17/11/11

Việt Nam Cộng Hòa Ra Đời Trong Hoàn Cảnh Nào? - Nguyễn Huy Hùng




Việt Nam Cộng Hòa Ra Đời Trong Hoàn Cảnh Nào? - Nguyễn Huy Hùng


QUỐC HUY VIỆT NAM CỘNG HÒA
Dấu triện (seal) của Phủ Tổng Thống thời Đệ Nhất Cộng Hoà.

Nguyễn Huy Hùng

Hàng năm cứ đến khoảng cuối tháng 10 qua đầu tháng 11 Dương Lịch là một số người đă từng hưởng nhiều ân huệ của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, lại vận động tổ chức ngày tưởng niệm để ghi nhớ công ơn ông đă thành lập nước VIỆT NAM CỘNG HOÀ tại miền Nam Việt Nam sau khi hoàn tất việc thi hành Hiệp định đình chiến do Pháp và Việt Minh ký tại Genève ngày 21-7-1954.

Nhiều Bạn Trẻ thắc mắc muốn biết hoàn cảnh nào đă đưa đẩy khiến cho ông Ngô Đình Diệm có được cơ hội thành lập nước Việt Nam Cộng Hoà theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp chủng Quốc Hoa Kỳ và lên làm Tổng Thống tại miền Nam Việt Nam, nhưng lại không có thì giờ ngồi sưu tập các tài liệu ghi chép các sự kiện lịch sử đă xẩy ra tại Việt Nam trong những năm thuộc thế kỷ 20, nên trăn trở chẳng biết phải làm sao.

Do đó, tôi xin ghi lại dưới đây một số những sự kiện trọng yếu đă xẩy ra tại Việt Nam trong những năm thuộc thế kỷ 20, và hoàn cảnh nào đă giúp cho ông Ngô Đình Diệm có thời cơ trở thành người Anh Hùng tạo dựng ra nước Việt Nam Cộng Hoà vào năm 1956 tại miền Nam Việt Nam.

Nhưng vì tuổi tác đã cao trên 80, trí nhớ cũng suy giảm do ảnh hưởng sau 13 năm chịu cảnh đọa đầy trong các trại tập trung cải tạo lao động khổ sai của chính phủ nước Cộng Hoà xă hội chủ nghiă Việt Nam sau ngày Quốc Hận 30-4-1975, toàn thể đất nước Việt Nam bị đặt dưới quyền thống trị độc tài chuyên chính độc đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nên những ghi nhận và suy luận được trình bầy có thể là chủ quan theo hiểu biết nông cạn của tôi, cũng có thể phiến diện hoặc thiếu sót, xin Quý Vị còn minh mẫn vui lòng miễn chấp và bổ túc giúp cho, tôi cám ơn vô cùng.

1. CHIẾN CUỘC TẠI ĐÔNG DƯƠNG XOAY CHIỀU, CHÍNH PHỦ PHÁP PHẢI RÚT QUÂN RA KHỎI VIỆT NAM.

Giữa năm 1949, Trung Cộng thắng thế ở Trung Hoa Lục địa, do đó tình hình chiến trận tại Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, đặc biệt là tại Bắc Việt trở nên rất sôi động. Tháng 5 năm 1949, Chính phủ Pháp phải cử Tướng Revers sang thanh sát tình hình và nghiên cứu trình kế hoạch đối phó. Sau khi công cán về nước, Tướng Revers đề nghị rút bỏ Cao Bằng (biên giới Việt Nam-Trung Hoa) để:
    1. Gom quân giữ Quốc lộ 4 từ Lạng Sơn đến Tiên Yên; 2. Củng cố bình định vùng đồng bằng Bắc Việt; 3. Lấn chiếm cô lập khu Việt Bắc của chủ lực Việt Minh gồm các tỉnh Thái Nguyên, Lào Kay, Tuyên Quang, và Yên Bái.
Chủ định thâm sâu của Pháp là tái lập Thuộc địa Đông Dương dưới hình thức mới, nên không được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Do đó Pháp e ngại Trung Cộng (chủ nhân ông mới của Trung Hoa Lục địa) xua quân can thiệp hỗ trợ cho Việt Minh Cộng sản, nên phải thu về thủ vùng đồng bằng để bảo toàn lực lượng, và tìm phương kế mới.

Kế hoạch của Tướng Revers đề nghị, được Chính phủ Pháp chấp thuận cho thi hành vào cuối năm 1949. Nhưng vì tại Đông Dương lúc đó, đang có sự bất đồng ý kiến giữa Tướng Carpentier (Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp) tại Saigon và Tướng Alexandri (Tư lệnh đoàn quân tại Bắc Việt), nên măi tới cuối tháng 8 năm 1950 mới thực hiện, mặc dù qua tin tức tình báo, chính phủ Pháp, Cao ủy Đông Dương Pignon, và Tướng Carpentier, đều biết rằng Kế hoạch Revers đă bị tiết lộ.

