối thoát chỗ Trung Quốc hiện nay?

Nhiều trong số những vấn đề được nêu ra trong cuốn sách như đánh giá về công lao và sai lầm của Mao, cuộc Đại cách mạng văn hoá, cái gọi là chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa trên bạo lực của Mao, chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, hay việc chuyển từ chủ nghĩa xã hội không tưởng sang chủ nghĩa xã hội dân chủ… hoàn toàn là những quan điểm riêng của tác giả.

Đây là cuốn sách có tính chất tham khảo về nhiều vấn đề liên quan đến lịch sử và vấn đề lý luận của nước Trung Hoa đương đại, nhằm giúp bạn đọc có được những cái nhìn nhiều chiều về những vấn đề đang được nhiều người quan tâm này.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM

Mục lục


Lời nói đầu
Chương 1. Muốn trở thành lãnh tụ phong trào cộng sản quốc tế
Chương 2. Sai lầm của Mao Trạch Đông về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội
Chương 3. Giang Thanh bước đầu tỏ ra lợi hại
Chương 4. Vận dụng thuật cầm quyền của vua chúa
Chương 5. Thiết lập thể chế chính trị chuyên chế một đảng
Chương 6. Ba cuộc họp, một cuốn sách làm bùng lên cao trào hợp tác hoá nông nghiệp
Chương 7. Các nhà tư bản gióng trống, khua chiêng đi lên chù nghĩa cộng sản
Chương 8. Đường lối Đại hội 8 sát thực tế
Chương 9. Địa ngục văn chương lớn nhất trong lịch sử loài người
Chương 10. Hai đảng lớn Trung-Xô từ bạn thành thù
Chương 11. Chu Ân Lai bị tước quyền lãnh đạo kinh tế
Chương 12. Mao: Chúng ta phải thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Chương 13. Phải kết họp giữa Các Mác và Tần Thủy Hoàng
Chương 14. Đủ hiểu biết để cự tuyệt nhưng lời khuyên răn, đủ lời lẽ để tô vẽ cho những sai lầm
Chương 15. Ở chốn vô thanh nghe sấm động
Chương 16. Bành Đức Hoài vì dân lên tiếng
Chương 17. Lâm Bưu giúp Mao lộng hành
Chương 18. Địa ngục trần gian
Chương 19. Con gái ba đời bần nông giương biểu ngũ “Đả đảo Mao Trạch Đông” tại Trung Nam Hải
Chương 20. Cuộc đọ sức tại đại hội 7.000 người
Chương 21. Mao Lưu đoạn tuyệt
Chương 22. Bộ tư lệnh thứ hai trong đảng
Chương 23. La Thụy Khanh chơi với hổ, bị hổ vồ
Chương 24. Giương ngọn cờ chống đảo chính để làm đảo chính
Chương 25. Lợi dụng học sinh lật đổ chủ tịch nước
Chương 26. Nhân dân run rẩy trong cuộc khủng bố đỏ
Chương 27. Mao Trạch Đông chơi trò chính trị lưu manh
Chương 28. Nhân vật số 4 đại bại dưới chân Giang Thanh
Chương 29. Tổ cách mạng văn hoá thay thế Bộ chính trị, tổ làm việc Quân ủy thay thế Quân ủy trung ương
Chương 30. Kết cục bi thảm của Lưu Thiếu Kỳ
Chương 31. Lâm Bưu đắc ý, lăm le kế tục
Chương 32. Mao - Lâm quyết đấu ở Lư Sơn
Chương 33. Tướng quân bách chiến thân danh liệt
Chương 34. Nixon mang đến cho Mao chiếc ô bảo hộ hạt nhân
Chương 35. Mời Đặng Tiểu Bình làm quân sư
Chương 36. Chu Ân Lai - trở ngại mà Giang Thanh không thể vưọt qua
Chương 37. Chu Ân Lai mà người căm ghét, hãm hại: mãi mãi sống trong lòng trăm họ! Lũ bốn tên mà người tin cậy, bảo vệ: nhân dân rủa bay chết sớm đi!
Chương 38. Mao để Giang Thanh cầm “cờ lớn”
Chương 39. Mao chết, Giang tù
Lời kết

Lời nói đầu


Nhà cách mạng vĩ đại - người xây dựng thất bại

Cuốn sách này tiếp theo cuốn Mao Trạch Đông toàn truyện (Nhà xuất bản Lợi Văn, Hồng Công. Bản in đầu tiên năm 1993), bổ sung sử liệu về Đại tiến vọt và Đại cách mạng văn hoá, tăng thêm phần bình luận, nhằm ủng hộ việc Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào cam kết sẽ đánh giá lại Mao Trạch Đông trong nhiệm kỳ của ông.

Cuộc đời Mao Trạch Đông dựng nước có công, xây dựng mắc sai lầm, Đại cách mạng văn hoá có tội. Đó là lời Trần Vân, bậc nguyên lão chỉ nói chân lý, không nói thể diện, rất được kính trọng trong Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đánh giá Mao sai lầm lớn hơn công lao đó có cơ sở quần chúng. Năm 1994, Ban Tuyên truyền Trung ương ĐCSTQ, Phòng Nghiên cứu chính trị Trung ương, Phòng Nghiên cứu chính sách Viện Khoa học Xã hội và Uỷ ban Giáo dục quốc gia đã phối hợp tiến hành một cuộc thăm dò dư luận về hai vấn đề. Một là Mao Trạch Đông công lao lớn hơn sai lầm, hay ngược lại? Hai là cơn sốt Mao Trạch Đông có bình thường không? Kết quả là:

a- Cán bộ cấp cao: 37% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao. 30% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm. 33% không trả lời.

b- Trí thức cấp cao: 67% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao, 8% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm, 25% không trả lời.

c- Nhà báo và những người làm công tác lý luận: 48% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao 18% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm, 34% không trả lời.

d- Giáo chức và học sinh: 40% cho rằng sai lầm lớn hơn công lao, 34% cho rằng công lao lớn hơn sai lầm, 26% không trả lời.

Khái niệm chung là sai lầm lớn hơn công lao

Về vấn đề cơn sốt Mao Trạch Đông, 63% đến 72% cho rằng không bình thường.

Những người không trả lời trên thực tế cho rằng sai lầm lớn hơn công lao, nhưng họ sợ công khai bày tỏ sẽ gặp rủi ro. Nếu gộp những người không trả lời vào số người cho rằng Mao Trạch Đông sai lầm lớn hơn công lao, thì số người này chiếm 70% cán bộ cấp cao, 92% tri thức cấp cao, 82% nhà báo và những người làm công tác lý luận, 66% giáo chức và học sinh, bình quân số người cho rằng Mao Trạch Đông sai lầm nhiều hơn công lao là 77,5%. Khái niệm chung là 3 phần công lao, 7 phần sai lầm.

Mao Trạch Đông là nhà cách mạng vĩ đại và người xây dựng thất bại. Trách nhiệm lịch sử của chúng ta là khẳng định và phát triển công lao của Mao thành lập nhà nước cộng hoà dân chủ mới, phủ định và uốn nắn sai lầm của ông khiến đất nước lạc lối vào chủ nghĩa xã hội không tưởng.

Trong thời kỳ cách mạng dân chủ mới, ĐCSTQ đứng đầu là Mao Trạch Đông đã lãnh đạo nhân dân cả nước lật đổ ách thống trị của đế quốc, phong kiến và tư bản quan liêu, sáng lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vĩ đại. Là nhân vật lịch sử đã làm cho nhân dân Trung Quốc từng chịu đủ mọi sự áp bức và hà hiếp được ngẩng cao đầu, dửng thằng người trước toàn thế giới, Mao Trạch Đông sẽ được nhân dân Trung Quốc tưởng nhớ đời này qua đời khác. Cuộc cách mạng dân chủ mới thắng lợi và nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa ra đời là đỉnh cao huy hoàng trong sự nghiệp cách mạng của Mao, cũng là đỉnh cao sáng chói của tư tưởng Mao Trạch Đông. Sự nghiệp trên được ghi lại trong 3 cuốn "Mao Trạch Đông toàn truyện", chúng tôi không nhắc đến nữa. Cuốn sách này điểm lại quá trình phát triển của Mao Trạch Đông từ chủ nghĩa xã hội không tưởng tới chủ nghĩa xã hội phong kiến.

Chủ nghĩa xã hội phong kiến đương nhiên cũng là chủ nghĩa xã hội không tưởng nhưng lạc hậu và phản động hơn, nó trương chiêu bài chủ nghĩa xã hội để thực hiện nền độc tài chuyên chế và thể chế cha truyền con nối, gia đình trị. Dựa vào sử liệu đã nắm được, chúng tôi sẽ vạch trần nhưng không chút thổi phồng những sai lầm và tội ác của chủ nghĩa xã hội bạo lực Mao Trạch Đông, chú trọng phân tích nguồn gốc lịch sử và lý luận dẫn đến những sai lầm lớn đó. Đây là việc rất cần thiết để chúng ta cải cách-mở cửa sâu rộng hơn, phân rõ cái đúng, cái sai trong lịch sử và trên lý luận, loại trừ sự quấy rối "tả " khuynh.

Trong báo cáo chính trị miệng (không văn bản) tại Đại hội 7 ĐCSTQ ngày 24-4-1945, Mao Trạch Đông nói:

“Chúng ta khẳng định phát triển rộng rãi chủ nghĩa tư bản như vậy chỉ có lợi, không có gì hại cả. Trong thời gian khá dài, một số người trong đảng ta không hiểu rõ vấn đề này, tồn tại tư tưởng phái dân tuý. Tư tưởng này sẽ tồn tại lâu dài trong một đảng mà đa số đảng viên xuất thân nông dân. “Chủ nghĩa dân tuý” muốn phát triển trực tiếp từ kinh tế phong kiến lên kinh tế xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Đáng tiếc là sau khi nắm chính quyền, Mao Trạch Đông đã làm ngược lại ý kiến đúng đắn trên: theo con đường dân tuý.

Ngày 15-6-1953, Mao Trạch Đông chủ trì định ra đường lối chung của ĐCSTQ trong thời kỳ quá độ. Ông đã từ bỏ lý luận kiến quốc dân chủ mới, xoá bỏ cương lĩnh kiến quốc dân chủ mới được các tầng lớp nhân dân ủng hộ rộng rãi - “Cương lĩnh chung” có vai trò hiến pháp lâm thời, vội vã xoá bỏ chế độ tư hữu, tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, khiến chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành cơ sở kinh tế duy nhất của nhà nước và xã hội. Một bước ngoặt sang trái (tả), Trung Quốc đi theo con đường chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa vào bạo lực. Tiếp đó Mao phát động phong trào Đại tiến vọt và Công xã hoá, tiến hành cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng lớn chưa từng thấy và cũng gây ra tấn thảm kịch lớn chưa từng thấy trong lịch sử loài người: 37,55 triệu người chết đói.

Nghiên cứu những sai lầm cuối đời Mao Trạch Đông phải nắm lấy sự kiện lịch sử lớn này. Đây là chìa khoá để khám phá những bí ẩn về Mao.

Mọi hành động chính trị của Mao những năm cuối đời đều nhằm che đậy những sai lầm không tiền khoáng hậu này, trốn tránh trách nhiệm của bản thân. Cái gọi là “chống xét lại, phòng ngừa xét lại”, “ngăn chặn diễn biến hoà bình” và “ngăn chặn phục hồi chủ nghĩa tư bản” nhằm thần thánh hoá chủ nghĩa xã hội không tưởng làm bao người chết đói; cái gọi là “tiếp tục cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản “chống phái đương quyền đi con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng” và “lôi ra nhân vật kiểu Khrusev” là muốn chủ động xuất kích, đánh đổ các nhà lãnh đạo theo đuổi chính sách kinh tế thực tế, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, cứu nhân dân khỏi nước sôi lửa bỏng. Vì vậy, Mao ngang ngược phát động “Đại cách mạng văn hoá” quyết một trận sống mái. Không có sai lầm của ba năm Đại tiến vọt thì không có Đại cách mạng văn hoá. Mao chơi con bài người kế tục, bức hại Lưu Thiếu Kỳ đến chết) đưa Lâm Bưu lên rồi lại ép Lâm Bưu phải bỏ di, sử dụng Đặng Tiểu Bình rồi lại đánh đổ Đặng Tiểu Bình, chọn một Hoa Quốc Phong “kém cói nhất”, mật chiếu của Mao cho Hoa là “Đồng chí làm việc tôi yên tâm, có vấn đề gì hỏi Giang Thanh”. Mục đích cuối cùng của Mau là muốn đưa Giang Thanh lên cầm quyền. Mao khoác chiếc áo lý luận hiện đại nhất, cách mạng nhất, làm cái việc Hoàng đế khai quốc Triều Minh từng làm hơn 600 năm trước: để Giang Thanh lên cầm quyền thuận lợi, thông qua Đại cách mạng văn hoá, Mao hầu như đã trị hết các công thần danh tướng. Mười năm tai hoạ, các nhân vật trên vũ đài chính trị lớp này đến lớp khác như chạy tiếp sức trên một vòng cung lớn nhằm chuyển chiếc gậy “Đại vương” đến tay Giang Thanh, để Giang kịp thời kế vị lúc Mao nhắm mắt xuôi tay. Âm mưu gia đình trị của Mao bị phơi trần đã làm nát vụn những phỏng đoán của các nhà trí thức lương thiện về động cơ cao thượng của cuộc Đại cách mạng văn hoá do Mao phát động. Nếu không có sai lầm của ba năm Đại tiến vọt, chưa chắc Mao đã phải dùng đến hạ sách này. Mao truyền ngôi cho Giang Thanh có phần bất đắc dĩ. Mao không tin vào ngàn đời vạn thế mà tính toán chỉ cần hai thế hệ (Giang Thanh và Mao Viến Tân) là đủ thời gian hoàn toàn viết lại lịch sử, chối phắt trách nhiệm làm 37,55 triệu người chết đói. Không thể xoá bỏ, cũng không thể sửa đổi phần lịch sử này. Phải đánh dấu đậm nét vào đây. Với cái giá bi thảm nặng nề qui mô lớn nhát, thời gian dài nhất, hy sinh nhiều nhất, người Trung Quốc đã chứng minh “chủ nghĩa cộng sản” ấy không ổn. Cuộc thực nghiệm này là một cống hiến lớn cho nền văn minh của loài người.

Đây là một toạ độ lịch sử, toạ độ chủ nghĩa xã hội không tưởng hoàn toàn thất bại ở Trung Quốc, trên thế giới, và trong lịch sử văn minh của loài người. Ý nghĩa chính diện của toạ độ này là; làm cho những người đời sau mơ tưởng về một thế giới đại đồng (thuật ngữ mác xít là chủ nghĩa cộng sản) đi tới đây sửng sốt mà dừng bước. Để trên thế giới này không còn nảy sinh việc mấy triệu, mấy chục triệu người chết đói vì sai lầm khi lựa chọn lối đi.

Chẳng có mục tiêu cao đẹp của “chủ nghĩa cộng sản” nào hết, đây là một mệnh đề do người sáng lập Chủ nghĩa Mác nêu ra hồi trẻ và đã từ bỏ vào những năm cuối đời. Tháng 10-1847, Ăng ghen viết tác phẩm “Nguyên lý chủ nghĩa cộng sản” phác hoạ ước mơ của chàng trai 27 tuổi về một xã hội lý tưởng trong tương lai. Ngày 11-5-1893 khi 73 tuổi, nói chuyện với phóng viên báo Pháp “Le Figaro”, Ăng ghen đã phủ định mô hình xã hội tương lai do mình thiết kế hồi trẻ. Ông nói:

“Chúng tôi không có mục tiêu cuối cùng. Chúng tôi là những người theo thuyết không ngừng phát triển. Không tính chuyện áp đặt cho loài người quy luật cuối cùng nào. Còn cách nhìn, dự định chi tiết trên phương diện tổ chức xã hội tương lai ư? Ngài không thể tìm thấy ở chỗ chúng tôi ngay cả hình bóng của chúng”

Theo hồi ức của Liuba, cháu gái cố Tổng bí thư Brezhnev, sinh thời Brezhnev từng nói với người ern trai: “Chủ nghĩa cộng sản cái quái gì, đều là những lời nói trống rỗng lừa bịp dân chúng”. Sai lầm của nhà lãnh đạo Liên Xô cũ không phải ở chỗ từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản, mà ở chỗ ông tiếp tục lấy cái lý luận mà bản thân không còn tin nữa làm ý thức hệ chính thức để lừa gạt nhân dân. Một chính đảng lãnh đạo nhân dân tiến lên phải như Ăng ghen điều chỉnh mục tiêu phấn đấu của mình cho kịp thời đại, và trịnh trọng công bố trước nhân dân.