Phía Việt Minh, không biết bằng cách nào đã dò biết được Kế hoạch Revers, nên tướng Võ Nguyên Giáp với sự trợ giúp trang bị vũ khí đạn dược, huấn luyện quân sĩ, và cố vấn hành quân của Trung Cộng, đã ráo riết chuẩn bị mở màn thử thách khả năng chiến đấu của bộ đội Việt Minh.

Ngày 18-9-1950, các đơn vị Việt Minh được sự yểm trợ của Pháo binh và súng cao xạ bắn máy bay, đã khởi tấn công và chiếm được đồn Đông Khê, rồi bao vây cô lập Cao Bằng. Sau đó thừa thế tiếp tục khai triển mặt trận Cao Bằng-Lạng Sơn, kéo dài cho tới ngày 7-10-1950. Pháp thất bại nặng nề, phải rút bỏ Cao Bằng, Thất Khê, Na Chầm, Đồng Đăng, Lạng Sơn, và Lao Kay.

Trận đánh này đă làm tăng uy thế cho Việt Minh, rúng động tinh thần quân sĩ Pháp tại Đông Dương, cũng như các giới chính trị Pháp và Hoa Kỳ. Dân chúng Pháp bắt đầu gọi cuộc chiến tại Đông Dương là “Chiến tranh sa lầy”, các Đảng phái chính trị Pháp cấu kết với nhau làm áp lực chính trị, khiến các chính phủ Pháp thay phiên nhau sụp đổ liên tục, làm cho tình hình tại cả bên chính quốc lẫn tại Đông Dương ngày một rối rắm thêm. Để gỡ rối, Chính phủ Pháp cố gắng tìm một Tướng làm Tổng Tư lệnh mới thay thế Tướng Carpentier tại Đông Dương. Các Tướng Juin và Tướng Koenig được tham khảo, nhưng 2 ông này từ khước vì Chính phủ Pháp không thể thoả măn được những điều kiện các ông ấy đòi hỏi. Sau cùng, Tướng Jean Marie Gabriel De Lattre De Tassigny được lựa chọn. Ông này nhận lời ngay với một điều kiện duy nhất là phải cho ông ta rộng quyền chỉ huy.

Ngày 7-10-1950, Đại tướng De Lattre được đề cử làm Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Đúng 10 ngày sau, Tướng De Lattre lên đường nhậm chức, mang theo cả một Bộ Tham Mưu hùng hậu để làm trụ cột giúp ông ta hoàn thành sứ mạng lớn lao đă nhận lănh. Trong suốt 9 tháng trời ròng ră tiếp theo, ông ta đă chứng tỏ tài lănh đạo chỉ huy và hành quân táo bạo của mình, qua các trận Vĩnh Yên giữa tháng 1-1951 (chết mất người con trai duy nhất là Trung úy Bernard), trận Mạo Khê cuối tháng 3-1951, trận “Bờ Sông Đáy” cuối tháng 5-1951, và đặc biệt là kế hoạch xây dựng “Phòng tuyến Bê tông De Lattre” để bảo vệ đồng bằng Bắc Việt trong Vùng Tam Giác: Moncay, Việt Trì, Ninh Bình, và “Phòng Lũy Hải Phòng”. Tướng De Lattre đă làm cho tinh thần Quân Sĩ được phục hồi, đồng thời tạo được sự tin tưởng của Chính phủ Pháp và các Đồng minh Hoa Kỳ, Anh Cát Lợi,…

Giữa tháng 9-1951, Tướng De Lattre được Chính phủ Pháp cho đi công cán sang Hoa Kỳ xin viện trợ. Có lẽ nhờ trận Việt Minh tấn công quân Pháp tại vùng Cao Bằng, Lạng Sơn, có sự hiện của quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Việt Minh, y như trận Bắc Hàn tấn công Nam Hàn mà Mỹ và Đồng minh phải can thiệp cũng có sự hiện diện của quân Trung Cộng trong hàng ngũ quân Bắc Hàn, nên Hoa Kỳ thay đổi thái độ đối với Pháp. Nhờ thế, Tướng De Lattre đă xin được Mỹ viện trợ cho Pháp tiếp tục cuộc chiến tại Đông Dương, dưới nhiệm vụ mới là “Ngăn chặn sự bành trướng của Quốc tế Cộng sản ở vùng Đông Nam Á Châu”, mà Việt Minh là tay sai tiền phương của Liên Sô và Trung Cộng. Viện trợ chỉ được chấp thuận với một điều kiện tiên quyết kèm theo là: “Pháp phải thành thực trao trả quyền Độc Lập, Tự do, cho các Chính phủ Quốc gia không Cộng sản tại Đông Dương, và xúc tiến nhanh chóng việc thành lập, huấn luyện, và trang bị quân sự cho các Quốc gia này có đủ khả năng tự vệ, tiêu diệt Cộng sản địa phương, bảo đảm an ninh cho dân chúng phát triển kinh tế. Đặc biệt phải để cho các Quốc gia này có quyền Tự do giao thương trực tiếp với tất cả các nước Tư bản, ngoài khối Liên Hiệp Pháp, không phải qua trung gian của Pháp.”