Trong một bức thư tháng 9- 1890, Ăng ghen viết: “Theo quan diềm duy vật, nhân tố mang tính quyết định trong quá trình lịch sử nói cho cùng là sản xuất và tái sản xuất trong đời sống hiện thực. Mác và tôi đều chưa khẳng định được gì nhiều hơn thế”. Trước khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra năng suất lao động cao hơn chế độ phong kiến, nên chế độ tư bản đã hoàn toàn chiến thắng chế độ phong kiến. Chế độ xã hội chủ nghĩa bạo lực - giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản - trải qua hơn 70 năm nỗ lực hết sức mình để đuổi kịp và vượt các nước tư bản chủ nghĩa, chỉ riêng Liên Xô và Trung Quốc đã phải trả giá 50 triệu người chết đói (Liên Xô 13 triệu, Trung Quốc trên 37 triệu), mà cũng không đuổi kịp các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu trên phương diện “sản xuất và tái sản xuất trong đời sống hiện thực”. Chế độ xã hội chủ nghĩa bạo lực của Lenin, Stalin và Mao Trạch Đông thi thố hết tài năng cũng không tạo ra nổi năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản, đương nhiên bị lịch sử đào thải, giai đoạn cao hơn của nó là chủ nghĩa cộng sản tất nhiên cũng diệt vong.

Xu thế tiến hoá tự nhiên của lịch sử loài người không phải chủ nghĩa tư bản, cũng không phải chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa tư bản hiện đại do tiếp thu chính sách của chủ nghĩa xã hội mà nảy sinh tự cải lương, đi tới nền kinh tế hỗn hợp về chế độ sở hữu. Chủ nghĩa xã hội thông qua cải cách, tiếp thu các chính sách của chủ nghĩa tư bản cũng từ chế độ công hữu đơn nhất đi tới nền kinh tế hỗn hợp. Mô hình kinh tế hỗn hợp này gọi là chủ nghĩa tư bản mới, cũng gọi là chủ nghĩa xá hội dân chủ. Tình hình trên đã diễn ra ở Mỹ. Nga, Trung Quốc và nhiều nước phát triển khác.

Trong cuốn Chủ nghĩa tư bản mới, học giả Mỹ W.E Harral viết:

Kinh tế hỗn hợp: Một trật tự thế giới nối liền chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội. Vượt trên ý thức hệ xơ cứng của “chủ nghĩa tư bản cũ” và “chủ nghĩa xã hội cũ”, hai loại chế độ xã hội đều đang tiến tới mục tiêu chung: lợi dụng đặc điểm hấp dẫn của xí nghiệp tự do để tránh mọi khuyết tật của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn độc quyền và chủ nghĩa xã hội nhà nước tập quyền trung ương.

Nhà kinh tế học Pháp J. Rafael cũng nêu rõ: “Trong phần lớn các nước phát triển, toàn bộ nền kinh tế quốc dân đều đã trở thành kinh tế hỗn hợp, thậm chí xem ra đã trở thành một thể chế tổ chức xã hội nhất định. Là mô hình hỗn hợp của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa từ bản, về lý luận, kinh tế hỗn hợp chính là biện pháp bổ cứu có ý nghĩa kép nhằm vào thất bại rõ rệt của nền kinh tế kế hoạch quốc hữu hoá toàn diện, và trào lưu tư tưởng tự do cổ dộng xoá bỏ sự quản lý của nhà nước, thực thi tự do hoá toàn diện.

Ông còn vạch rõ:

“Theo niên báo Thế giới phát triển 1982, thể chế kinh tế của 19 nước công nghiệp phát triển đều là kinh tế hỗn hợp. Bởi vậy, nếu lấy thành tích kinh tế cụ thể chứ không phải những lời cam kết trống rỗng để thảo luận chế độ nào có khả năng giải quyết vấn đề hơn, thì không nghi ngờ gì nữa, kinh tế hỗn hợp lấy thị trường làm trung tâm là chế độ tương đối ưu việt”.

Nước Anh đã hai lần thực hiện quốc hữu hoá trong thời gian 1945- 1951 và 1971, tập trung trong tay nhà nước hàng loạt xí nghiệp lớn, kể cả Ngân hàng Anh, khiến kinh tế nước này trở thành nền kinh tế hỗn hợp điển hình kết hợp giữa kinh tế tư nhân và kinh tế quốc doanh. So với Anh, kinh tế quốc doanh của Pháp chỉ hơn, không kém. Từ năm 1944 đến 1946 căn cứ vào kế hoạch nhà nước lần thứ nhất, Pháp đã quốc hữu hoá các ngành than, điện, vận tải, Ngân hàng Pháp và 4 ngân hàng thương nghiệp toàn quốc. Đầu thập kỷ 80 thế kỷ 20, Pháp một lần nữa thực thi quốc hữu hoá, các xí nghiệp quốc hữu hoá không chỉ liên quan đến các ngành cơ sở, mà còn mở rộng sang các ngành công nghiệp mũi nhọn tính cạnh tranh rất mạnh, như công ty máy bay Taso(?), công ty vũ khí Matra. Các thành viên EU khác như Ytaly, Đức cũng thực hiện quốc hữu hoá ở mức độ khác nhau.

“Quyết định một số vấn đề cụ thể về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa” của Hội nghị Trung ương 3 khoá 16 ĐCSTQ chỉ rõ: “Phải ra sức phát triển kinh tế chế độ sở hữu hỗn hợp với sự tham gia của các nguồn vốn quốc doanh, tập thể và phi công hữu, khiến chế độ cổ phần trở thành hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu”. Mỗi bước tiến triển lớn của công cuộc cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc đều là sản phẩm nhận thức sâu hơn về chế độ sở hữu, và việc điều chỉnh quan hệ chế độ sở hữu. Là sản phẩm cải cách chế độ sở hữu, kinh tế hôn hợp tất sẽ ảnh hưởng lớn lao tới công cuộc cải cách kinh tế và phát triển, trở thành luồng tư duy hoàn toàn mới mẻ trong công cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc.

Kinh tế hỗn hợp hoàn toàn không phải một loại chế độ do con người chủ quan tạo ra, mà là sản phẩm lịch sử ảnh hưởng và diễn hoá lẫn nhau giữa chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chế độ do lịch sử hình thành tự nhiên mới hợp lý và tồn tại lâu dài. Kinh tế hỗn hợp là cơ sở kinh tế của chế độ xã hội chủ nghĩa dân chủ. Con đường của chủ nghĩa xã hội dân chủ dang trở thành con đường được loài người cùng chấp nhận, đưa loài người vào một thế kỷ mới phát triển hoà bình.

Ý nghĩa lớn nhất của công cuộc cải cách mở cửa 27 năm qua là thoát khỏi con đường của chủ nghĩa xã hội không tưởng dựa trên bạo lực của Mao Trạch Đông, từng bước hội nhập với nền văn minh chủ lưu trên thế giới, trở thành một thành viên được tôn kính trong đại gia đình quốc tế. Quá trình chuyển đổi mô hình do Trung Quốc, Liên Xô cũ và các nước Đông Âu hội tụ nên lần này đã từ con đường sai lầm của chủ nghĩa xã hội không tưởng quay trở lại chủ nghĩa xã hội dân chủ, là bước tiến lớn thứ hai của xã hội loài người từ khi nền văn minh hiện dại phương Tây ra đời đến nay. Cải cách-mở cửa đã hoàn toàn phủ định chủ nghĩa xã hội không tưởng. Đưa ra khái niệm “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội” có nghĩa là ngấm ngầm khôi phục chủ nghĩa dân chủ mới. Ngấm ngầm khôi phục không bằng công khai giương ngọn cờ dân chủ mới. Khi sáng lập lý luận dân chủ mới, Mao Trạch Đông nói chủ nghĩa dân chủ mới là chủ nghĩa tư bản mới. Tiếp nối vào điểm này, tiến lên theo chủ nghĩa xã hội dân chủ, là đã triệt để giải quyết tính hợp pháp và chính thông công cuộc cải cách-mở cửa.

Thành tựu lớn lao của cải cách-mở cửa 27 năm qua đã đặt cơ sở hợp pháp cho ĐCSTQ cầm quyền. Nhắc lại giọng điệu “tả” khuynh là tự phủ nhận mình. Bảo vệ những sai lầm của Mao Thạch Đông, tìm kiếm tiếng nói chung với “phái tả”, thực hiện chính sách kinh tế “hữu khuynh” đi đôi với ý thức hệ “tả khuynh thì chỉ chứng minh lược rằng 27 năm qua mình đã làm sai, không tăng cường mà chỉ có thể làm suy yếu vi trí cầm quyền của ĐCSTQ; không thể mang lại tính hợp pháp cho cải cách mở cửa, mà chỉ có thể mang lại tính hợp pháp cho chủ trương chính trị phản đôi cải cách mở cửa. Thách thức vị trí cầm quyền của ĐCSTQ không phải các thế lực phương Tây ở chốn xa xôi, mà là “phái tả” trong đảng vung vẩy ngọn cờ sai lầm của Mao Trạch Đông bên trong bức tường của Đảng. Xin hãy đọc những lời lẽ sát khí đằng đằng, mê hoặc lòng người trên lá cờ của chúng. Trong bài “Chỉ có Tư tưởng Mao Trạch Đông mới cứu được Trung Quốc”, chúng viết:

“Không phải Đại cách mạng văn hoá sai, mà là Đặng Tiểu Bình hoàn toàn phủ định Đại cách mạng văn hoá. Những người kế thừa Đặng đã theo đuổi đường lối xét lại, và chính vì thế cần phát động cuộc Đại cách mạng vãn hoá nữa để loại trừ”. Lúc lâm chung, Đặng Tiểu Bình dặn dò phải cảnh giác hữu, chủ yếu phản đối “tả”, ông thật có tầm nhìn lịch sử sâu xa. Mưu toan cùng “phái tả” bảo vệ những sai lầm của Mao để đổi lấy việc họ ủng hộ cải cách-mở cửa chỉ khiến họ càng hung hăng phản đối cải cách-mở cửa. Sách lược “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” đã đi đến điểm tận cùng.

Tháng 3-2004, kỳ họp thứ 2 Quốc hội Trung Quốc khoá 10 đã đưa điều khoản quan trọng bảo vệ chế độ tư hữu vào hiến pháp, tiếp nối quỹ đạo với “Cương lĩnh chung Hội nghị hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc” năm 1949, đánh dấu sau khi trải qua chặng đường quanh co, Trung Quốc đã trở lại điểm xuất phát đúng đắn, đi lên con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ.

Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc là sản phẩm kết hợp giữa tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ của Mác-Ăng-ghen những năm cuối đời và thực tiễn cụ thể cải cách-mở cửa của Trung Quốc, sẽ xây dựng Trung Quốc thành một nước xã hội chủ nghĩa dân chủ giàu có, văn minh, công bằng và hài hoà như châu Âu ngày nay. Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển sang chủ nghĩa xã hội dân chủ là tuân theo lời dạy của Mác và Ăng-ghen những năm cuối đời, kế thừa truyền thống cách mạng dân chủ mới, triệt để thoát khỏi mô hình Liên Xô, trở lại với chủ nghĩa Mác tiến cùng thời đại. Đó là định vị lịch sử của chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc.

Thời kỳ đầu cải cách-mở cửa để phát triển kinh tế nhiều thành phần, phái cải cách đưa vị trí chủ đạo của kinh tế quốc doanh vào hiến pháp nhằm làm yên lòng phái “tả” đến nay thành ra tự tròng dây vào cổ mình, phái “tả” đứng ra “bảo vệ hiến pháp”, dựa vào hiến pháp để chống lại. Tháng 3-2006, trong thời gian họp Quốc hội và Hội nghị hiệp thương chính trị toàn quốc, có uỷ viên Hội nghị hiệp thương chính trị chất vấn: “Điều 6 hiến pháp qui định cơ sở chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa nước CHND Trung Hoa là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, tức chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể của quần chúng lao động. Kinh tế quốc doanh năm 1992 chiếm 48% kinh tế quốc dân Trung Quốc, nay còn chiếm tỉ trọng bao nhiêu? Những năm qua, kinh tế quốc doanh ào ạt bản rẻ cho tư nhân, hoặc chuyển thành sở hữu tư nhân. như vậy có vi phạm hiến pháp không?” Chính phủ tự biết mình đuối lý, chẳng ai dám đứng ra đối đáp.

Từ ngày cải cách-mở cửa đến nay, các khoá lãnh đạo các cấp ra sức tìm cách giữ cho được vị trí chủ đạo của kinh tế quốc doanh, đây là “trận địa cuối cùng của chủ nghĩa xã hội”. Tuy kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân đã ra đời, các xí nghiệp vốn nước ngoài cũng đã len chân vào, song phái cải cách vẫn phải nắm chặt con bài “xí nghiệp quốc doanh chiếm vai trò chủ đạo” để đối phó phái “tả” coi mình là “người bảo vệ đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch”. Song các xí nghiệp quốc doanh thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội này làm ăn chẳng ra gì, liên tục thua lỗ. Thế là tài chính nhà nước và địa phương cấp vốn không hoàn lại, dùng tiền thuế do nông dân và các xí nghiệp tư nhân đóng góp để nuôi xí nghiệp quốc doanh. Khi nhà nước nuôi không nổi, liền đẩy cho ngân hàng.

Ngân hàng mỗi năm cho vay khoảng 1.500 tỉ NDT (Nhân dân tệ - đơn vị tiền tệ của Trung Quốc), 70% số này rót vào các xí nghiệp quốc doanh. Do các xí nghiệp quốc doanh chỉ vay không trả, nợ đọng một khoản tiền khổng lồ, hễ bùng nổ sóng gió tiền tệ, thể chế nhà nước tất sẽ lung lay, thế là nhà nước lại đẩy các xí nghiệp quốc doanh sang thị trường chứng khoán. Các công ty lên sàn mấy năm trước hầu như toàn là xí nghiệp quốc doanh. Những người chơi cổ phiếu ham phát tài, bị cuốn phăng 1.500 tỉ NDT để tiếp máu cho các xí nghiệp quốc doanh, nhưng cũng không cứu sống nổi các xí nghiệp này. Theo báo cáo của người phụ trách Uỷ ban kinh tế thương mại ba tỉnh Cát Lâm, Liêu Ninh, Hắc Long Giang, có xí nghiệp quốc doanh máy móc khởi động, chi phí than - điện - nước rót vào rồi, nhưng tiền lương công nhân viên chức, tiền lãi các khoản vay và lợi nhuận sau thuế đều không lo nổi, đành giảm tài sản tịnh để duy trì đời sống của công nhân viên.

Có xí nghiệp đi vay để chi trả lương công nhân viên và tiền lãi ngân hàng. Có xí nghiệp máy móc, nhà xưởng dần dần giảm giá, thống kê trong sổ sách trên thực tế trở thành “tài sản khống”. Có xí nghiệp tỉ lệ lợi nhuận chỉ có 1 đến 3%, cơ bản ngang tiền lãi công trái kỳ hạn 5 năm, có nơi còn thấp hơn.

Để chuyển lỗ thành lãi, các phương án cải cách lần lượt được đưa ra, cơ cấu quản lý nhiều lần chấn chỉnh, làm trong 20 năm mà vẫn thua lỗ, do đó mới có phương án cải cách, cổ phần hoá, tư hữu hoá.

Con đường cải cách các xí nghiệp quốc doanh sau Đại hội 15 ĐCSTQ là “nắm cái lớn, thả lỏng cái nhỏ”. Các xí nghiệp lớn nhập vốn tư nhân và vốn nước ngoài, thực hiện chế độ cổ phần; các xí nghiệp nhỏ thực hiện tư hữu hoá, nay Chính phủ trung ương chỉ nắm 1.200 (trước đây là 9.000) xí nghiệp quốc doanh cỡ lớn liên quan đến vận mệnh và an ninh quốc gia.

Cách làm này tương tự các nước tiên tiến trên thế giới. Các nước phát triển trên thế giới thực hiện thể chế kinh tế hỗn hợp đều có các xí nghiệp quốc doanh, chủ yếu là các nhà máy do nhà nước độc quyền (như đường sắt, hàng không, ngân hàng), các xí nghiệp tư nhân không đủ sức xây dựng (như điện hạt nhân, dầu khí), cùng các xí nghiệp mang tính công ích (như giao thông công cộng, điện nước). Các xí nghiệp này không lấy lãi làm chính, một số xí nghiệp mang tính phúc lợi toàn dân, phải dựa vào nhà nước đầu tư và trợ giá. Nhưng các xí nghiệp này không được chiếm tỉ trọng lớn, càng không thể chiếm vị trí chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, mà đại thể chỉ 15 đến 20%. Theo Công ty Tài chính-tiền tệ quốc tế, năm 1996, Trung Quốc có 114.000 xí nghiệp quốc doanh, năm 2005 còn 27.000. 77% số công ty đã tư hữu hoá một phần hoặc toàn bộ. Tỉ trọng kinh tế quốc doanh tụt xuống còn 23%, gần bằng quan hệ tỉ trọng các nước phát triển. Đây là việc từ không bình thường chuyển sang bình thường, nhưng theo phái “tả” nó đã đụng chạm đến mạng sống của chủ nghĩa xã hội.

Phải sửa đổi hiến pháp. Lý do là: năm 1978, kinh tế quốc doanh Trung Quốc chiếm 99,1%, nhưng tổng sản phẩm quốc nội chỉ có 362,4 tỉ NDT. Năm 2005, kinh tế quốc doanh không chiếm vị trí chủ đạo nữa, song tổng sản phẩm quốc nội cả năm đạt 18,230 tỉ NDT. Chúng ta đứng trước sự lựa chọn cần 17.867,6 tỉ NDT, hay cần cái hư danh vị trí “chủ đạo” kia?

Đừng nhìn nhận quan hệ tỉ lệ đó quan trọng đến thế, ngày nay, chủ nghĩa tư bản mới và chủ nghĩa xã hội dân chủ đã trớ thành hai mặt của đồng tiền vàng, đều theo thể chế kinh tế hỗn hợp, chúng ta cần thoát khỏi xiềng xích xí nghiệp quốc doanh chiếm vị trí chủ đạo do mình tạo ra.

Phải nói thẳng là công cuộc cải cách thể chế xí nghiệp quốc doanh cũng nảy sinh một số vấn đề, như hàng loạt công nhân viên mất việc, quần thể yếu kém gặp nhiều khó khăn trong việc khám chữa bệnh, học hành, dưỡng lão, quan chức tham nhũng, nhất là phân phối không công bầng dẫn đến phân hoá hai cực, khiến lòng người xôn xao.

Công cuộc cải cách thể chế xí nghiệp quốc doanh cơ bản do chính quyền các cấp chủ trì. Chính quyền tham gia thiết kế bộ máy quản lý công ty, tìm kiếm người kinh doanh, định giá tài sản quốc doanh, thậm chí gánh vác một phần tiền nợ. Các xí nghiệp quốc doanh tương đối lớn có nhiều tài sản tồn đọng, khó mà bán được, liền mặc cho các quan chức chủ sự “giới định” nó từ sở hữu toàn dân sang sở hữu nội bộ, trong nội bộ lại chỉ định sau cải cách thể chế xí nghiệp quốc doanh, “người kinh doanh nắm cổ phần lớn”. Người ta gọi lối làm ăn này là “cải cách kiểu giới định”, nói trắng ra là chia bôi hành chính, lưu lại không gian vận hành rộng rãi cho các quan chức và thương nhân cấu kết với nhau phát tài qua cải cách. Nếu người chủ trì là một quan tham, thì cuốn “kinh” cải cách thể chế nhằm đưa xí nghiệp quốc doanh thoát khỏi nghèo nàn này liền bị đọc chệch hẳn đi. Trước sự dụ dỗ của lợi ích lớn lao nằm trong tầm tay, các quan chức rất khó giữ mình trong sạch. Chỉ cần nội bộ tập đoàn lãnh đạo chia đều lợi ích theo quyền lực lớn nhỏ, thì chính quyền, đảng uỷ, hội đồng nhân dân đều bật đèn xanh, mọi người vừa có tiền, lại có thành tích chính trị; vừa phù hợp chính sách, vừa đúng với luật pháp. Thế là hình thành “tập đoàn lợi ích” được thể chế, chính sách và luật pháp hiện hành bảo hộ.

Những vấn đề nảy sinh trong cải cách thể chế xí nghiệp quốc doanh cũng từng xảy ra trong các nước theo chủ nghĩa xã hội dân chủ. Họ không lùi bước để xí nghiệp quốc doanh tiếp tục thua lỗ rồi “hoá” sạch, mà lấy tư hữu hoá dân chủ phản đối tư hữu hoá quyền quí, phương hướng tư hữu hoá không thay đổi. “Tư hữu hoá quyền quí” là gì? Là quan chức câu kết với thương nhân vơ vét tài sản của nhà nước và nhân dân. Thực hiện kinh tế thị trường mà không đồng bộ với dân chủ hoá chính trị, tất sẽ nảy sinh quan chức câu kết với thương nhân, muốn đánh giá xí nghiệp quốc doanh thế nào cũng được, muốn đem tài sản quốc doanh cho ai thì cho, muốn đẩy công nhân ra đường thì đẩy ra ngoài đường, đấy là chỗ tệ hại của chủ nghĩa tư bản quan liêu. Giả dụ chúng ta khởi động tiến trình dân chủ, tiến hành cải cách chính trị, thật sự trao cho công nhân quyền dân chủ qui định trong hiến pháp, ủng hộ công nhân xí nghiệp quốc doanh giám sát công cuộc cải cách thể chế, dựa vào dân chủ giành lấy công bằng và chính nghĩa, bảo vệ quyền lợi của mình, thì vấn đề sẽ được giải quyết dễ dàng. Ở đây cần nhấn mạnh nhất định không phải là Đảng và Chính phủ thay mặt công nhân để chủ trì công bằng và chính nghĩa, anh cử một cán bộ Uỷ ban kiểm tra kỷ luật hoặc Viện kiểm sát đến giám sát quan chức chủ sự, một khi cán bộ này bị lôi kéo, liền biến thành đôi bàn tay đen khác lớn mạnh hơn.

Làm thế nào ủng hộ công nhân. Chẳng hạn cho phép công nhân thành lập công đoàn độc lập, tự do báo chí… Chỉ cần có tự do báo chí, kịp thời phơi trần hộp đen thao túng việc phân chia tài sản quốc doanh, thì có thể chặt đứt bàn tay đen mượn cải cách thể chế để vơ vét tài sản nhà nước. Mượn cớ “ổn định áp đảo hết thảy” không cho công nhân tham gia và nắm tình hình, kiểm soát báo chí, trên thực tế là bảo vệ cho các quan chức ăn chia, khiến công nhân giương cao ảnh Mao Trạch Đông biểu tình thị uy, dẫn đến không ổn định hơn. Chỉ có cải cách chính trị mới giải quyết được vấn đề này. Đây là kết quả tốt đẹp nhất phù hợp mong muốn của những người quan tâm ổn định và dân chủ, thị trường hoá và công bằng, tự do và trật tự ở Trung Quốc.

Do cải cách chính trị không theo kịp, làm nổi bật mặt tiêu cực của cải cách mở cửa, khiến số người phản đối và bất mãn với cải cách mở cửa tăng nhanh. Từ 1979 đến 1982, cả nước có 2 vạn vụ kiện cáo lên cấp trên, năm 2005, con số này là 30 triệu vụ, tăng gấp 1.500 lần, cũng có nghĩa là nhân tố không ổn định trong xã hội Trung Quốc tăng gấp 1.500 lần. Một số phần tử phái “tả“ cho rằng đây là tình hình có thể lợi dụng. Họ xui nguyên giục bị, tạo gió gây mưa, lừa dối quần chúng, lôi kéo lớp trẻ. Họ cho rằng “nước lùi, dân tiến” là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, họ cổ động quay lại thời đại Mao, lại gây ra cuộc tranh luận Trung Quốc nay là xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa. Một khi nắm được số quần chúng trên, lý luận “tả” khuynh có thể chuyển hoá thành lực lượng phá hoại khổng lồ. Củi kho Đại cách mạng văn hoá còn chất đống nơi đây. Phái “tả” tạo gió gây mưa vẫn đi theo con đường Đại cách mạng văn hoá, trương lá cờ phản đối “con đường tư bản chủ nghĩa”, trước tiên đẩy các nhà tri thức lên đàn tế, điểm tên phê phán một số “học giả chủ lưu” từng góp ý kiến hiến kế, có cống hiến cho cải cách-mở cửa, nói họ chủ trương thúc đẩy xây dựng kinh tế thị trường là “tự do hoá tư sản”, lại chia cán bộ lãnh đạo các cấp chủ trì cải cách-mờ cửa thành “phái cải cách tự do hoá tư sản” và “phái cải cách xã hội chủ nghĩa”, xúi giục triển khai cuộc đấu tranh lớn ở trong và ngoài Đảng, đoạt quyền của “phái cải cách tự do hoá tư sản” và đánh đổ phái này. Điều đặc biệt cần cảnh giác là Trưởng phòng Tổng hợp Ban nghiên cứu chính sách Trương Cần Đức đã gióng lên hồi trống trận về cuộc Đại cách mạng văn hoá lần thứ hai. Y tuyên bố: “Trận quyết chiến sắp tới về thực chất là cuộc vật lộn sống chết giữa hai tiền đồ, hai số phận: đi con đường tư bản chủ nghĩa hay con đường xã hội chủ nghĩa, phái cải cách tự do hoá tư sản nắm quyền hay phái cải cách xã hội chủ nghĩa nắm quyền, phụ thuộc vào đế quốc Mỹ hay bảo vệ được độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia”. Phải xem tên Trương Cần Đức này đại diện cho ý kiến của những người nào và đại diện đến mức nào. Đây là một động hướng vô cùng nguy hiểm. Tính chất dã man, tàn khốc, chuyên chế và không tưởng của Đại cách mạng văn hoá có thể phá hoại tan tành những gì hiện có. Một khi dân chúng bị phái “tả” kích động, gửi gắm hy vọng tìm ra lối thoát vào vong hồn Mao Trạch Đông, bộc lộ sự bất mãn của mình theo phương thức do Mao dạy bảo, trương ngọn cờ Mao Trạch Đông mà nhà cầm quyền không dám phản đối, lôi “phái cải cách tư bản chủ nghĩa” ra đấu tố, thì tình hình khó mà dàn xếp được. Đây là ẩn hoạ lớn nhất ở Trung Quốc trong 10 năm tới. Chỉ có tiến hành cuộc cải cách chính trị thật sự chứ không hời hợt, bao gồm cải cách ý thức hệ là cải cách thể chế chính trị, mới có thể tránh được một đại hoạ mới. Không thực hiện hiến chính dân chủ, sớm muộn sẽ bùng nổ cuộc Đại cách mạng văn hoá lần thứ hai.

Bài học lịch sử là không dễ gì nắm bắt được thời cơ cải cách chính trị khi cho rằng mình có đủ lực lượng kiểm soát tình hình, người cầm quyền thường ngoan cố cự tuyệt cải cách, hoặc chần chừ, coi nhẹ, đến khi tình thế qua đi, mới nghĩ đến cải cách nhưng lúc đó khủng hoảng đã bùng phát, họ không còn tư cách chủ đạo công cuộc cải cách chính trị nữa, chỉ còn cách bị dòng thác lịch sử cuốn phăng. Chẳng hạn nửa cuối năm 1945 và nửa đầu năm 1946 là thời cơ của Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch. Nếu Tưởng nắm lấy cơ hội hai đảng Quốc Cộng cùng bàn việc nước, không gây nội chiến, tiến hành cải cách chính trị, từ bỏ một đảng độc tài, cùng Đảng Cộng sản tổ chức Chính phủ Liên hợp, thì không đến nỗi bị đuổi khỏi Hoa lục, tình hình xấu nhất là hai đảng luân phiên cầm quyền, và để tranh thủ cử tri, đảng nào cũng lo làm việc tốt, chẳng bên nào dám làm bừa. Trung Quốc từ đó lập nên thể chế dân chủ tuần hoàn tốt đẹp. Một ví dụ khác: năm 1961 là thời cơ của Lưu Thiếu Kỳ. Khi ấy, Đại tiến vọt thất bại thảm hại, mấy chục triệu người chết đói, Mao Trạch Đông mất hết thể diện trên thế giới và mất sạch lòng người trong nước, tại Đại hội 7.000 người, lực lượng thúc giục hạ bệ Mao Trạch Đông từng có lúc chiếm đa số. Đó là giờ phút Mao suy yếu nhất về chính trị, nếu Lưu Thiếu Kỳ thừa thế triệu tập Đại hội 9, đoàn kết toàn đảng, triệt để thanh toán đường lối chủ nghĩa xã hội không tưởng tổng kết bài học đau đớn mấy chục triệu người chết đói, sắp xếp cho Mao một chức vụ danh dự để dưỡng lão, xoá bỏ thể chế chính trị độc tài cá nhân, thực hiện hiến chính dân chủ, thì có thể đẩy chính sách cải cách-mở cửa sớm lên 20 năm, đất nước tránh được một tai hoạ lớn, bản thân Lưu cũng không đến nỗi đi đến một kết cục bi thảm như vậy. Lưu Thiếu Kỳ khi phải quyết đoán lại không quyết, đợi đến khi Mao hoàn hồn, chuẩn bị phát động Đại cách mạng văn hoá, Lưu mói nghĩ đến triệu tập Đại hội 9; và đến khi bị phái tạo phản lôi ra đấu ở Trung Nam Hải, ông mới nghĩ đến hiến pháp.

Bởi vậy, một bước trọng đại phải thực hiện trong khi có thời cơ là đánh giá lại Mao Trạch Đông. Tổ hợp chủ nghĩa cơ hội “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” (đề cao ý thức hệ nhưng chống lại chính sách kinh tế của Mao) có thế tạm yên ổn một thời, nhưng sớm muộn sẽ lật xe. Các nhà lãnh đạo hiện nay cần biết rằng: các vị giương ngọn cờ Mao Trạch Đông trong tĩnh vực ý thức hệ càng cao, thì “sai lầm” của các vị về chính sách kinh tế càng lớn, phần “tả” về chính trị làm nổi bật phần “hữu” về kinh tế. Thật sự lấy cái đúng, cái sai của Mao làm tiêu chuẩn đúng sai, thì các vị là “phái theo con đường tư bản chủ nghĩa đang đi trên con đường tư bản chủ nghĩa”. Đề cao Mao như vậy là vác đá ghè chân mình. Cần xác lập vị trí chính thống của đường lối cải cách-mở cửa trong lĩnh vực ý thức hệ. Phái cải cách chỉ có quyền hành chính không có quyền phát ngôn, là không được. “Quyền phát ngôn” ở Trung Quốc ngày nay là quyền giải thích chủ nghĩa Mác. Kế thừa quyền giải thích chủ nghĩa Mác của Mao Trạch Đông để cải cách-mở cửa, tất sẽ gặp muôn vàn trở lực, làn sóng phản đối không dứt. Những người phản đối cải cách mở cửa nằm ngoài chính quyền khí thế như hổ, những người cầm quyền chủ trì cải cách-mở cửa lo ngại, thiếu tự tỉnh thế là đẻ ra sách lược “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải”. Chỉ có chính sách kinh tế cải cách-mở cửa mà không có ý thức hệ bảo vệ chính sách đó thì không thể thành công, Lưu Thiếu Kỳ đã thất bại ở chỗ này. Chính sách “ba tự, một bao” (đất phần trăm, thị trường tự do, tự chịu lỗ lãi, và khoán sản tới hộ) của Lưu đã cứu vãn tình hình đang bên bờ vực thắm, cứu trăm họ, cứu đất nước, nhưng lại trở thành chiếc vòng kim cô trên đầu ông, mắc phải cái gọi là “sai lầm đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Còn “lãnh tụ vĩ đại” được Lưu cứu giá đã niệm chú xiết chặt vòng kim cô trên đầu Lưu, đẩy ông vào chỗ chết.

Nay những người kế thừa chính sách “ba tự, một bao” tuy đã tiến hành cải cách-mở cửa rất thành công, nhưng thường xuyên bị phê phán, ý thức hệ truyền thống coi họ là “phái cải cách tự do hoá tư sản”. Việc cấp bách là phải khôi phục bộ mặt vốn có của lịch sử, nói rõ với quần chúng nhất là thế hệ trẻ nguồn gốc sai lầm của chủ nghĩa xã hội không tưởng Mao Trạch Đông, nhìn lại thời kỳ đại hoạ “tả” khuynh tác oai tác quái, sinh linh lầm than, vạch trần chủ nghĩa Mác giả hiệu của Mao Trạch Đông, giành lại quyền phát ngôn, khiến chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mao Trạch Đông mất sạch sức hấp dẫn ở Trung Quốc. Đó là tính toán mưu lược lâu dài, sâu xa của Đặng Tiểu Bình khi ông để lại lời căn dặn một số năm sau phải đánh giá lại Mao. Cuốn sách này phải hoàn thành nhiệm vụ lịch sử ấy.

Chúng tôi viết dưới hình thức sinh động để mọi người cùng thưởng thức, khiến các chính khách đọc không cảm thấy thô thiển, nông cạn, sinh viên đọc không thấy quá sâu xa. Các tài liệu và sự kiện lịch sử đều có chứng cứ, nguồn gốc. Cuốn sách này là tác phẩm học thuật nghiêm túc, xuất bản lần thứ 2 có thêm mấy trăm chú thích. Cuốn sách dài 70 vạn chữ muốn dùng những sai lầm lịch sử của Mao Trạch Đông nhắc nhở đời sau: không thể đi và cũng không đi nổi con đường chủ nghĩa xã hội không tưởng, “thiên đường của chủ nghĩa cộng sản” không có giai cấp, không có bóc lột. không có áp bức trong tưởng tượng là địa ngục trần gian đã làm chết đói 37,55 triệu người. Đi bước này rồi mới có thể đánh bại tận gốc rễ những giáo điều cực tả thiêng liêng bất khả xâm phạm, phái cải cách và đường lối của họ mới có thể thoát khỏi trạng thái uốn éo trong điệu múa ương ca “bật tín hiệu rẽ trái, bẻ tay lái sang phải” đứng vững trên đôi chân lịch sử.