Ngày 28-9-1951, hai ngày sau chuyến công du của Tướng De Lattre chấm dứt, chiếc tầu biển Eartham Bay của Hoa Kỳ đã từ Manilla chở tới Saigon, rất nhiều vũ khí nhẹ và đạn dược đủ loại. Đồng thời, một đoàn 30 Phóng pháo cơ B-26 do phi công Hoa Kỳ lái từ Phi Luật Tân qua, đáp xuống phi trường Cát Bi (Hải Phòng), trao cho Pháp trong âm thầm không kèn không trống. Mười hai (12) chiếc trong số phi cơ này đă được Hoa Kỳ biến cải thành loại máy bay soi sáng (Luciole), dùng để thả hoả châu soi sáng chiến trường ban đêm, trong thời gian liên tục 1 tiếng đồng hồ cho mỗi phi cơ.

Cũng nhờ thế nên ngày 1 tháng 10 năm 1951, ông Trần văn Hữu Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng Chính phủ Quốc Gia Việt Nam mới chính thức công bố việc thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) chống Cộng sản (gồm 8 Sư đoàn nhẹ trong 5 năm, riêng năm 1951 dự trù thành lập Sư đoàn 1 ở miền Nam, Sư Đoàn 2 ở miền Trung, Sư đoàn 3 ở miền Bắc, và Sư đoàn 4 ở vùng Cao Nguyên Trung phần Việt Nam). Ngày 16-10-1951 ban hành Lệnh Tổng Động Viên khoảng 15.000 thanh niên có bằng cấp từ Trung học trở lên vào học các khoá đào tạo Sĩ quan Trừ bị cấp tốc tại Thủ Đức và Nam Định. Rồi lần lần sau đó, thành lập Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN, Trường Quân Y, và các Trường Võ bị Địa phương (Ecole Militaire Régionale) đào tạo các Chuẩn úy Trung đội trưởng, ngoài số Thiếu úy Hiện dịch do Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt đã và đang đào tạo (Trường VBLQ ĐàLạt được thành lập từ năm 1948). Các Trung tâm Huấn luyện Tân binh và Hạ sĩ quan cũng lần lượt được thành lập, và hoạt động náo nhiệt để thành lập các đơn vị cấp Tiểu đoàn, Trung đoàn Bộ Binh và các đơn vị Binh chủng, Nha, Sở chuyên môn.

(Thời gian này, Tôi là Trung Úy mới mãn khóa Sỹ quan Truyền Tin tại Trường Truyền Tin Montargis bên Pháp về vào đầu tháng 7-1951, được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Mật Mă thuộc văn phòng Đổng lý Bộ Quốc Phòng do Thiếu Tá Nguyễn văn Vận làm Đổng Lý. Sau này Thiếu Tá Vận rời Bộ Quốc Phòng ra Hà Nội được thăng cấp lần lần tới Thiếu Tướng Tư lệnh Quân Khu 3 vào năm 1954)

Được sự yểm trợ của Hoa Kỳ, Quân đội Viễn chinh Pháp ồ ạt xây dựng các doanh trại và cơ sở rất lớn rộng cho các Cơ quan Chỉ huy và Đơn vị Hành chánh Tiếp vận Trung Ương tại các vùng Tân Sơn Nhứt, Gò Vấp, Bình Lợi, Cát Lái (Gia Định), Khánh Hội (Saigon), và Biên Hoà. Theo dự tính của Tướng De Lattre, các Cơ sở này phải đủ tầm vóc có thể biến thành các Cơ sở Chỉ huy và Tiếp vận cho các Lực lượng Liên Hiệp Quốc xử dụng khi cần phải đến Việt Nam để điều khiển chiến tranh ngăn cản Cộng sản Quốc tế xâm lăng các nước thuộc Đông Nam Á Châu, như họ đã đến tham gia cuộc chiến tại bán đảo Triều Tiên.

Vào tháng 12 năm 1951, Tướng De Lattre qua đời, Tướng Raoul Salan được cử thay thế làm Tổng Tư lệnh, để tiếp tục giải quyết cuộc “Chiến tranh sa lầy” không lối thoát của Pháp tại Đông Dương. Nội tình nước Pháp tiếp tục lục đục, chính phủ Queuille bị đổ vào tháng 2-1952. Tại Bắc Việt, Tướng Salan rút bỏ Hoà Bình vào cuối tháng 3-1952. Thủ tướng mới của Chính phủ Pháp là Pinay vẫn giữ chính sách cũ đối với Đông Dương. Ông Letourneau được bổ nhiệm làm Bộ trưởng các Quốc gia Liên kết, kiêm nhiệm chức Cao Ủy Đông Dương kể từ tháng 4-1952, và Tướng Salan được chỉ định làm Tổng Tư lệnh Quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Bộ trưởng Letourneau phải thường xuyên hoạt động tại chính quốc, làm gì có thời giờ chạy qua chạy lại giữa Pháp và Đông Dương, nên Tướng Salan vô hình chung có được toàn quyền quyết định y như cố Đại tướng De Lattre thuở còn sinh thời.

Sở dĩ Tướng Salan được lựa trám chỗ trống của De Lattre, vì ông ta đă từng ở Việt Nam lâu năm, tham dự nhiều trận chiến với Việt Minh từ hồi 1947, đă cộng tác mật thiết với Tướng De Lattre trước khi ông này qua đời, nên thông thạo lối đánh của Việt Minh. Ngoài ra, ông ta còn có được cái trí khôn của người Á Đông vì lấy vợ người Việt Nam, hút thuốc phiện, theo vợ đi lễ các Đền, Chùa, am tường các phong tục tập quán của các Sắc dân Đông Dương. Chiến công của Tướng Salan từ sau ngày thay thế De Lattre, chỉ là cuộc hành quân rút lui khỏi Hoà Bình trong an toàn không bị sứt mẻ, và xây dựng “Pháo lũy Na Sản” giữ được mặt trận vùng Bắc Thái (phiá Tây, Bắc Việt) vững vàng trong suốt 3 tháng (10, 11, và 12-1952). Còn tình hình toàn diện Đông Dương chẳng có gì khả quan hơn.

Qua tháng 5-1953, Tướng Navarre được cử thay thế Tướng Salan làm Tổng Tư lệnh Quân Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương. Ông này xào xáo lại các kế hoạch của các Tướng tiền nhiệm, rút tỉa các kinh nghiệm, để hệ thống hoá thành kế hoạch chiến thuật mới của mình là:
    1. Phòng thủ miền Bắc; 2. Bình định miền Nam; 3. Lập một Binh đoàn Chủ lực lưu động, để có thể đánh ở bất cứ nơi nào có sự tập trung quân của Địch (Việt Minh).
Kế hoạch được mở màn bằng cuộc hành quân “Castor” vào cuối tháng 11-1953, để hỗ trợ việc xây dựng “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ” với mục đích:
    a. Buộc Việt Minh phải chấp nhận một trận công kiên chiến, mà Pháp tin rằng họ sẽ thắng vì có ưu thế hơn về Không quân và Tiếp liệu. b. Cầm chân Chủ lực quân Việt Minh tại miền Bắc để chúng không thể tiếp sức cho miền Nam, nhờ thế Pháp sẽ bình định Liên Khu V gồm các Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên, tại miền trung tâm của Trung Việt Nam một cách dễ dàng. c. Dùng Điện Biên Phủ làm “Căn cứ Bàn đạp” đánh vào Hậu tuyến Việt Bắc, nếu Việt Minh di quân khỏi nơi này để tấn công vùng đồng bằng sông Hồng. Tiếc thay, Bộ tham mưu của Tướng Navarre ước tính sai lệch quá nhiều. Việt Minh đă tập trung được quanh Điện Biên Phủ, một lực lượng nhiều tới 100,000 quân. Với sự yểm trợ của Trung Cộng, Việt Minh còn kéo được cả súng Đại pháo qua đỉnh núi, đào hầm bố trí ngay trên sườn núi nhìn thẳng xuống thung lũng Điện Biên Phủ. Thế mà Pháp cho rằng, Việt Minh chỉ có thể tập trung quanh Điện Biên Phủ khoảng 20,000 quân là tối đa, và lòng chảo Điện Biên Phủ không thể bị uy hiếp bằng Pháo binh, vì các Đại pháo chỉ có thể bố trí phiá bên kia các dẫy núi quanh lòng chảo, xa quá tầm tác xạ của súng.
Cuối tháng 11-1953, tình hình chiến sự bỗng chuyển biến đột ngột. Bốn (4) Sư đoàn Việt Minh kéo lên áp lực miền Bắc Thái (Tây Bắc, Bắc Việt). Qua tháng 12-1953, Tướng Navarre phải cho lệnh rút quân bỏ Lai Châu và toàn vùng Bắc Thái, để tập trung về Điện Biên Phủ, đồng thời mở nhiều cuộc hành quân ở vùng thượng lưu sông MêKông để củng cố phòng thủ miền Bắc Lào (nước Ai Lao).

Đầu năm 1954, tình hình lắng dịu tại khắp các chiến trường phụ trên toàn cõi Đông Dương. Riêng tại Điện Biên Phủ tình hình coi như đang có nhiều điều thuận lợi cho quân Pháp. Nhưng, vào trung tuần tháng 2-1954, Hội nghị Bá Linh (Berlin, Đức) được mở ra để thảo luận về việc thành lập một Hội nghị chính thức tại Genève để tìm giải pháp cho vấn đề đình chiến tại Đông Dương, đă khiến tình hình chiến sự trở nên bất lợi cho quân Pháp, và làm cho Tướng Navarre bị ngỡ ngàng.