Tôi năm nay ngoài 70 tuổi, đã trải qua những năm tháng của chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Trung Quốc, từng tham gia các phong trào chống phái hữu, ba cuộc cải tạo lớn, Đại tiến vọt và Đại cách mạng văn hoá, làm công tác giảng dạy và nghiên cứu ở Học viện quân sự cấp cao trong thời gian dài, hành trình tư tưởng bám sát Mao Trạch Đông, nếu không, không thể trải qua bấy nhiêu cuộc vận động chính trị mà vẫn tồn tại. Mao Trạch Đông là thần tượng của tôi thời trai trẻ, khi giảng dạy và viết bài, tôi từng thật lòng cổ vũ sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông, cổ vũ chủ nghĩa xã hội không tưởng mà ông ta thực hiện; thậm chí, tôi từng xuyên tạc chủ nghĩa Mác để biện hộ cho sai lầm của Mao, coi đó là thiên chức của người làm công tác lý luận, là tính đảng của người cộng sản.

Trong làn sóng cuồng nhiệt ca ngợi Mao cũng có bọt nước của tôi. Trên ý nghĩa đó, tôi cũng có phần trách nhiệm đối với sai lầm của Đảng. Xuất phát từ trách nhiệm ấy, tôi sẵn sàng kể với thế hệ sau lịch sử chân thực mình đã trải qua, mong họ đừng cuồng nhiệt như tôi hồi trẻ. Đánh giá lại Mao Trạch Đông sẽ là một đề tài lớn trong thế kỷ 21. Nhiều hồ sơ lịch sử về những sự kiện trọng đại chưa được giải mật, đó là hạn chế lịch sử mà cuốn sách này không có cách nào vượt qua, khó tránh khỏi những sai sót về sử liệu và bình luận không thoả đáng, hoan nghênh bạn bè chỉ giáo, để những ý kiến thô thiển của tôi đổi được những lời vàng ngọc.

(Còn nữa)
Tân Tử Lăng
Nguồn: bản dịch của Thông Tấn Xã Việt Nam 2009

Mao Trạch Đông - ngàn năm công tội
Tân Tử Lăng

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11


(Tiếp theo kỳ trước...)

Chương 1
Muốn trở thành lãnh tụ phong trào cộng sản quốc tế

Tháng 7-1949, trong thời gian Lưu Thiếu Kỳ bí mật thăm Liên Xô, Stalin kiến nghị: Hai nước cần gánh vác nghĩa vụ lớn hơn trong phong trào cách mạng thế giới. Trung Quốc cần giúp đỡ nhiều hơn cho phong trào cách mạng dân tộc dân chủ ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Sau khi Mác và Ăng-ghen qua đời, trung tâm cách mạng thế giới đã từ phương Tây chuyển sang phương Đông, nay lại chuyển sang Trung Quốc và Đông Á. Do đó, Trung Quốc cần gánh vác trách nhiệm đối với cách mạng các nước Đông Nam Á.

Ý kiến của Stalin về trung tâm cách mạng chuyển sang Trung Quốc và muốn Trung Quốc giữ chiếc ghế thứ hai trong phe xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ Mao Trạch Đông rất nhiều. Mao cho rằng ông ta có sứ mệnh lịch sử mở rộng con đường cách mạng “lấy nông thôn bao vây thành thị” sang các nước Á, Phi, Mỹ Latinh, lấy nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới, cuối cùng giành lấy châu Âu, tiêu diệt nước Mỹ lật đổ toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa, hoàn thành cách mạng thế giới và trong quá trình này, Mao Trạch Đông trở thành người thầy vĩ đại và lãnh tụ vĩ đại của nhân dân cách mạng thế giới. Mao quyết không cam tâm chỉ làm lãnh tụ của Trung Quốc mà cho rằng thắng lợi của cách mạng Trung Quốc chỉ là bước đầu tiên trên con đường trường chinh vạn dặm. Các hoạt động nội chính và ngoại giao, văn trì và vũ công, thành công và thất bại, công lao và tội lỗi của Mao đều trực tiếp hoặc gián tiếp gắn liền với dã tâm muốn làm lãnh tụ thế giới của ông ta. Trong bối cảnh lịch sử ấy, Mao ngả hẳn sang Liên Xô, và việc lần đầu tiên của Mao sau khi thành lập nước CHND Trung Hoa là sang thăm Moskva, mừng thọ Stalin, ký Hiệp ước đồng minh tương trợ Trung-Xô.

Nhưng Stalin không hoàn toàn yên tâm về Mao Trạch Đông, lo ngại Mao trở thành “Tito phương Đông”. Một nước cờ quan trọng của Stalin là kéo Mao vào cuộc chiến tranh Triều Tiên.

Sau thế chiến II, bán đảo Triều Tiên bị phân chia làm hai miền Nam Bắc, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới, miền Nam do Mỹ cai quản, ngày 15-8-1945 đã thành lập Chính phủ Đại Hàn Dân Quốc do Lý Thừa Vãn làm tổng thống; miền Bắc do Liên Xô cai quản, ngày 9-9-1948 đã thành lập Chính phủ Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên do Kim Nhật Thành làm thủ tướng. Theo thoả thuận Yalta, quân đội Xô, Mỹ đã rút khỏi Triều Tiên vào cuối năm 1948 và tháng 6-1949. Lấy cớ hợp nhất, Kim Nhật Thành đã xoá bỏ Đảng Cộng sản mà ông ta từng gia nhập, thành lập Đảng Lao Động Triều Tiên, xây dựng quân đội do Liên Xô trang bị và huấn luyện. Chính phủ hai miền đều có ý đồ dùng vũ lực nuốt chửng đối phương, nhưng Bắc Triều Tiên nổ súng trước.

Từ 30-3 đến 25-4, Kim Nhật Thành mang theo phương án tác chiến sang Liên Xô gặp Stalin, Stalin chấp nhận, hứa giúp đỡ vũ khí và cố vấn quân sự, nhưng nói rõ nếu Mỹ can thiệp, Liên Xô không thể ra mặt tham chiến, mà Triều Tiên phải dựa vào Trung Quốc. Từ 13 đến 15-5-1950 Kim Nhật Thành bí mật sang Bắc Kinh hội đàm với Mao Trạch Đông, giới thiệu kế hoạch tấn công chi tiết, và yêu cầu giúp đỡ. Mao nói: Trung Quốc vốn định giải quyết vấn đề Đài Loan rồi mới giúp Bình Nhưỡng giải phóng miền Nam, nay Stalin quyết định giải quyết vấn đề Triều Tiên trước. Trung Quốc cũng không có ý kiến gì. Tác chiến phải chuẩn bị kỹ. Binh quý thần tốc, phải bao vây các thành thị chủ yếu, tập trung binh lực tiêu diệt địch. Nếu Mỹ can thiệp, Trung Quốc có thể xuất quân.

Vào thời điểm đó, Bắc Triều Tiên có 135 ngàn quân, gồm 10 sư đoàn bộ binh với đầy đủ quân số và vũ khí, trang bị, 1 sư đoàn xe tăng với 150 chiếc T-34, nhiều pháo hạng nặng, 1 sư đoàn không quân với 180 máy bay chiến đấu tính năng cao. Trong khi đó, Hàn Quốc có 95 ngàn quân, 8 sư đoàn chỉ có 4 sư đoàn gần đầy đủ quân số, 24 máy bay huấn luyện, không có xe tăng và vũ khí hạng năng, thậm chí không có cả mìn chống tăng.

Rạng sáng 25-6-1950, quân đội của Kim Nhật Thành mở cuộc tấn công dữ dội xuống phía nam, chỉ 3 ngày đã chiếm Seoul, thủ đô Hàn Quốc. Ngày 30-6, tổng thống Mỹ ra lệnh cho lục quân Mỹ tham chiến ở Triều Tiên. Ngày 1-7, Sư đoàn 24 bộ binh Mỹ được không vận từ Nhật Bản sang Pusan ở mạn nam Hàn Quốc. Ngày 7-7, Liên hợp quốc thông qua nghị quyết tổ chức quân đội LHQ giúp Hàn Quốc tác chiến, ngoài quân Mỹ ra, 39 ngàn quân của 15 nước được cử sang Triều Tiên. Tướng Mỹ McArthur được cử làm Tổng tư lệnh quân đội LHQ, trung tướng Walker, tư lệnh Quân đoàn 8 Mỹ trực tiếp chỉ huy liên quân trên chiến trường. Ngày 5-7, quân đội Triều Tiên đụng độ sư đoàn 24 Mỹ tại khu vực cách Seoul 48 km về phía nam. Rồi với thế chẻ tre: tiếp tục tiến sâu về phương nam, chỉ trong 2 tháng đã tràn ngập phần lớn lãnh thổ Hàn Quốc, đẩy quân Mỹ ra bán đảo Pusan trên vĩ tuyến 35.

Tướng Waiker tổ chức phòng ngự tại Pusan, Lữ đoàn 1 lính thuỷ đánh bộ hỗn hợp và sư đoàn 2 bộ binh Mỹ đã kịp thời sang tham chiến. Ngày 15-8, Kim Nhật Thành ra lệnh phải hoàn toàn giải phóng Nam Triều Tiên trong Tháng 8. nhưng quân đội của ông lúc này đã như tên bay hết tầm, bị thương vong nặng nề mà không vượt qua nổi phòng tuyến Pusan.

Ngày 28-6, Hạm đội 7 Mỹ từ Philippines đi vào eo biển Đài Loan nhằm kiềm chế Trung Quốc. Mao Trạch Đông nhạy bén nhận ra Mỹ đưa quân sang Triều Tiên có thể đảo ngược cục diện chiến tranh. Từ giữa Tháng 7 đến đầu Tháng 9, Mao đã ba lần nhắc nhở Kim phải quan tâm đến hậu phương, bảo vệ đường giao thông, đề phòng Mỹ đổ bộ lên Incheon. Nhưng Kim Nhật Thành hy vọng đánh nhanh thắng nhanh, không chịu điều chỉnh chiến lược.

Ngày 15-9, McArthur cho Quân đoàn 10 Mỹ và 5.000 linh thuỷ đánh bộ Hàn Quốc được 260 tàu chiến và 500 máy bay phối hợp đổ bộ chiếm Incheon, cắt đứt đường tiếp tế của quân đội Bắc Triều Tiên. Mười ngày sau, quân Mỹ chiếm Seoul, rồi chia làm hai cánh tiến ra vĩ tuyến 38 theo ven biển miền đông và miền tây. Tám sư đoàn chủ lực Bắc Triều Tiên bị cô lập tại mặt tràn Pusan, đã bị thương vong 58.000 người khi phá vây rút lui, ngày 1-10 rút về bắc vĩ tuyến 38, ngày 19-10 rút khỏi thủ đô Bình Nhưỡng. Kim Nhật Thành và cơ quan lãnh đạo đầu não Bắc Triều Tiên chạy ra Kangke cách Trung Quốc 50 km. Sau khi chiếm Bình Nhưỡng, quân đội LHQ theo nhiều ngả tiến về phía biên giới Trung-Triều, Tướng McArthur tuyên bố “sông Áp Lục không phải là trở ngại không thể vượt qua”.

Từ đầu Tháng 7, Stalin đã nhiều lần thúc giục Trung Quốc xuất quân. Đây là một vấn đề gay gắt đặt ra trước Mao Trạch Đông và ban lãnh đạo Trung Quốc. Mao quyết tâm kháng Mỹ viện Triều, bởi gánh vác nghĩa vụ quốc tế là điều kiện để sau này trở thành lãnh tụ của phong trào cộng sản quốc tế. Nhưng hầu hết các nhà lãnh đạo khác không tán thành vì vừa giải phóng được một năm, Trung Quốc còn đầy dẫy khó khăn, nội chiến chưa chấm dứt, nạn thổ phỉ vẫn hoành hành, kho tàng trống rỗng, được Bành Đức Hoài ủng hộ, qua phân tích chỗ mạnh chỗ yếu của mỗi bên, nhất là lợi ích an ninh tạo ra khu đệm giữa Trung Quốc và Mỹ, đánh Mỹ ở bên ngoài còn hơn phải đánh Mỹ trên đất Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã thuyết phục được các nhà lãnh đạo khác tán thành đưa quân sang Triều Tiên. Liên Xô cam kết yểm trợ về không quân và giúp Trung Quốc trang bị 40 sư đoàn.

Ngày 19-10-1950, 4 quân đoàn quân tình nguyện Trung Quốc gồrn 26 vạn người do Bành Đức Hoài chỉ huy vượt sông Áp Lục, sau 3 chiến dịch đã xoay chuyển tình thế, đẩy lùi quân Mỹ và LHQ. Ngày 31-12, Liên quân Trung-Triều vượt vĩ tuyến 38, chiếm Seoul. Quân Mỹ phải lùi tới vĩ tuyến 37.

Ngày 13-1-1951, Uỷ ban chính trị LHQ thông qua “báo cáo bổ sung” về nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề Triều Tiên trên cơ sở đề án của 13 nước (Anh, Thuỵ Điển, Ấn Độ), đề nghị ngừng bắn ngay, quân đội nước ngoài rút khỏi Triều Tiên, tổ chức bầu cử để thống nhất Triều Tiên, sau đó họp Hội nghị 4 bên Anh, Mỹ, Xô, Trung giải quyết vấn đề Viễn Đông, bao gồm vị trí của Đài Loan và quyền đại diện của Trung Quốc tại LHQ. Mỹ rất lủng túng trước đề nghi này, chấp nhận thì mất tín nhiệm với người Triều Tiên, khiến Quốc hội và dư luận Mỹ tức giận không chấp nhận sẽ mất sự ủng hộ của đa số trung LHQ. Mỹ chỉ mong Trung Quốc bác bỏ đề nghị trên.

Đối với Trung Quốc, đây là cơ hội tuyệt vời. Nếu Trung Quốc đóng quân gần vĩ tuyến 38, bắt đầu thương lượng ngừng bắn, thì có lợi cả về chính trị, quân sự, ngoại giao. Việc thông qua đề án trên cũng thể hiện sự đồng tình và thái độ hữu nghị của đa số các nước trên thế giới đối với Trung Quốc. Nhưng hồi ấy Stalin quyết tâm đánh tiếp. Ngày 17-l, Chu Ân Lai tuyên bố cự tuyệt đề án ngừng bắn, ông còn chỉ trích đây là âm mưu của Mỹ, làm tổn thương tình cảm của nhiều nước.

Hậu quả là ngày 30-1, với đa số 44/7 (có 7 phiếu trắng), Uỷ ban Chính trị LHQ đã thông qua đề án do Mỹ đưa ra, tố cáo Trung Quốc xâm lược. Tuy trong đó có nhiều nhân tố do Mỹ thao túng, nhưng nó cũng chứng tỏ nhiều nước thất vọng với Trung Quốc, vấn đề chiếc ghế của Trung Quốc ở LHQ cũng bị gác lại rất lâu.

Theo chỉ thị của Stalin, Liên quân Trung-Triều mở tiếp chiến dịch thứ 4 và thứ 5. Hai bên liên tục tăng quân, tổng binh lực trên chiến trường lên tới gần 3 triệu. Riêng Trung Quốc đã đưa sang Triều Tiên 27 quân đoàn bộ binh, 15 sư đoàn pháo binh, 12 sư đoàn không quân, 3 sư đoàn xe tăng, 14 sư đoàn công binh, 10 sư đoàn đường sắt, 2 sư đoàn công an… tổng cộng 1,34 triệu quân. Chiến tranh giằng co, thương vong nặng nề của quân tình nguyện Trung Quốc chủ yếu diễn ra sau khi Trung Quốc vượt vĩ tuyến 38. Cuối cùng quân Mỹ lại đẩy quân Trung Quốc ngược trở lại bắc vĩ tuyến 38.

Ngày 30-6-1951, Mỹ đề nghị thương lượng ngừng bắn. Một ngày sau, Bành Đức Hoài và Kim Nhật Thành trả lời đồng ý ngay. Stalin chỉ thị “không được có biểu hiện vội vã kết thúc đàm phán”, cục diện vừa đánh vừa đàm kéo dài.

Ngày 5-3-1953, Stalin từ trần. Ban lãnh đạo mới của Liên Xô yêu cầu Trung-Triều chủ động ngừng bắn. Ngày 27-7-1953, Hiệp định ngừng bắn được ký kết, trong cuộc chiến này. Phía Trung-Triều thương vong 1,03 triệu người, riêng Trung Quốc thương vong trên 30 vạn người (có 11,5 vạn chết trận), thương vong phi chiến đấu trên 41 vạn người.

Vào ngày đầu dựng nước, với đội quân đã mệt mỏi do chiến trận lâu dài, với nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá, mà Mao dám quyết tâm tham chiến ở Triều Tiên, quả là đại trí, đại dũng. Từ đó, nhân dân Trung Quốc ngẩng cao đầu, chẳng ai dám đến hà hiếp họ nữa. Đây là trận đánh đặt nền móng cho nước Trung Hoa mới, là đỉnh cao huy hoàng trong sự nghiệp cách mạng của Mao Trạch Đông.

Chương 2
Sai lầm của Mao Trạch Đông
về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội

Ban lãnh đạo Trung Quốc chưa chuẩn bị đầy đủ về lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhược điểm lớn nhất của Mao là “không đọc có hệ thống Tư bản luận, đó là chứng bệnh phổ biến của lãnh đạo cấp cao”. Chịu ảnh hưởng của cố vấn lý luận Trần Bá Đạt, Mao đưa ra quan điểm hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có thể dựa vào phân công để nâng cao năng suất lao động như các công trường thủ công thế kỷ 17. Theo lý luận đó, Mao lãnh đạo toàn dân thực hiện hợp tác hoá, công xã hoá, đại tiến vọt. Trong giai đoạn cách mạng dân chủ, Mao đã sáng tạo con đường nông thôn bao vây thành thị. giải quyết vấn đề các nước tiền tư bản chu nghĩa công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân quá nhỏ yếu làm thế nào tiến hành cách mạng, giành chính quyền, những người cộng sản Trung Quốc và toàn thế giới đều cho rằng đây là sự phát triển trọng đại đối với chủ nghĩa Mác. Nếu trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Mao có thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, một bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nên một nước Trung Hoa hùng mạnh, giàu có, văn minh trên biển cả mênh mông của nền kinh tế tiểu nông, thì không nghi ngờ gì nữa, đây sẽ là sự phát triển trọng đại hơn đối với chủ nghĩa Mác. Có hai cống hiến lý luận này, Mao có thể làm lu mờ Stalin, mà sánh vai Lenin, trở thành người thầy và lãnh tụ vĩ đại của Phong trào cộng sản quốc tế. Đến khi phong trào cưỡng bức nông dân vào hợp tác xã bị nông dân phản kháng tiêu cực, dẫn đến sản lượng nông nghiệp sụt giảm, Mao vẫn không hiểu vì sao các hợp tác xã nông nghiệp Trung Quốc thế kỷ 20 lại không thể dựa vào phân công tạo ra lực lượng sản xuất mới cao hơn như các công trường thủ công Âu Mỹ thế kỷ 17.

Thật ra, hai hình thái tổ chức sản xuất trên bề ngoài giống nhau, nhưng khác nhau về bản chất.

Làm việc trong các công trường thủ công là những người lao động làm thuê với hai bàn tay trắng. Họ vào đây là tự nguyện, là biện pháp mưu sinh, không có sự lựa chọn nào khác. Nông dân Trung Quốc là những người tư hữu nhỏ có ruộng đất, nông cụ thậm chi cả gia súc kéo, có tư liệu sản xuất và khả năng kinh doanh độc lập, gia nhập hợp tác xã đồng nghĩa với việc họ bị tước đoạt (ngay lập tức hoặc từng bước) tư liệu sản xuất, không được phép giàu lên. Mác coi nông dân, những người làm việc trong ngành chế tạo và thương nhân là sự phân công lớn, tạo thành cơ sở kinh tế của xã hội, nông dân cá thể nắm trong khái niệm phân công lớn, tức phân công trong nội bộ xã hội, nó khác với phân công trong nội bộ công trường thủ công. Hai sự phân công này khác nhau cả về mức độ và bản chất. Tiền đề của phân công trong công trường thủ công là tư liệu sản xuất tích tụ trong tay một nhà tư bản, nhà tư bản có quyền uy tuyệt đối đối với con người, con người chỉ là một phần trong tổng cơ cấu mà nhà tư bản chiếm hữu. Tiền đề của phân công xã hội là tư liệu sản xuất phân tán trong tay nhiều người sản xuất hàng hoá không dựa vào nhau, họ chỉ thừa nhận quyền uy cạnh tranh, không thừa nhận bất cứ quyền uy nào khác.

Qua nghiên cứu, Trần Bá Đạt nhận thấy xã viên hợp tác xã và công nhân công trường thủ công khác nhau ở chỗ một bên là người tư hữu nhỏ, một bên là người lao động làm thuê hai bàn tay trắng, vậy chỉ cần đẩy nhanh cải tạo XHCN đối với xã viên, cắt bỏ “cái đuôi” người tư hữu nhỏ, biến họ thành công nhân nông nghiệp không có ruộng đất, thành người vô sản từ đầu đến chân, cộng thêm tuyên truyền giáo dục lâu dài trên qui mô lớn, để họ “phá tư, lập công”, thì chắc chắn có thể làm cho các hợp tác xã nông nghiệp tạo ra kỳ tích nâng cao hiệu suất lao động như các công trường thủ công thế kỷ 17, bởi tập thể hoá đẻ ra phân công, phân công sẽ nâng cao hiệu suất. Trần Bá Đạt nói với Mao phát hiện trên. Mao liền gấp rút đẩy nhanh tiến trình “cải tạo xã hội chủ nghĩa” đối với nông nghiệp, từ tổ đổi công tới hợp tác xã bậc thấp, từ bậc thấp lên bậc cao, rồi công xã nhân dân, chỉ trong 3 năm đã tách nông dân khỏi ruộng đất, thu lại toàn bộ những ân huệ mà cải cách ruộng đất mang lại cho họ. Theo kế hoạch của Mao Trạch Đông và Trần Bá Đạt, chuyến này nông dân trần như nhộng, chỉ còn mỗi con đường hùng hục làm việc trong các đội sản xuất. Để tạo hiệu quả sản xuất, người ta cho tổ chức “hội thảo”, cờ đỏ rợp trời, trống chiêng dậy đất, các tiểu đội “cô gái thép”, “lão Hoàng Trung” ngày đông giá rét bắt xã viên trần đôi vai run rẩy làm việc. Nhưng hình thức tổ chức càng cao, năng suất càng thấp, lương thực làm ra càng ít, xã viên càng nghèo thêm. Mao không ý thức được rằng phong trào hợp tác hoá đã tách rời quần chúng cơ bản ở nông thôn từng theo ông ta làm cách mạng. Động cơ, nguyện vọng của Mao là cao cả, nhưng ông đã cản trở, bóp nghẹt sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nông thôn, chẳng thấy đâu một xã hội thái bình, an khang, thịnh vượng, mà chỉ thấy cảnh nghèo nàn, bệnh phù thủng và đầy rẫy người chết đói. Sự hạn chế của lịch sử và thiên kiến ý thức hệ hẹp hòi khiến Mao vẫn say sưa với cuộc thực nghiệm chủ nghĩa xã hội không tưởng.

Chương 3
Giang Thanh bước đầu tỏ ra lợi hại

Mao Trạch Đông lên làm Chủ tịch nước, Giang Thanh khi ấy 35 tuổi thật sự trở thành đệ nhất phu nhân, nhưng Mao vẫn không cho bà ta xuất hiện trên vũ đài chính trị. Cùng sống ở khu Phong Trạch Viên trong Trung Nam Hải, song mỗi người một phòng, vì Mao đã đam mê những người đàn bà khác.

Mục tiêu lớn của Giang là giữ vững vị trí của mình. Muốn vậy, phải góp phần củng cố và phát triển quyền lực tối cao của Mao. Giang đã từng bước thành công trong 20 năm sau đó. Được Mao công khai và ngấm ngầm ủng hộ, Giang đã từ lĩnh vực văn nghệ đi vào chính trị từ phê phán các bộ phim Chuyện kín trong cung nhà Thanh (1950), Truyện Vũ Huấn (1951), phê phán Hồng Lâu Mộng (1953), vụ án Hồ Phong (1955)…, giúp Mao loại trừ hoặc kiềm chế các nhà lãnh đạo khác. Mao thỉnh thoảng cũng giả vờ phê bình Giang trên thực tế ngày càng tin cậy, cho đến khi Giang được cử giữ chức Tổ phó thứ nhất Tổ Cách mạng văn hoá trung ương, có quyền lực thực tế hơn cả Chủ tịch nước, Tổng bí thư, Thủ tướng.

Chương 4
Vận dụng thuật cầm quyền của vua chúa

Mọi sai lầm lớn của Mao những năm cuối đời, như giết hại công thần, gây bè phái trong đảng, bám chặt lấy chế độ lãnh đạo suốt đời và gia đình trị, dung túng phe đảng Giang Thanh, đều thuộc thuật cầm quyền của vua chúa.

Từ Đại hội 7 ĐCSTQ (1945), Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai là trợ thủ chủ yếu của Mao. Họ hiểu nhau, nhất trí về tư tưởng và đường lối, phối hợp rất ăn ý, vinh nhục có nhau. Nhưng sau khi vào Trung Nam Hải, môi quan hệ thân thiết ấy dần dần thay đổi. Lưu và Chu ngày càng thấy khó nắm bắt được ý đồ của Mao, ngày càng thấy lo ngại, phải thận trọng giữ gìn từng ly một. Cao Cương phụ trách 3 tỉnh Đông Bắc, là ngôi sao mới nổi lên thời kỳ đầu thành lập CHND Trung Hoa, thuộc phái thân Liên Xô, Mao cần dựa vào ông ta để khai thông quan hệ với Stalin. Tháng 6-1949, khi cùng Lưu Thiếu Kỳ và Vương Gia Tường sang Liên Xô thông báo tình hình và xin viện trợ, Cao Cương đã đề nghị sáp nhập 3 tỉnh Đông Bắc thành nước cộng hoà thứ 17 của Liên Xô. Nhận được báo cáo của Lưu Thiếu Kỳ, Mao Trạch Đông nổi giận, gọi Cao Cương về nước ngay.

Nhưng khi họ Cao có mặt tại Trung Nam Hải, Mao lại vỗ về, hứa cho Cao giữ chức Phó Chủ tịch nước. Tiếp đó Mao điều Cao Cương lên trung ương, cử giữ chức Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước, đưa 15 cán bộ cấp cao như Trần Vân, Bành Đức Hoài, Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình, Bành Chân, Lý Phú Xuân… về Uỷ ban này làm việc dưới quyền Cao Cương.

Trong khi đó, Mao vẫn cho Cao Cương kiêm nhiệm 4 chức vụ chủ chốt ở Đông Bắc (Bí thư thứ nhất đảng uỷ, Chủ tịch Uỷ ban quân chính, Tư lệnh kiêm Chính uỷ Quân khu). Mao lại cho phổ biến rộng rãi “kinh nghiệm Đông Bắc”, tỏ ra ngày càng không tin cậy Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai… Tất cả những động thái đó khiến Cao Cương lầm tưởng rằng ông ta có vị trí và vai trò đủ để thay thế Lưu Thiếu Kỳ, khi Mao đi theo đường lối thân Liên Xô. Ông ta vẫn mưu toan dựa vào Stalin để củng cố thế đứng cho mình. Cao Cương và bạn đồng minh chủ yếu là Trưởng ban Tổ chức Trung ương Nhiêu Thấu Thạch tưởng đã nắm được ý đồ của Mao, họ trở thành những nhân vật quan trọng trong làn sóng ngầm chống Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai do Mao phát động. Nào ngờ, Stalin vừa qua đời, Mao liền tính sổ họ ngay với vụ án “Tập đoàn chống Đảng Cao Cương - Nhiêu Thấu Thạch”. Mao chẳng những trừ khử Cao-Nhiêu, mà còn làm suy yếu Lưu Thiếu Kỳ-Chu Ân Lai. Thủ đoạn của Mao lợi hại và đáng sợ đến mức các cán bộ cấp cao run rẩy, dù được tin cậy hay bị nghi ngờ, chỉ có tuyệt đối trung thành với Mao mới có thể giữ mình.

Chương 5
Thiết lập thể chế chính trị chuyên chế một đảng

Thắng lợi trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và việc Stalin qua đời khiến Mao cảm thấy mình là người hùng số một trên thế giới ngày nay, chỉ cần ông ta quyết tâm, vung tay lên là chẳng có việc gì không làm nổi trên đời này. Mao phải dựa vào vũ đài lịch sử là Trung Quốc, chỉ huy 600 triệu dân tiến hành sự nghiệp lớn long trời lở đất, ai bàn ra tán vào, ai kiềm chế, cản trở, phản đối Mao, ông ta sẽ đoạn tuyệt với người đó, bất kể là bạn cũ, chiến hữu cũ, bất kể nhân sĩ ngoài đảng hay đồng chí trong đảng. Mao cho rằng ông là người hiểu nông dân nhất, song người mà ông ta hiểu là nông dân thời đại “báo cáo khảo sát phong trào nông dân Hồ Nam”, ông ta không thật sự hiểu lý tưởng, ước mơ, những ưu tư và lo ngại của nông dân được chia ruộng sau cải cách ruộng đất. Địa vị chí tôn đã ngăn cách ông khỏi nông dân rất xa. Mấy năm sau, Mao đã ngã bật ngửa ngay trên địa bàn nông dân, nông nghiệp và nông thôn, lĩnh vực ông cho rằng mình hiểu nhất, thông thạo nhất.

Trung ương ĐCSTQ vốn định xây dựng xong chủ nghĩa xã hội mới định ra hiến pháp. Stalin cho rằng nếu “Chính phủ liên hiệp” tồn tại lâu dài, Trung Quốc có thể phát triển theo hướng dân tộc chủ nghĩa, nên ông kiên trì đòi Trung Quốc sớm định ra hiến pháp. Liên Xô đã thiết kế cho Trung Quốc mô hình chuyển đổi thể chế theo kinh nghiệm các nước Đông Âu.

Tháng 9-1954, Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Trung Quốc khoá 1 đã thông qua hiến pháp do Mao Trạch Đông khởi thảo. Tại kỳ họp này, chính phủ liên hợp đổi thành chính phủ một đảng, các nhân sĩ dân chủ cơ bản bị gạt khỏi cơ cấu quyền lực. Hội nghị hiệp thương chính trị vốn có chức năng Quốc hội nay biến thành cơ quan tư vấn; Hội đồng Chính vụ và Hội đồng Chính phủ nhân dân trung ương thành phần chủ yếu là các nhân sĩ dân chủ bị xoá bỏ, thay vào đó là Hội nghị Quốc vụ tối cao; Chính Vụ Viện đổi thành Quốc vụ Viện (Chính phủ), quyền hạn tăng thêm, nhưng trong hàng Phó thủ tướng không có một nhân sĩ dân chủ nào. Tháng 9-1954, tái lập Quân uỷ Trung ương, quyền thống soái và chỉ huy quân đội nằm trong tay một mình Mao Trạch Đông.

Cơ cấu quyền lực mà Mao thiết kế về bản chất giống thể chế độc tài của Tưởng Giới Thạch. Đảng đứng trên Quốc hội, lãnh tụ đứng trên Đảng. Về lý luận nói sự lãnh đạo của Đảng nhất trí với nhân dân làm chủ. Vấn đề là khi nảy sinh tình trạng không nhất trí thì quyền quyết định cuối cùng thuộc về ai? Nói Đảng quyết định cũng không phải Ban chấp hành trung ương thảo luận, biểu quyết, mà do lãnh tụ độc đoán quyết định. Đây là một thể chế dân chủ giả, chuyên chế thật. Nó đã không ngăn cản nổi 50 vạn tri thức bị qui thành phái hữu và bị đàn áp, không ngăn chặn được việc điên cuồng phát động phong trào Công xã hoá và Đại tiến vọt, cũng không có phản ứng nào khi cuộc Đại cách mạng văn hoá kiểu phát xít xoá bỏ hiến pháp, đình chỉ hoạt động của Quốc hội.

Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế quốc dân đã được soạn thảo khá nghiêm túc. Tháng 8-1952, dự thảo khung kế hoạch đã được Chu Ân Lai, Trần Vân, mang sang xin ý kiến Stalin và Chính phủ Liên Xô. Tháng 10-1954, Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai đã dành một tháng cùng nhau thảo luận, sửa đổi bản thảo kế hoạch chi tiết, tháng 11 Bộ Chính trị thảo luận trong 11 ngày. Tháng 3-1955, Hội nghị toàn quốc của Đảng thảo luận, tháng 7 Quốc hội chính thức thông qua, tháng 11 và 12, Chính phủ ban bố lệnh thực hiện trong cả nước. Nhưng kế hoạch thực hiện được hơn 2 năm thì Mao Trạch Đông gạt Thủ tướng và Chính phủ sang một bên, với tư cách Chủ tịch đảng cầm quyền, đích thân đứng ra chỉ huy công cuộc xây dựng kinh tế. Thế là vừa ngủ dậy, Mao đã có một chủ ý mới, đang bơi hứng lên liền quyết định tăng sản lượng gang thép lên gấp 2 lần, chỉ tiêu kế hoạch thay đổi từng ngày, làm rối loạn cả nông nghiệp và công nghiệp, cuối cùng làm rối loạn kinh tế cả nước. (Còn nữa)
Tân Tử Lăng
Nguồn: bản dịch của Thông Tấn Xã Việt Nam 2009

Hồ sơ tội trạng của Henry Kissinger

Giới thiệu sách:

Chistopher Hitchens, The Trials of Henry Kissinger, Verso Books, London, New York 2001.