Đầu tháng 3-1954, Việt Minh rút Sư đoàn 308 đang uy hiếp Luang-Prabang (Lào), đem về tăng cường bao vây Điện Biên Phủ. Đến ngày 13-3-1954, Việt Minh mở đầu các cuộc tấn công trên khắp các mặt trận Đông Dương (kể cả Điện Biên Phủ), nhằm mục đích phô trương khả năng quân sự mới để áp đảo tinh thần quân Liên Hiệp Pháp và các Quốc gia Liên kết Đông Dương, đồng thời tạo điều kiện thượng phong tại Hội nghị Genève. Quân Pháp bị cầm chân tại tất cả mọi nơi, nên không còn quân số tiếp ứng cho nhau, nhất là cho “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ”.

Đến cuối tháng 4-1954, Bộ Tư lệnh Pháp cho mở cuộc hành quân “Atlante” đánh vào Quân khu V của Việt Minh tại trung Việt, nhưng chẳng đem lại kết quả gì, nếu không muốn nói là uổng công vô ích.

Ngày 7 tháng 5-1954, sau 55 ngày đêm tự lực cầm cự, “Tập đoàn Cứ điểm Điện Biên Phủ” đă phải xin đầu hàng vô điều kiện. Dư luận Pháp rất hoang mang, chia rẽ, tranh cãi trầm trọng, khiến Chính phủ Pháp phải đưa Tướng Paul Ely Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Pháp sang Đông Dương thay thế Tướng Navarre, với quyền hạn rộng răi là Cao Ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh tại Đông Dương, như đă dành cho Tướng De Lattre hồi trước. Nhưng, Tướng Ely cũng chẳng làm được gì hơn, là tiếp tục nhận lãnh những thất bại chua cay, trong âm mưu tái lập thuộc địa lỗi thời của Pháp tại Đông Dương sau Thế chiến II.

Mấy tuần lễ sau vụ Pháp thất trận Điện Biên Phủ, chiến cuộc Đông Dương được giải quyết ngă ngũ, chấm dứt bằng giải pháp chính trị tại Hội nghị Genève với một Hiệp Định đình chiến, ký kết vào lúc 01:00 giờ ngày 21 tháng 7 năm 1954 tại Genève giữa Pháp và Việt Minh. Đại diện Hoa Kỳ và Đại diện Chính phủ Quốc gia Việt Nam khước từ không ký vào bản Hiệp định. Theo Hiệp định này, nước Việt Nam bị phân làm 2 phần Nam, Bắc. Vĩ tuyến 17 và dòng sông Bến Hải được dùng làm ranh giới giữa 2 miền. Từ giữa lòng con sông trở lên phiá Bắc thuộc quyền kiểm soát cai trị của Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh cầm đầu. Phần từ giữa lòng con sông trở xuống phiá Nam thuộc trách nhiệm của Chính quyền Pháp và Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Quốc trưởng Bảo Đại lãnh đạo.

Thi hành Hiệp định Genève, Bộ Tư lệnh quân Viễn chinh Pháp của Tướng Ely phối hợp cùng Chính phủ Quốc gia Việt Nam do ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng, tổ chức một cuộc di tản vĩ đại ngoạn mục trong vòng 300 ngày, cho hơn một triệu Dân Quân Cán chính không thích sống dưới Chế độ Cộng sản rời miền Bắc vào Nam tái lập nghiệp, và hàng chục ngàn Cán Binh Cộng sản từ miền Nam buộc phải tập kết ra Bắc. Thời hạn triệt thoái quân Pháp và quân Quốc gia ra khỏi Bắc Việt theo lối cuốn chiếu quy định như sau: phải ra hết khỏi Hà Nội trong thời hạn 80 ngày kể từ ngày ký Hiệp Định Genève, do đó ngày chót được ấn định cho Hà Nội là ngày 11-10-1954; 100 ngày cho Hải Dương do đó ngày chót được ấn định là ngày 1-11-1954; và 300 ngày cho Hải Phòng do đó ngày chót được ấn định là ngày 19-5-1955.

2. THỜI CƠ GIÚP CHO QUỐC GIA VIỆT NAM CHÍNH THỨC CÓ ĐƯỢC CHỦ QUYỀN ĐỘC LẬP TRONG MỌI LÃNH VỰC TỔ CHỨC QUẢN TRỊ HÀNH CHÁNH, CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO ĐỐI NỘI ĐỐI NGOẠI, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ QUỐC PHÒNG TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM.

Từ ngày Cựu Hoàng Bảo Đại nhận lănh sự ủy nhiệm của các Đảng phái chính trị không theo Cộng sản tại Việt Nam, đứng ra thương thuyết và ký với Pháp Hiệp Ước sơ bộ tại Vịnh Hạ Long để giành lại quyền độc lập cho nước Việt Nam thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam vào ngày 5-6-1948, rồi đến trưa ngày 8 tháng 3 năm 1949 tại Paris có thêm THOẢ ƯỚC ÉLYSÉE giữa Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và Quốc trưởng Bảo Đại, vào ngày này, hai người trao đổi văn thư, theo đó “Pháp long trọng công nhận” một nước Việt Nam độc lập và dân chúng có quyền tự do quyết định sự thống nhất lãnh thổ của mình, theo tinh thần Hiệp Ước Hạ Long, kèm theo một phụ bản các điều thoả thuận với PIGNON, cho đến ngày ký Hiệp định Đình chiến tại Genève 20-7-1954, đă có tới 7 chính phủ thay nhau điều hành Quốc gia Việt Nam:
    1. Nguyễn văn Xuân, từ 2-6-1948 đến 30-6-1949. 2. Bảo Đại, từ 1-7-1949 đến 20-1-1950, 3. Nguyễn Phan Long, từ 21-1-1950 đến 5-5-1950, 4. Trần văn Hữu, từ 6-5-1950 đến 25-5-1952, 5. Nguyễn văn Tâm, từ 26-5-1952 đến 15-1-1954, 6. Bửu Lộc, từ 16-1-1954 đến 6-7-1954, 7. Ngô Đình Diệm từ 7-7-1954 tới 23-10-1955.
Thư ngày 8-3-1949 của Auriol gửi Bảo Đại gồm 7 mục chính:
    1. Việt Nam thống nhất (Unité du Vietnam) 2. Vấn đề Ngoại giao (Question diplomatique) 3. Vấn đề Quân sự (Question militaire) Việt Nam sẽ có một Quân đội riêng để duy trì trật tự, an ninh nội địa và bảo vệ Triều đại (la defense de l’Empire). Trong trường hợp tự vệ, có thể được các lực lượng Liên Hiệp Pháp yểm trợ (appuyé par les forces de l’Union francaise). Quân đội VN cũng tham dự vào cuộc bảo vệ biên cương của toàn Khối Liên Hiệp Pháp. 4. Vấn đề chủ quyền trong nước (Souveraineté interne). 5. Vấn đề tư pháp 6. Vấn đề văn hoá 7. Vấn đề kinh tế và tài chánh.
(Ghi chú: Đoạn văn chữ nghiêng nét đậm trên đây là trích từ trang 119 trong cuốn VIỆT NAM NIÊN BIỂU 1939 (Tập B :1947-1954) của Chính Đạo do nhà phát hành Văn Hoá in năm 1997 tại Hoa Kỳ. Đặc biệt Tôi có thay một chữ trong mục 3. ….., an ninh nội địa và bảo vệ Triều đại (la defense de l’Empire). …. Thay cho chữ .. bảo vệ đế quốc (la defense de l’Empire)….. như trong nguyên bản, vì Tôi nghĩ Việt Nam chưa bao giờ là Đế quốc, thời trước 1945, Pháp gọi là L’Empire d’Annam tức là Vương quốc Annam do Bảo Đại làm vua (Empereur.)

Đến ngày 28-4-1956, Bộ Tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương giải tán, tất cả các Cơ sở và Căn cứ trước đây do Pháp xây dựng chiếm đóng, đều trao hết cho Chính phủ và Quân đội Quốc gia Việt Nam thừa hưởng. Dinh Norodom tọa lạc tại trung tâm Thủ đô Saigon trước kia dành cho Cao Ủy Pháp tại Đông Dương, nay là trụ sở của Chính phủ Quốc gia Việt Nam đổi tên thành Dinh Độc Lập. Camp Chanson to lớn bên cạnh phi trường Tân Sơn Nhất trước kia là nơi làm việc của Bộ Tư lệnh quân viễn chinh pháp tại Đông Dương, nay thuộc quyền xử dụng của Bộ Tổng Tham Mưu (Bộ TTM) Quân đội Quốc gia Việt Nam (QĐQGVN) và đổi tên là Trại Trần Hưng Đạo. Hospital Rocques rộng lớn của đoàn quân Viễn chinh Pháp xây dựng tại Gò Vấp sát bên Bộ TTM và phi trường Tân Sơn Nhất, nay thuộc quyền QĐQGVN và đổi tên là Tổng Y Viện Cộng hoà. (Không biết cái tên Roques Tôi nhớ có đúng không, bạn nào biết là sai xin vui lòng chỉnh giùm, Tôi vô cùng cám ơn). Còn rất nhiều Doanh trại, Căn cứ, và Cơ sở khác tại Saigon và tại các Tỉnh trên toàn lănh thổ miền Nam Vĩ tuyến 17 được Pháp trao lại cho Chính quyền Quốc gia miền Nam Việt Nam, nhưng Tôi thấy không cần liệt kê hết ra đây.

Vào tháng 8-1956, Chính phủ Pháp loan báo việc đề cử ông Henri Hoppenot làm Cao Ủy Đông Dương. Nhưng, ông Ngô Đình Diệm đang lãnh đạo Chính quyền Quốc gia Việt Nam với chức vị tự phong là Tổng Thống từ ngày 26-10-1955 thay thế Quốc trưởng Bảo Đại bị truất phế từ ba ngày trước đó 23-10-1955, đã dựa theo các điều khoản của Hiệp định Genève không chấp nhận, nên Chính phủ Pháp phải đổi lại chức vụ là Đại sứ Pháp tại Việt Nam.