Đại ý:

Tội ác của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam là một đề tài bất tận. Lúc chiến tranh còn khốc liệt đã có những trí thức ngoại quốc tên tuổi như Jean Paul Sartre, Bertrand Russell và Noam Chomsky lên tiếng kêu gọi thành lập toà án quốc tế nhằm xét xử sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Khi chiến tranh kết thúc thì vấn đề này không còn ai quan tâm, phần lớn các tác phẩm xoay quanh chủ đề Việt Nam đều nói về sự sai lầm của Hoa Kỳ. Nhưng có một ký giả đã đặt lại vấn đề này và tự nhận mình có trách nhiệm như một thẩm phán công tố và lập hồ sơ để truy tố một nhân vật đã gây tội ác trong chiến tranh Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới. Thủ phạm được gọi đích danh là Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người đã ký kết Hiệp Định Paris. Tội danh được cáo buộc là: tội ác gây chiến tranh, tội ác chống nhân loại, đặc biệt qua các vụ âm mưu tạo phản loạn, mưu sát, bắt cóc và tra tấn. Với các tội danh này tác giả yêu cầu Toà Án Quốc Tế phải xét xử đương sự. Đó chính lá nội dung chủ yếu của cuốn sách được giới thiệu trong bài viết này.

Tác giả:

Tác giả Christopher Hitchens
Chistopher Hitchens là một ký giả Hoa Kỳ gốc Do Thái, chuyên về săn tin điều tra và viết bình luận cho tờ The Nation và The Harper Magazine tại Hoa Kỳ. Ông nổi tiếng qua các loạt bài về phóng sự đìều tra nhắm vào mặt trái của các nhân vật tên tuổi như Mẹ Theresa, Công chúa Diana và Tổng Thống Clinton.

Nội dung tác phẩm:

Tác phẩm gồm có 14 chương nhưng không đánh số thứ tự. Phân loại theo nội dung thì gồm có phần nhập đề, 10 đề tài, phần kết luận và phần cảm tạ.

Phần nhập đề:

Tác giả tự nhận mình là một đối thủ chính trị của Henry Kissinger và muốn buộc ông ta trong những tội trạng như sau:

1. Cố ý giết người thường dân tại Đông Dương (gồm 3 chuơng)
2. Đồng lỏa tàn sát tập thể tại Bangladesh (1 chuơng)
3. Chủ mưu giết một nhân viên cao cấp trong chính phủ Chí Lợi (2 chương)
4. Chủ mưu và tham dự vào việc giết một lãnh tụ của Cyprus (1 chương)
5. Chủ mưu và thực hiện tội diệt chủng tại East Timor (1 chương)
6. Tham gia vào kế hoạch bắt cóc và giết một ký giả người Hy Lạp sống tại Washington D.C. (2 chương)

Chương 1 tiết lộ các bí mật trong hậu trường chính trị Hoa Kỳ vào năm 1968, mặc dù các chính phủ liên tiếp được giữ kín. Bí mật đó là: Vào mùa thu 1968 trong thời kỳ tranh cử, chính Richard Nixon và các đặc sứ của ông đã cố tình phá hoại Hoà đàm Paris bằng cách hứa hẹn bí mật với giới lãnh đạo Nam Việt Nam là chính quyền của Đảng Cộng Hoà (nếu thắng cử) sẽ tạo vị thế thuận lợi cho Nam Việt Nam hơn là chính phủ của Đảng Dân Chủ. Hậu quả là Nam Việt Nam đã tin theo và tẩy chay Hoà đàm Paris khi triển vọng ký kết sắp thành hình. Những đề nghị hòa đàm do Đảng Dân chủ đưa ra bị phá vỡ. Vào đúng bốn năm sau chính Richard Nixon cũng đã dùng các điều kiện này của Đảng Dân Chủ để vận động lại hòa bình cho Việt Nam. Hậu quả tàn khốc của kế hoạch này là cuộc chiến kéo dài thêm 4 năm nữa với số tổn thất 20.000 người Hoa Kỳ và vô số người Đông Dương. Theo suy luận của tác giả, tất cả đều nằm trong dụng ý của Henry Kissinger.

Những bằng chứng về lời cáo buộc này được tác giả nêu ra:

- Thứ nhất là những tin tức trích ra từ nhật ký của H. R. Haldeman, Diary of Haldeman, một cộng sự viên của Richard Nixon và Henry Kissinger, người phụ trách việc lập các biên bản. Tài liệu này được công bố vào tháng 5 năm 1994.

- Một tài liệu thứ hai là cuốn sách Counsel to the President: A Memoir của Clark Clifford, Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ. Sách được ấn hành năm 1991.Theo Clifford xác nhận thì vào thời điểm này đã có sự gặp gỡ bí mật giữa Tổng Thống Thiệu và John Mitchell, Giám Đốc Tranh Cử của Richard Nixon. Ông Mitchell được Bà Anna Chennault (Trần Hương Mai - 陳香梅), một lobbyist của Đài Loan làm trung gian hỗ trợ.

- Tài liệu thứ ba là Hồi ký của Richard Nixon, The Memoirs of Richard Nixon. Ông xác nhận giữa tháng 9/1968 ông được tin riêng là Johnson sẽ ra lệnh ngưng dội bom đề tạo điều kiện cho Bắc Việt vào Hội nghị. Điều này không làm ông ngạc nhiên. Henry Kissinger báo cho ông biết là lệnh ngưng dội bom sẽ công bố vào 23/10. Nhưng từ tháng 6/1968 Nixon qua trung gian của bà Anna Chennault đã gặp riêng Đại Sứ Bùi Diễm tại New York.

- Tài liệu thứ tư là điện văn của Đại Sứ Bùi Diễm gởi cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ngày 23/10/1968. Ông Bùi Diễm cũng yêu cầu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nên giữ vững lập trường, vì ông đã được Đảng Cộng Hoà xác nhận ủng hộ miền Nam. Qua các tài liệu nghe lén từ Toà Đại Sứ và theo dõi hoạt động của bà Anna Chennault đươc phổ biến sau này cho thấy rõ vấn đề hơn: Cứ mỗi lần phe Bắc Việt Nam có thiện chí ký kết thì chính phe Nam Việt Nam lại ngã giá, đặt điều kiện cao hơn.

- Tài liệu thứ năm là cuốn sách của Anthony Summers, The Arrogance of Power: The Secret World of Richard Nixon, xuất bản năm 2000. Đây là một tổng hợp các hồ sơ nghe lén của Richard Nixon, trong đó có chiến dịch tranh cử năm 1968. Qua hồ sơ của một điệp viên ngày 02/11/1968 thì bà Anna Chennault gặp Đại sứ Bùi Diễm để xác nhận sự ủng hộ của Richard Nixon và yêu cầu phía Nam Việt nam phải giữ vững lập trường. Richard Nixon tin rằng Nam Việt Nam sẽ thắng.

Trong thời kỳ này Henry Kissinger nằm trong bóng tối và điều động từ hai phía. Một mặt ông đưa tin mật ra bên ngoài, một mặt ông tình nguyện cung cấp tin này cho Nelson Rockefeller để tùy nghi khai thác. Ông cũng nói cho Zbignew Brzezinski biết là ông ghét Richard Nixon từ lâu và không tin Nixon thắng cử. Mặt khác ông sử dụng Anna Chennault và John Mitchell trong các điệp vụ ngoại giao riêng của ông. Điều này tạo một ấn tượng chung lúc bấy giờ là Richard Nixon không liên hệ gì đến những vụ dội bom Bắc Việt và mọi diễn tiến đều diễn ra từ phía Đảng Dân Chủ. Ông cũng cố tình cho thấy là chính ông cũng không biết gì vấn đề này.

Cuối chương sách tác giả đề cập tới vai trò của Henry Kissinger trong cái gọi là "40 Committee". Đây là một tổ chức nhằm nghe lén và kiểm soát các hoạt động tình báo tại hải ngọai được thành lập từ thời Tổng Thống Truman. Trong cuộc điều tra của Thượng Viện năm 1973, Giám Đốc CIA William Colby cũng xác nhận có tổ chức này và cho biết Henry Kissinger chịu trách nhiệm điều hành, đặc biệt Kissinger nới rộng hoạt động tới các phạm vi tình báo quốc nội, điều mà trước đây luật pháp không cho phép.

Chiến tranh Việt Nam
Chương 2 nói tới hoạt động của Henry Kissinger tại Đông Dương. Vào giữa thập niên 60 khi mọi người vẫn lạc quan cho cuộc chiến là có ý nghiã và phần thắng nghiêng về phiá miền Nam thì ông bắt đầu nghi ngờ khả năng của phe Nam Việt Nam sau lần đi thăm Việt Nam về. Ông đã âm thầm tiếp xúc với Bắc Việt qua trung gian hai người Pháp là Raymond Aubrac, một công chức nguời Pháp và là bạn của Hồ Chí Minh và Herbert Marcovic, một nhà Vi Sinh Vật Học, đã đi Hà Nội nhiều lần. Qua tin tức cung cấp từ hai người Pháp này ông đã đặc biệt tìm hiểu về khả năng và vị thế thương thuyết của từng nhà lãnh đạo miền Bắc. Ông cũng đưa tin này cho Robert McNamara. Song song với công việc này, ông cũng xúc tiến việc xích lại gần nhau của các siêu cường. Dù trong kế hoạch của Việt Nam hay quốc tế, ông luôn luôn có ý niệm chung: tất cả đều là phương tiện trong mục tiêu của cá nhân ông, có lúc ông chú trọng mục tiêu này và sao lãng mục tiêu kia.

Tác giả nêu lại cơ hội tái lập hoà bình để lỡ của năm 1968 làm thí dụ điển hình. Theo lời khai của Averell Harimann, Trưởng Phái đoàn Thương thuyết tại Hòa Đàm Paris thì tháng 10 và 11/1968 có 90% các lực lượng chiến đấu của miền Bắc đã rút khỏi ra hai tỉnh phía Bắc Nam Việt Nam, như Hiệp định dự kiến, còn việc ngưng dội bom miền Bắc chỉ là một điểm của Hiệp Định mà thôi. Tháng 12/1968 chính là thời kỳ chuyển tiếp từ chính quyền Johnson sang Nixon. Giới lãnh đạo quân sự tại Hoa Kỳ lại thay đổi chiến lược triệt để. Tướng Creighton Abrams đồng ý mở một cuộc chiến tranh toàn diện nhằm phá hoại mọi hạ tầng cơ sở của Việt Cộng tại miền Nam, điển hình là chiến dịch hành quân càng quét tại Kiến Hoà trong 6 tháng đầu năm 1969, mà người Hoa Kỳ gọi là Operation Speedy Express. Qua tài liệu của Haldeman thì Henry Kissinger chú tâm tới kết quả cuộc bầu cử 1972 tại Hoa Kỳ hơn là việc rút quân để giải quyết chiến tranh Việt Nam. Trong hồi ký của ông Henry Kisssinger, ông cũng xác nhận là sự rút quân đột ngột gây khó khăn về uy tín cho Hoa Kỳ. Sự can thiệp của Charles De Gaulle về vấn đề dội bom miền Bắc không gây ảnh hưởng gì đến Henry Kissinger, vì lúc bấy giờ ông quan tâm tới ý kiến của Brezhnev và Mao Trạch Đông hơn.

Một tội trạng khác được nêu lên là vụ ném bom miền Bắc vào mùa Giáng Sinh 1972. Bây giờ là mùa tranh cử tại Hoa Kỳ bắt đầu. Theo tác giả, quyết định dội bom không phải là có tính cách quân sự thuần túy mà vì lý do chính trị. Ông chứng minh, một mặt Hoa Kỳ chứng tỏ cho thấy thế mạnh của mình để gây hậu thuẫn cho Đảng Cộng Hòa trong trong Quốc Hội và đưa phe Dân chủ về phía thụ động, mặt khác muốn gây niềm tin cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thấy là không nên sợ hãi trước việc Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam.

Tội trạng liên quan đến Kambodia được tác giả nêu lên ở cuối chương. Đúng ngày 12/05/1975 là ngày Khmer Đỏ chiếm chính quyền thì một tàu chiến Kambodia đã kéo theo một tàu hàng của Hoa Kỳ tên là Mayaguez. Tàu này nằm trong lãnh hãi của Kambodia và được kéo về đảo Koh Tang. Mặc dù được biết tin là thủy thủ đoàn đã được trả tự do, Henry Kissinger cũng cố tình làm áp lực lên Henry Ford, Tổng Thống kế nhiệm thiếu kinh nghiệm, một biện pháp trả đũa để giữ thể diện. Kết quả cuộc tấn công này là trong 110 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ có đến 18 người chết và 50 nguời bị thương; phía Không Quân tham dự có 23 quân nhân tử trận. Hoa Kỳ đã thả 680 tấn bom trên đảo này và không ai biết được con số thương vong của người dân vô tội Kambodia một cách chính xác. Trong một cuộc điều tra tại Quốc Hội cho thấy Henry Kissinger ít nhất phải biết được tin thủy thủ đoàn đã được thả trước khi có quyết định can thiệp.

Chương 3 là trọng điểm của cuốn sách đuợc tác giả dùng để tổng hợp tội trạng của Henry Kissinger trong chiến tranh Việt Nam.

Khởi đầu tác giả sử dụng cuốn sách Nuremberg and Vietnam: an American tragedy của Tướng Telford Taylor để làm tài liệu phân tích. Theo Taylor, thì những nguyên tắc luật pháp áp dụng tại Tòa Án Quốc Tế Nürnbeg và Tokyo cũng nên áp dụng cho trường hợp Việt Nam. Bản án Nürnberg đã được Liên Hiệp Quốc chuẩn nhận ngày 11/12 /1946 và trở thành nguyên tắc Luật Quốc Tế sau này. Như vậy Hoa Kỳ cũng phải tôn trọng nguyên tắc này khi tham chiến tại Việt Nam. Những bị cáo cũng có thể lập luận rằng mục tiêu chiến đấu của chiến tranh Việt Nam là danh dự và cao cả; những người có trách nhiệm đều vô tội, vì không ai có thể lường trước được những kết quả tàn khốc của một cuộc chiến lan rộng và một phần khác là thiếu thông tin chính xác. Cũng theo Telford Taylor thì lập luận này có thể được chấp nhận được cho đến giữa thập niên 60. Từ sau vụ thảm sát Mỹ Lai 16/03/1968 không ai có thể cho là mình không biết đến mức độ vô nhân đạo trong các cuộc tàn sát khi chiến tranh đã leo thang lên cao điểm.

Một lập luận khác của William Corson, Đại Tá Hoa Kỳ, cũng nêu lên để phản chứng. Theo William Corson, sự khốc liệt trong chiến tranh Việt Nam không có yếu tố hình sự để buộc tội, đó chỉ là sự ước lượng sai lầm của giới lãnh đạo Hoa Kỳ từ đầu đến cuối sự tham chiến.

Lập luận này không được Telford Taylor chấp nhận. Ông nêu lên những đặc điểm trong chiến tranh Việt Nam, điều mà người ta không thể so sánh với các cuộc chiến tranh trước đây. Một mặt những vũ khí được trang bị tại Việt Nam rất hiện đại và di động, mặt khác phương tiện truyền thông từ Hoa Kỳ đến Việt Nam cũng như từ trung ương đến hạ tầng được bảo đảm. Một điều có thể suy đoán được là Henry Kissinger và Tướng Creighton Abrams phải biết được tầm mức lan rộng chiến tranh đến thường dân vô tội và họ ít nhất phải được thông báo đầy đủ về vấn đề này.

Theo tài liệu của John Mc Naughton, Đại diện Bộ Quốc Phòng, cho thấy giới lãnh đạo Toà Bạch Ốc vào năm 1967 chỉ muốn một phương cách duy nhất để quét sạch Việt Cộng bằng cách đốt nhà dân chúng, phá hết rừng rậm và tráng nhựa lại hết toàn bộ miền Nam.

Một bằng chứng khác là cuộc Hành Quân Bình Định Nông Thôn tại Kiến Hòa vào 6 tháng đầu năm 1969. Tài liệu của Kevin Buckley, Trưởng Văn phòng Tuần báo Newsweek tại Sài Gòn cho thấy Henry Kissinger có tiếng nói quan trọng trong quyết định này. Theo Kevin Buckley thì tổng số thương vong của cộng quân trong cuộc hành quân này là 10.899 người, nhưng bằng chứng khác cho thấy số thương vong của dân chúng lên trên 5.000 người, vượt qua hẳn con số của vụ Mỹ Lai. Một câu hỏi được đặt ra là từ đâu có những con số này thì một sĩ quan Sư Đoàn 9 Không Kỵ Hoa Kỳ trả lời là: các trực thăng có thể đếm các xác của kẻ thù không có vũ khí này từ trên những cánh đồng. Một nghịch lý khác được tác giả nêu lên là so với gần 11.000 người chết mà số vũ khí tịch thu được chỉ có 748. Theo ước lượng của tác giả thì cuộc hành quân này mức độ khốc liệt hơn Mỹ Lai nhiều.

Tác giả trưng dẫn một tài liệu khác của Tad Szulc qua cuốn sách The Illusion of Peace: Foreign Policy in the Nixon Years. Theo đó thì chính Henry Kissinger đã có lần đề nghị sử dụng bom nguyên tử để phá hoại đường tiếp tế Hoa-Việt và một lần khác nhằm phá hệ thống đê điều của miền Bắc. Nhưng đề nghị này đã không được chấp thuận.

Vấn đề dội bom Kambodia cũng được đặt ra. Theo tác giả thì không có một căn bản pháp lý nào cho việc nới rộng chiến tranh này cũng như một đảm bảo an toàn nào cho các thường dân. Các tài liệu của Toà Bạch Ốc và Bộ Quốc Phòng cho thấy là trong quyết định oanh tạc sang Kambodia và Lào, tổn thất các nạn nhân vô tội được dự kiến trước. Theo tác giả có it nhất 660.000 thường dân tại Kambodia và 350.000 tại Lào phải hy sinh oan uổng. Trong Hồi ký của Henry Kissinger ông có đề cập tới vấn đề này và cho là lệnh dội bom đến từ nhiều cơ quan khác nhau và điều này có thông báo cho Quốc Vương Sihanouk biết trước. Theo tác giả thì chính Henry Kissinger góp phần quan trọng vào vấn đề này và ông đã theo dõi chặt chẽ diễn tiến các cuộc oanh tạc Kambodia. Không thể nào lập luận rằng ông không có ý thức sự nguy hiểm của quyết định này. Sự chấp thuận của Quốc Vương Sihanouk, nếu có, cũng không giải tội cho Henry Kissinger được. Những người trong cuộc như Robert McNamara, George Bundy và William Colby đã chính thức lên tiếng hối lỗi và cố gắng giải thích vấn đề. Còn Henry Kissinger thì tuyệt nhiên cho đến nay không có những phản ứng gì tương tự.

Tác giả cũng tố giác việc Hoa Kỳ đếm xác người Việt để báo cáo lấy thành tích, điều mà họ không phân biệt thường dân hay quân nhân. Một thí dụ được nêu lên để minh chứng là số tử thương chính thức từ tháng 03/1968 cho đến tháng 02/1972: Hoa Kỳ: 31.205, Nam Việt Nam: 86.101 và đối phương: 475.609. Cũng nên biết là trong thởi kỳ này Hoa Kỳ đả bỏ 4.500.000 tấn chất nổ xuống Đông Dương. Theo ước lượng của Thượng Viện Hoa Kỳ thì ít nhất có trên ba triệu thường dân thiệt mạng. Một con số khác được CIA đưa ra là chỉ có 35.708 thường dân bị bắt cóc và giết chết trong chiến dịch Phượng Hoàng, cũng là điểm đáng nghi ngờ. Những con số này được Henry Kssinger đưa ra để phần lừa dối, phần dấu nhẹm công luận và tránh áp lực của Quốc Hội. Tác giả đã trích dẫn Nhật ký của Haldeman để dẫn chứng sự kiện này ở cuối chương sách.

Chương 4 nhằm cáo giác tội diệt chủng và âm mưu đảo chánh của Henry Kissinger tại Bangladesh.

Tháng 12/1970 phe quân phiệt Pakistan cho phép bầu cử tự do. Kết quả là phe Sheikh Mujibur Rahman thắng cử dễ dàng và chiếm đa số ghế trong Quốc Hội. Theo dự kiến thì ngày 03/03/1971 Quốc Hội sẽ triệu tập phiên họp đầu tiên. Đúng ngày 01/03/1971 Tướng Yakya Khan tuyên bố đình hoãn việc này khiến cho dân chúng nổi dậy chống đối. Quân đội can thiệp mạnh vào thủ đô Dhaka và bắt giữ Scheich Mujibur Rahman, ký giả ngoại quốc bị trục xuất. Bất bình trước các đàn áp thô bạo này Tổng lãnh Sự Hoa Kỳ tại Dhaka là Archer Blood gởi điện văn phản đối sự chậm trễ can thiệp của Hoa Kỳ. Việc này đựơc đa số nhân viên Toà Lãnh Sự ủng hộ. Quân đội tiếp tục đàn áp sinh viên và dùng súng bắn vào các cư xá đại học. Các vũ khí này do Hoa Kỳ cung cấp trong chương trình viện trợ phát triển. Trong 3 ngày đầu theo tác giả có tới 10.000 thường dân bị chết. Tổng số nạn nhân trong cuộc đàn áp này được ước lượng tối thiểu từ hơn nửa triệu cho đến đến ước lượng tối đa là ba triệu thường dân. Trước tình hình cực kỳ sôi động, Đai Sứ Hoa Kỳ tại Ấn Độ là Kenneth Keating trong điện văn ngày 29/03/1971 yêu cầu Hoa Kỳ phải có biện pháp ngăn chặn. Kết quả đạt được là Henry Kissinger đã cách chức Archer Blood và cảnh cáo Kenneth Keating. Vào cuối tháng tư 1971 là thời kỳ cao điểm của sự đàn áp, đích thân Tướng Yahya Khan đã gởi thư cảm tạ Henry Kissinger về sự hợp tác.

Theo tài liệu của sử gia Lawrence Lifschultz thuộc Đại Học Yale thì Henry Kissinger phải làm ngơ vì vào thời điểm này Pakistan đang làm trung gian cho việc nối lại bang giao giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa. Ngay trong phiên họp tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 06/03/1971 do Henry Kissinger triệu tập, thì mọi đề nghị can thiệp đều bị Henry Kissinger bác bỏ, kể cả việc cảnh cáo Tuớng Yahya Khan phải tôn trọng kết quả bầu cử. Thái độ của Henry Kissinger cho thấy là ông không tôn trọng nguyện vọng dân chủ của nhân dân Bangladesh. Sau này khi Mujibur đi thăm Hoa Kỳ vào năm 1974 với tư cách là quốc trưởng, ông tẩy chay không gặp trong một cuộc tiếp xúc trong 15 phút mà chính Tổng Thống Ford đã chấp thuận. Tháng 11/1974 ông đến thăm Bangladesh trong vòng tám tiếng đồng hồ và chỉ mở một cuộc họp báo trong ba phút. Theo những tài liệu thì ông đến để sắp xếp cuộc đảo chính Mujibur. Ngày 14/08/1975, Mujibur và 40 tùy tùng đã bị hành quyết trong một cuộc đảo chính. Những chi tiết liên quan với David Eugene Booster, Đại Sứ Hoa Kỳ và Phipp Cherry, Trưởng Cơ Quan Tình Báo CIA tại Bangladesh được tác giả dẫn chứng. Trong có một cuộc điều tra về âm mưu đảo chánh của Henry Kissinger do Tổ chức Carnegie thực hiện với sự tham dự của 150 viên chức Bộ Ngoại Giao và CIA, nhưng kết quả này không được công bố, vì chính áp lực của Henry Kissinger.

Chương 5 nhằm vạch trần tội trạng của Henry Kissinger tại Chí Lợi trong khi triển vọng phát triển dân chủ tại xứ này đang thành hình.

Hoa Kỳ tổ chức
lật đổ chính quyền Allende
Tháng 09/1970, phe tả của ông Salvador Allende thắng thế với đa số phiếu 36,2% trong cuộc bầu cử Tổng Thống. Sự phân hoá chính trị trong cánh hữu và bảo thủ càng trầm trọng hơn khiến cho các doanh nghiệp Mỹ tại Chí Lợi như ITT, Pepsi-Cola và Ngân Hàng Chase Manhattan thấy làm ăn khó khăn hơn; triển vọng bang giao kinh tế hai nước theo chiều hướng này cũng xấu đi. Sau khi thoả thuận với Donall Kendall, Chủ tịch tập đoàn Pepsi-Cola, David Rockefeller, Chủ tịch Ngân hàng Chase Mahattan và Richard Helms, Giám Đốc CIA, Henry Kissinger cùng Richard Helms đến gặp Richard Nixon để tìm cách giải quyết vấn đề. Richard Nixon đồng ý kế hoạch ngăn trở Allende lên nắm quyền, phí tổn chấp thuận là 10 triệu đô-la và kế hoạch hành động trong vòng 48 tiếng đồng hồ và Toà Đại sứ Hoa Kỳ không được liên can.

Theo các tàl liệu được giải mật sau này cho thấy Henry Kissinger thoạt đầu không quan tâm đến tình hình của Chí Lợi nhiều, nhưng ông cũng tham gia vì muốn chứng tỏ thực tài cho Richard Nixon thấy mà thôi. Theo kế hoạch của Henry Kissinger thì một toán đặc nhiệm công tác được hình thành từ Langley, Virginia. Tổ chức gồm hai đường dây: chính thức (qua ngã ngoại giao) và bí mật (không thông qua Bộ Ngoại Giao và Toà Đại Sứ), nhằm tổ chức đảo chính và bắt cóc Tướng Tư Lệnh Quân Đội René Schneider, mỗi sĩ quan tham gia được tặng 50.000 đô-la. Hai người trực tiếp điều hành kế hoạch này là Richard Helms và Thomas Karamessines. Toán công tác nhận định rằng tình trạng phân hóa trong quân đội, sự trung thành đối với Tướng René Schneider và Hiến Pháp sẽ làm trì trệ kế hoạch. Nhưng Henry Kissinger bất chấp và ra lệnh phải tiến hành. Ngay trong đường dây thứ hai thì chính Henry Kissinger cũng chia làm hai loại nhóm tướng lãnh của Chí Lợi để hợp tác khác nhau. Nhóm thứ nhất là Tướng Roberto Viaux và Arturo Marshall. Nhóm này đã có lần tổ chức đảo chánh vào năm 1969 nhưng không thành công và bị quân đội cũng như chính giới không coi trọng. Nhóm thứ hai, tương đối khả kính hơn do Tướng Camilo Valenzuela cầm đầu. Henry Kissinger chấp thuận cung cấp vũ khí cho Tướng Roberto Viaux, người thi hành kế hoạch này. Sau thời gian tiếp xúc thì CIA nghi ngờ khả năng hành động của nhóm Tướng Roberto Viaux, dù trước đó đã giao 20.000 đô la tiền mặt và một khế ước bảo hiểm nhân thọ cho y với trị giá 250.000 đô la. Cuối cùng Richard Nixon đi đến quyết định ủng hộ nhóm Tướng Valenzuela và thúc hối hành động. Đêm 18/10/1970, nhóm của Tướng Valenzuela tổ chức bắt cóc Tướng Schneider nhưng thất bại vì ông này vào giờ chót đổi ý dùng xe riêng đi thay vì công xa. CIA hốt hoảng, thúc hối nhanh hơn và tiếp tục trả thêm cho nhóm Tướng Valenzuela 50.000 đô-la nữa. Đêm 20/10/1970, một cuộc bắt cóc lần thứ hai lại thất bại. Ngày 22/10/1970 CIA tiếp tục giao vũ khí cho nhóm Tướng Valenzuela. Nhưng cùng ngày này thì Tướng Scheider lại bị giết bởi nhóm của Tướng Roberto Viaux. Do tài liệu của Toà án Quân Sự Chí Lợi sau này cho thấy thủ phạm lại chính là người cùng một lúc ở trong hai nhóm của hai đường giây khác nhau. Trong tất cả các tài liệu của Hoa Kỳ người ta không tìm ra được một bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ công khai ra lệnh giết hoặc bắt cóc và thủ tiêu Tướng Schneider. Trong việc chuyển giao vũ khí cho Tướng Valenzuela cũng không có một văn bản nào kết luận được là Hoa Kỳ giao vũ khí để sử dụng vào mục tiêu thanh toán Tướng Schneider.

Những bằng chứng được tác giả nêu ra là:

1. Brian MacMaster, một nhân viên CIA, lúc đó giả dạng là một doanh nhân làm ăn tại Chí Lợi, khai rằng sau vụ mưu sát này CIA vẫn tiếp tục trả tiền cho các thuộc viên của nhóm Tướng Viaux bị ngồi tù để buộc phải câm tiếng.

2. Đại Tá Paul M. Wimert, Tùy viên Quân sự Toà Đại Sứ, là người chiu trách nhiệm liên lạc với nhóm Tướng Valenzuela, khai rằng, sau vụ mưu sát ông đòi Valenzuela trả 50.000 đô la và 3 khẩu súng lại và ông vứt vũ khí này xuống biển để phi tang. Người đồng lõa với ông là Henry Hecksher, Trưởng nhóm CIA, trước đó đã xác nhận với Washington là cả hai nhóm hợp tác đều có khả năng thực hiện đảo chánh thành công.

3. Trong văn thư của Henry Kissinger gởi đi ngày 15/10 không có bằng chứng nào chứng tỏ là Hoa Kỳ đình chỉ hợp tác với nhóm Tướng Viaux. Ngược lại điện văn của Bộ Ngoại Giao gởi cho Henry Hecksher ngày 20/10 cho thấy sự lo lắng cuả các giới chức cao cấp khi hay tin hai lần mưu sát Tướng Schneider bất thành. Sau này Thomas Karamesines xác quyết là sự quan tâm này đến từ Henry Kissinger.

4. Đại Sứ Edward Korry cũng khai rằng Henry Kissinger đã ép ông đứng ra nhận hết tội trong vấn đề này vì Henry Kissinger cho là xui xẻo và không muốn dính tới.

Ở cuối chương tác giả trích dẫn những đoạn trong Hồi Ký của Henry Kissinger qua những lần gặp gỡ Augusto José Pinochet và so sánh quan điểm trình bày với những biên bản chính thức của Bộ Ngoại Giao. Những vấn đề nhân quyền, đàn áp đối lập, bang giao hai nước và phát triển tổ chức Châu Mỹ La tinh (OAS) viết ra đều trái ngược nhau.

Chương 6 bổ túc thêm về tội trang của Henry Kissinger về vụ Chí Lợi. Kết quả một cuộc điều tra vào tháng 09/2000 được gọi là Hinchey Amendment cho thấy những yếu tố mới :

- CIA đã hợp tác với ba nhóm tướng lãnh khác nhau để đảo chánh, chứ không phải là hai nhóm như được biết từ trước đến nay. Cả ba nhóm đều đồng ý là phải bắt cóc Tướng Schneider, vì ông này chủ trương quân đội phải tuân theo hiến pháp và đồng ý cho Allende nắm quyền. CIA chỉ cung cấp vũ khí cho một nhóm tướng lãnh mà thôi và không có ý định giết Tướng Schneider. Cuối cùng CIA hợp tác với nhóm thứ hai, nhưng trước đó bốn ngày đã ngưng yểm trợ vì nhận định là đảo chánh sẽ không thành công.

Tác giả nêu lên một phản chứng khác:

- Đến tháng 11/1970 một thành viên trong nhóm của Tướng Viaux đã trốn thoát cuộc lùng bắt và liên lạc được với CIA để xin giúp đỡ tiền bạc. CIA đã trả cho người này 35.000 đô la để mong là im tiếng. Tác giả suy đoán lệnh trả tiền phải do Henry Kissinger duyệt y, vì CIA tại Chí Lợi không có thẩm quyền này.

Ở cuối chương này tác giả dẫn chứng về sự hợp tác của CIA với tên trùm mật vụ của Augusto José Pinochet là Manuel Contreras. CIA xác nhận giúp đỡ cho Manuel Contreras, nhưng chỉ nhằm thêm phương tiện kỹ thuật và huấn luyện nhân viên tình báo để Chí Lợi có phương tiện chống ngoại xâm chớ không phải dùng để đàn áp đối lập.Tác giả chứng minh ngược lại là Chí lợi không có ngoại thù, mà chỉ có nhân dân chống chế độ Pinochet. Dầu biết Pinochet vi phạm nhân quyền với các phương tiện của CIA hổ trợ cho Manuel Contreras, Hoa Kỳ vẫn làm ngơ vì những quyền lợi của Hoa Kỳ tại Chí Lợi.

Chương 7 cáo giác tội trạng của Henry Kissinger trong việc can thiệp vào nội bộ tại Cyprus.

Đây là một đảo với 82% dân Hy Lạp và 18% dân Thổ sinh sống. Tổng Thống Makarios của Cyprus được dân chúng bầu ra. Nhưng độc lập của Cyprus là cái gai cho Hy Lạp và Thổ. Cả hai đều muốn sáp nhập Cyprus vào nước của mình, cả hai đều ủng hộ các tổ chức nổi loạn, gây bạo động để chống đối lẫn nhau. Trước tình hình này Henry Kissinger cho là chế độ của Makarios chính là đầu mối cho sự bất ổn tại Cyprus và gây nguy hại cho tình hình chung trong vùng. Dimitros Ioannides, trưởng cơ quan tình báo của Hy Lạp lập kế hoạch nhằm lật đổ Makarios vằ muốn đặt Cyprus dưới quyền kiểm soát của Hy Lạp.

Hoa Kỳ đã yểm trợ kế hoạch này. Henry Kissinger đã biết tin đảo chánh trước hai tháng trước đó, tức là tháng 05/1974, nhưng ông không phản ứng gì. William Fulbright, Chủ tịch Ủy Ban Ngoại Giao Thượng Viện, ngay sau khi biết tin đảo chánh này do một ký giả Hy Lạp là P. Demetracopoulos cung cấp, ông đã yêu cầu Henry Kissinger tìm mọi biện pháp ngoại giao để ngăn chận, nhưng Henry Kissinger chối từ, viện cớ đây là nội bộ của Hy Lạp. Những bằng chứng cho thấy Dimitros Ioannides liên hệ với CIA trong khi Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ không phản ứng gì trước tình hình càng sôi động. Sau ngày đảo chánh, trước áp lực nặng nề, Henry Kissinger đã họp báo minh oan là không nhận được tin tức gì liên quan vấn đề. Thực ra ông có đủ mọi nguồn tin từ chính thức cho đến tin tình báo về diễn biến tình hình. Việc quyết định cho Nicos Samson nắm quyền đều do CIA sắp đặt và chi trả phí tổn. Trong một hồi ký cuả Tướng Grigorios Bonanos, Tư Lệnh Quân Đội Hy Lạp xuất bản năm 1986 tại Athen tựa là Sự Thật đã phơi bày cho biết: "Cuộc tấn công vào đảo Cyprus được ủng hộ sự chính thức của Thomas A. Papas, người trung gian liên hệ giữa nhóm đảo chánh và Nixon-Kissinger".

Kế hoạch đảo chánh thất bại làm hàng ngàn người chết và 200.000 người tỵ nạn. Mặc dù Makarios trốn thoát được và tìm cách vận động trở về nắm quyền nhưng Henry Kissinger luôn tìm cách ngăn trở. Ông cũng không công nhận Makarios là Tổng Thống của Cyprus nữa. Sau nhiều áp lực từ Thượng Nghị Sĩ William Fulbright, Chủ Tịch Uỷ Ban Ngoại Giao Thượng Viện và Dân Biểu Thomas Morgan, Chủ Tịch Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện, người chính thức mời Makarios đến thăm Washington, Kissinger mới chịu tiếp kiến Makarios.

Henry Kissinger cũng lượng giá được tình hình: ngày nào Hy Lạp còn muốn nắm quyền thì Thổ cũng sẽ tìm cách phản công quân sự. Ông luôn tìm cách ngăn cản sự trở về phục hồi của Makarios qua hỗ trợ quân sự của Thổ hay Anh Quốc. Sir Tom McNally của Bộ Ngoại Giao Anh cũng đã có tài liệu minh chứng điều này.

Chương 8 buộc tội Henry Kissinger trong việc chủ mưu diệt chủng nhân dân East Timor.

Quân đội Indonesia đàn áp nhân dân East Timor
Đảo Timor trước đây thuộc Bồ Đào Nha sau này bị Indonesia sát nhập. Phòng trào đấu tranh giành độc lập của FRETILIN được dân chúng trong đảo ủng hộ và gây được thiện cảm của ngoại quốc. Ngày 07/12/1975, Indonesia tấn công đảo Timor. Một sự kiện đáng lưu ý là cùng ngày này Tổng Thống Ford và Ngoại Trưởng Kissinger đến đảo Hawaii sau khi đi thăm Indonesia về. Một câu hỏi được báo chí đặt ra tại phi trường Hawaii cho Tổng thống Ford là Hoa Kỳ có bật đèn xanh cho cuộc đàn áp này không. Ông Ford không trả lời và hẹn vào một dịp khác. Sau đó qua một thông cáo báo chí cho biết Hoa Kỳ rất quan tâm tới tình hình tại East Timor, đặc biệt là việc sử dụng bạo lực. Tổng Thống Ford hy vọng rằng mọi sự sẽ hoà giải tốt đẹp.

Khi tin tức chi tiết về sự tàn sát tại East Timor được báo chí tường thuật, nghi vấn về sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, đặt biệt là việc cung cấp vũ khí, càng được đặt ra nhiều hơn. Đai Sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc là Daniel Patrick Moynihan trong hồi kỳ của ông tựa là A Dangerous Day, cũng đã lộ nhiều chi tiết về cuộc đàn áp này, dù không ám chỉ đích danh Henry Kissinger.

Ngày 11/7/1995 trong khi đi giới thiệu tác phẩm mới của mình là Diplomacy, Henry Kissinger đã gặp các nạn nhân và vấn đề được đặt ra.

Trả lời câu hỏi của ông Constancio Pinto, một lãnh tụ của Phong trào đấu tranh East Timor, Henry Kissinger cho biết là việc ông đến Indonesia vào thời điểm này hoàn toàn tình cờ. Tổng Thống Ford và ông dự trù đi Trung Hoa trong năm ngày. Mao Trạch Đông đang bi bịnh nặng và phong trào Tứ Nhân Bang gây bất ổn nội tình Trung Hoa khiến Tổng Thống Ford quyết định Hoa du chỉ có hai ngày và thay đổi chương trình đi thăm Phi Luật Tân một ngày rưỡi và Indonesien một ngày rưỡi. Trong cuộc hội kiến tại Indonesia thì vấn đề East Timor không nằm trong chương trình nghị sự. Ngay khi ông đến phi trường thì mới biết được tin, nhưng ông không rõ số nạn nhân. Ông không hề tạo điều kiện cho người Bồ Đào Nha ở lại. Khi người Indonesia thông báo tình hình ông cũng không ủng hộ hay chống đối. Theo ông, East Timor không phải là cường quốc và không nằm trong ảnh hưởng cũng như quan tâm của Hoa Kỳ.

Ông Allan Nairn, một ký giả Hoa Kỳ, nạn nhân còn sống sót của cuộc tàn sát ngày 12/11/1991 tại Timor cũng có mặt trong buổi này và phản chứng những đìều Henry Kissinger nói. Theo tài liệu của ông thu thập từ Bộ Ngoại Giao, dù không đầy đủ, cũng cho thấy là Henry Kissinger đã thảo luận vấn đề này với Suharto trước khi có đàn áp. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho ký giả Allan Nairn, Tổng Thống Ford cũng xác nhận là đề tài Timor được đặt ra trong lúc gặp Suharto. Một bằng chứng khác được ký giả Allan Nairn đưa ra là một biên bản buổi họp tại Bộ Ngoại Giao ngày 18/12/1975. Theo biên bản này thì Henry Kissinger sau khi đi Indonesia về đã khiển trách nhân viên nặng nề vì đã để ông Leigh, một luật sư cố vấn của Bộ lên tiếng chỉ trich. Theo ông Leigh thì việc Indonesia tấn công vào đảo Timor là vi phạm luật quốc tế và vi phạm hiệp ước với Hoa Kỳ trong việc sử dụng vũ khí. Henry Kissinger trả lời tiếp là Timor không phải là một vấn đề lớn nằm trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ, mà là một vấn đề hậu thuộc điạ. Chuyện khiển trách nhân viên là một phần để lấy lòng Indonesia, một phần là vấn đề nguyên tắc làm việc. Các vấn đề vi phạm nhân quyền phải được thảo luận trong Bộ trước khi đưa ra công luận.

Tác giả nêu một bằng chứng từ tài liệu của C. Philipp Liechtey, Trưởng nhóm CIA tại Indonesia. Liechtey xác nhận có sự hỗ trợ chính trị từ Bộ Ngoại Giao và yểm trợ vũ khí cho các cuộc đàn áp. Ở cuối chương, toàn văn biên bản ngày 18/12/1975 tại Bộ Ngoại Giao được đem ra phân tích chi tiết để kết tội Henry Kissinger.

Chương 9 đưa ra ánh sáng vụ mưu sát một ký giả người Hy Lạp bút hiệu Elias P. Demetracopoulos ngay tại Washington D. C. mà Henry Kissinger trực tiếp tham gia.

Demetracopoulos là một ký giả nổi danh chống chế độ quân phiệt Hy Lạp nhưng ông cũng là một nhà tư vấn và cung cấp tin tức cho nhiều chính giới tại Hoa Kỳ về nội tình Hy Lạp.

Demetracopoulos từ lâu là một cái gai cho Henry Kissinger vì ông biết quá nhiều tin tức tối mật của Hoa Kỳ, điển hình là vụ tiền quyên góp 549.000 đô-la của Tình báo Hy Lạp cho Nixon để vận động tranh cử qua trung gian của một doanh nhân Hy Lạp tên Thomas Papas A. FBI đã theo dõi những hoạt động của ký giả này từ lâu. Chính quyền Hy Lạp cũng tước quốc tịch của ông và Tình báo Hy Lạp có nhũng âm mưu tổ chức bắt cóc và dẫn độ ông này về Hy Lạp để xét xử. Kế hoạch này được CIA hỗ trợ. Theo tài liệu của William A. Dobrovir, một luật sư của Demetracoupolos, tổng hợp từ nhiều nguồn tin khác nhau của FBI, CIA, Bộ Ngoại Giao, Bộ Tư Pháp và Bộ Quốc Phòng thì chính Henry Kissinger là đồng lõa. Trong hồi ký In The First Line of Defense của Konstantin Panayota, Đại sứ Hy Lạp tại Hoa Kỳ đã nêu lên bằng chứng về sự hợp tác này.

Chương 10 tố cáo Henry Kissinger hợp tác với các chế độ độc tài trên thế giới qua tổ chức tư vấn của ông.

Ngay sau khi rời khỏi chính trường, ông lập một văn phòng tư vấn gọi là Kissinger Associates mục đích nhằm giúp giới doanh nhân tiếp xúc với các chính quyền trên khắp thế giới để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Khách hàng của ông là các doanh nghiệp khổng lồ như American Express, Searmon Learman, Arco, ITT, Lockhead, Cola-Cola, Fiat, Deawoo…

Tại thị trường Trung Hoa ông đã làm trung gian thương thuyết cho các hãng H. L. Heinz, Atlatic Richfield/Arco và Chase Manhattan Bank. Qua trung gian của một thành viên là Lawrence Eagleburger, văn phòng ông cũng hợp tác làm ăn với LSB một ngân hàng của chế độ độc tài Bulgary và làm đại diện Hoa Kỳ cho Tổ hợp Xây dựng Quốc doanh của Nam Tư Yugo Enerjoproject, một tổ chức sản xuất vũ khí quốc phòng. Một thành viên khác trong tổ chức của ông là Alan Stoga cũng công khai hợp tác với Saddam Hussein, mở ra một Iraq Business Forum nhằm giúp đỡ doanh nhân dễ dàng đầu tư tại Iraq. Ông cũng hợp tác Tập đoàn đầu tư quốc tế Freeport McMoran, chuyên về khai thác quặng mỏ và khí đốt có trụ sở chính tại New Orleans. Một trong những kế hoạch của tập đoàn là xin phép khai thác quặng tại Miến Điện, phần kỹ thuật xây dựng do Daewoo thực hiện, nhưng việc này không thành. Ông cũng trợ giúp cho tập đoàn này trong các khai thác quặng mỏ tại Indonesia. Tóm lại hiện nay ông đang theo đuổi những quyền lợi kinh tế cá nhân mà đôi khi tương phản với quyền lợi của Hoa Kỳ.

Chương cuối cùng có tựa đề là Luật pháp và Công lý. Tác giả đề cập tới một căn bản pháp lý để áp dụng trong trường hợp Henry Kissinger. Theo tác giả có bốn nguồn luật pháp hiện đại được áp dụng là: Luật quốc tế về Nhân quyền, Luật chiến tranh, Hình Luật quốc tế và Hình Luật các quốc gia.

Tác giả ghi nhận rằng Công ước Quốc tế về Tội diệt chủng mới được phê chuẩn từ năm 1988, Công ước công nhận về các quyền dân sự và chính trị cũng được ký kết từ năm 1992 và những nguyên tắc của Toà án Nürnberg, tất cả đều không thể áp dụng cho các hành vi của Henry Kissinger vì nguyên tắc bất hồi tố trong các văn kiện này. Tác giả giải thích luật phong tục quốc tế sẽ là một căn bản pháp lý duy nhất để áp dụng cho trường hợp Henry Kissinger, đặc biệt các tội trạng liên quan đến chiến tranh Đông Dương. Tội danh diệt chủng này đã được Toà Án Quốc Tế công nhận từ năm 1951 và nay thì Toà Án Hình Sự Quốc Tế có thẩm quyền.Trong việc cung ứng vũ khí cho Indonesia, theo tác giả thì Henry Kissinger đã vi phạm luật pháp về vũ khí của Hoa Kỳ phải chịu tội trước toà án Hoa Kỳ.

Phản ứng của Henry Kissinger

Dư luận rất quan tâm đến phản ứng của Henry Kissinger từ ngày tác phẩm này ra đởi, nhưng cho đến ngày nay ông tuyệt nhiên không lên tiếng trả lời chánh thức về sự cáo giác này.

Tuy nhiên, trong tác phẩm Does America need a foreign policy?, Henry Kissinger đã trả lời một cách gián tiếp vấn đề này khi bàn về vai trò của Toà Án Hình Sự Quốc Tế. Ông viết: Phần đông người Hoa Kỳ rất ngạc nhiên khi biết Toà Án Hình Sự Quốc Tế về nước Nam Tư cũ được thành lập do chỉ thị của Hoa Kỳ trong năm 1993 để xét xử các phạm nhân chiến tranh, nhằm xác nhận lại quyền điều tra của các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Hoa Kỳ trước những hành vi cáo buộc là có tội ác. Việc điều tra này vô hạn định và áp dụng cho tất cả. Ông phản đối việc áp dụng nguyên tắc Hình Luật Quốc Tế việc xét xử các nhà lãnh đạo ngoại quốc trước toà án này. Ông đặt câu hỏi: Làm sao tìm ra nguyên tắc an toàn pháp luật trong thủ tục tố tụng, đặc biệt là nguyên tắc trưng dẫn bằng chứng và bảo vệ bị cáo, làm sao có thể tách rời vấn đề pháp lý ra khỏi những quyết định chính trị quốc tế.

Người ta có thể nhận ra rằng ông đã ý thức sự nguy hiểm của vấn đề mà tác giả đặt ra và cũng suy đoán là ông đang khởi đầu một cuộc biên hộ cho chính mình về những hành vi trong quá khứ.

Nhận xét:

Trước đây đã có nhiều tác phẩm phê bình về đường lối ngoại giao của Hoa Kỳ và của Henry Kissinger, nhưng đây là lần đầu tiên một hình thức cáo trạng dày công sưu tập từ những tư liệu mới được trình bày.

Qua hình thức thì đây là một công trình đáng ca ngợi của tác giả, một ký giả chuyên về điều tra (investigative journalism). Thiện chí này được tìm thấy qua nỗ lực tìm kiếm từ những nguồn tài liệu khác nhau và phức tạp.

Qua nội dung thấy được sự nghiên cứu của tác giả về lãnh vực Luật Quốc Tế, đặc biệt về các phương thức hình sự tố tụng, còn hạn chế. Tác phẩm này không phải là một cáo trạng đúng nghĩa theo hình thức luật học, đặc biệt lại càng không đúng theo phương thức hình sự tố tụng trước Toà Án Quốc Tế khi mà các kỹ thuật trưng dẫn các tài liệu thiếu khoa học và không thuyết phục. Tác giả đã không nêu các bằng chứng xuyên xuốt, thống nhất; đôi khi lầm lẫn giữa những sự kiện lịch sử, hậu quả pháp lý cũng như những phán đoán về đạo đức cá nhân của Henry Kissinger; đôi khi những lời cáo buộc chỉ dựa trên những cảm xúc trước những bất công hơn là một lời kết luận dựa trên cơ sở lập luận chặt chẽ của Hình Luật. Trong tất cả các tội danh được cáo buộc thì phần liên hệ đến chiến tranh Đông Dương có nhiều tính thuyết phục và có triển vọng thành công trước Toà Án Quốc Tế nếu các tài liệu được bổ túc đầy đủ và khoa học hơn. Trở ngại chủ yếu vẫn là tài liệu từ người trong cuộc. Hiện nay các tư liệu của Henry Kissinger đã được ký gởi tại Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ, không được khai thác. Theo di chúc của ông thì các tài liệu này được phép sử dụng sau khi ông chết năm năm. Do đó một đề án khởi tố ông hiện nay khó có cơ may thành công.

Tác phẩm này là một gương can đảm của tác giả, nó đã gây tiếng vang về mặt chính trị. Liệu người Việt Nam, những nạn nhân trực tiếp của Henry Kissinger còn sống sót có khả năng, thiện chí và nỗ lực để khởi tố thủ phạm hay không, hay chỉ tiếp tục ngậm ngùi than rằng: "con kiến mà kiện củ khoai". Ước mong sao vấn đề này sẽ được thảo luận sâu rộng hơn.
Đỗ Kim Thêm