Đến ngày 26-10-1956, lễ ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà (theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp chủng Quốc Hoa Kỳ, do Quốc Hội Lập Hiến được bầu ra vào ngày 4 tháng 3 năm 1956 biên soạn và biểu quyết chuẩp thuận) mới được tổ chức rất trang trọng tại Đại lộ Trần Hưng Đạo, Saigon. Buổi lễ này cũng đồng thời là Lễ Tuyên Thệ chính thức nhậm chức Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hoà đẩu tiên tại miền Nam Việt Nam của ông Ngô Đình Diệm, trước toàn dân và Ngoại giao đoàn quốc tế đă có mặt tại Saigon từ thời Quốc gia Việt Nam còn thuộc quyền lãnh đạo của Quốc trưởng Bảo Đại. (Quốc Hội Lập Hiến gồm 123 Dân Biểu thuộc các thành phần sau: Phong trào Cách mạng Quốc gia 47 ghế, độc lập không đảng phái nào 39 ghế, Tập đoàn Công dân 18 ghế, Phong trào Tự do 11 ghế, và 5 đảng phái chia nhau 8 ghế.)

Sau khi quân Pháp rút ra khỏi miền Nam Việt Nam, ảnh hưởng Pháp tan biến dần để thay thế bởi ảnh hưởng Hoa Kỳ. Bởi vì, ngay từ khi mở Hội nghị Bá Linh bàn thảo việc thành lập Hội nghị Genève giải quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương, Hoa Kỳ đă ngầm vận động thúc đẩy Quốc trưởng Bảo Đại mời ông Ngô Đình Diệm (đang ở Mỹ) về làm Thủ Tướng, thay thế Thủ tướng Bửu Lộc được coi là thân Pháp.

3. THỜI CUỘC BIẾN ĐỔI ĐÃ TẠO CƠ HỘI CHO THỦ TƯỚNG NGÔ ĐÌNH DIỆM GIÀNH ĐƯỢC QUYỀN LÃNH ĐẠO QUỐC GIA VIỆT NAM, THAY THẾ QUỐC TRƯỞNG BẢO ĐẠI ĐÃ RỜI VIỆT NAM SANG PHÁP TỪ NGÀY 10-4-1954 SỐNG TẠI BIỆT THỰ RIÊNG Ở CANNES, ĐỂ CHỮA BỆNH SÁN GAN VÀ VẬN ĐỘNG QUỐC TẾ GIÚP GIẢI QUYẾT CUỘC CHIẾN CHỐNG CỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM.

Tại Saigon trong khoảng những ngày cuối tháng 5 sang đầu tháng 6-1954, các hãng thông tấn quốc tế và quốc nội loan truyền tin đồn đoán là ông Ngô Đình Diệm sẽ làm Thủ Tướng thay thế Thủ Tướng Bửu Lộc. Nhưng măi đến ngày 16-6-1954, Quốc Trưởng Bảo Đại, từ tư dinh tại thành phố Cannes bên Pháp, mới chính thức công bố quyết định cử ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng với toàn quyền hành động (tức là mọi quyết định quan trọng liên quan đến quốc gia không cần phải thỉnh ý Quốc Trưởng trước như các Thủ Tướng tiền nhiệm).

Ngày 25-6-1954 ông Ngô Đình Diệm từ Pháp về tới phi trường Tân Sơn Nhất Saigon, được sự tiếp đón theo nghi lễ ngoại giao tại phòng Khách Danh Dự của phi trường, gồm một số nhân viên đại diện các Bộ trong Chính phủ Bửu Lộc, một số Sĩ quan cấp Tá Việt và Pháp thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ TTM/QĐQGVN (trong đó có Tôi đang là Thiếu Tá Chánh Sự vụ Sở Mật Mã trực thuộc văn phòng Tổng Tham Mưu Trưởng, lúc đó Thiếu Tướng Nguyễn văn Hinh làm Tổng Tham Mưu Trưởng và Trung Tá Trần văn Minh làm Tham mưu trưởng), cùng một số thân quyến thuộc dòng họ Ngô-Đình và Nhân sĩ thân hữu của gia đình ông Ngô Đình Diệm ở trong nước.

Những ngày tiếp theo, ông Diệm tiếp xúc các nhân sĩ để thành lập chính phủ, mãi tới ngày 7-7-1954 mới chính thức trình diện chính phủ và bắt đầu tham chánh. Thành phần chính phủ gồm có:
    - Ngô Đình Diệm, Thủ Tướng kiêm Nội Vụ và Quốc Phòng, - Trần Văn Chương, Quốc Vụ Khanh, - Trần Văn Đỗ, Tổng Trưởng Ngoại Giao, - Trần Văn Của, Tổng Trưởng Tài Chánh và Kinh Tế, - Nguyễn Tăng Nguyên, Tổng Trưởng Lao Động và Thanh Niên, - Trần văn Bạch, Tổng Trưởng Công Chính, - Phạm Hữu Chương, Tổng Trưởng Y Tế và Xă Hội, - Phan Khắc Sửu, Tổng Trưởng Canh Nông, - Nguyễn Dương Đôn, Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục, - Trần Chánh Thành, Bộ trưởng Phủ Thủ Tướng, - Lê Quang Luật, Thông Tin, - Phạm Duy Khiêm, Công vụ Phủ Thủ Tướng, - Nguyễn Ngọc Thơ, Nội Vụ, - Lê Ngọc Chấn, Quốc Phòng, - Hồ Thông Minh, Thứ Trưởng Quốc Phòng, - Bùi Văn Thinh, Tư Pháp, - Nguyễn Văn Thoại, Kinh Tế, - Trần Hữu Phương, Tài Chánh.
Nhưng chỉ ít ngày sau, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bắt đầu gặp nhiều khó khăn về mọi mặt đối nội cũng như đối ngoại. Chẳng hạn:

1. Đại diện Chính phủ Quốc gia Việt Nam không ký trên Hiệp định Genève, nhưng vẫn phải chấp nhận và cộng tác với Bộ Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương thi hành, đặc biệt phải chấp nhận cho các cơ sở kiểm soát đình chiến do Ấn Độ (Trung Lập) làm Chủ tịch, với các thành viên Ba Lan (Cộng sản) và Canada (thuộc Thế giới Tự Do Tư Bản) đặt cơ sở hoạt động tại nhiều nơi trên lãnh thổ miền Nam, ngay cả tại giữa Thủ Đô Saigon. Trong các cơ sở kiểm soát đình chiến này có cả sự hiện diện của những người đại diện của Việt Cộng.

2. Phải vận động nhờ Chính quyền Pháp tại Đông Dương và chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ phương tiện và ngân khoản để di tản cả triệu người (Dân, Quân, Cán chính) không thích sống dưới sự cai trị của Chính quyền Việt Cộng tại miền Bắc Vĩ tuyến 17, di cư vào miền Nam.

3. Tổ chức tiếp đón cứu trợ ban đầu, tái định cư, và tạo công ăn việc làm, ổn định đời sống cho những người này. Vì họ đă phải bỏ tất cả của cải đất đai hương hỏa của Tổ tiên Ông Cha tại miền Bắc, ra đi vào miền Nam với 2 bàn tay trắng.

4. Hợp nhất các Lực lượng Võ trang Giáo phái vào hàng ngũ Quân đội Quốc gia Việt Nam, để tiêu hủy nạn “phe phái hùng cứ địa phương” do Pháp tạo dựng lên trước đây, với mục đích Thực dân thâm độc “chia để trị”.

5. Điều chỉnh cải tiến hệ thống hành chánh, để chấm dứt tệ nạn “Xứ Quân, Vua một cõi” thao túng áp bức quần chúng bằng quy luật “Phép Vua thua Lệ Làng”, hậu quả dư âm Quan lại của thời Pháp còn vương rớt lại, tại các tỉnh và ngay cả tại các Quận hành chánh giữa Saigon Chợ Lớn.

6. Loại bỏ các tổ chức gieo rắc tệ đoan xã hội (khu bài bạc, các ổ chứa gái mãi dâm công khai hoạt động có nộp thuế) do các tay Chính trị hoạt đầu, Doanh gia bất chính, lợi dụng nước đục thả câu, với sự bảo trợ khích lệ của Thực dân Pháp đă tổ chức kinh doanh từ nhiều năm qua.

7. Đặc biệt là phải đề ra phong trào chống Cộng, với một Chính sách dựa theo Chủ thuyết Nhân bản có thể bẻ gẫy được Chủ thuyết Cộng sản, để làm kim chỉ Nam hướng dẫn quần chúng hăng say tham gia công cuộc tố cáo và loại trừ các hoạt động của cán bộ Cộng sản nằm vùng tại miền Nam. Để dân được sống an toàn tại khắp mọi nơi, an tâm tham gia xây dựng phát triển Kinh tế phồn vinh, và hưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc trong thanh bình.

Vì thế mới có Chủ thuyết NHÂN VỊ, Đảng Cần Lao, và PHONG TRÀO CÁCH MẠNG QUỐC GIA ra đời, hoạt động thường xuyên trong mọi tổ chức hành chánh, quân đội, và các cơ sở xã hội khác trên đất liền cũng như trên các hải đảo thuộc miền Nam Việt Nam từ Vĩ tuyến 17 trở xuống.

Mọi người sống tại miền Nam Việt Nam đều biết và cũng đã từng phải tham gia, tùy theo vị trí hoàn cảnh riêng của mỗi cá nhân và gia đình. (Thời gian đó, Tôi là Thiếu Tá Trưởng Phòng Mật Mă Trung Ương thuộc Bộ Chỉ huy Viễn Thông tại Bộ Tổng Tham Mưu QĐQGVN, được tập thể chiến hữu thuộc các đơn vị Truyền Tin tại Saigon bầu làm Chủ tịch Phong trào Cách Mạng Quốc gia của Binh chủng Truyền Tin).

Phong trào này nhằm mục đích đánh bóng lãnh tụ Ngô Đình Diệm, chỉ trích tinh thần bạc nhược của Quốc trưởng Bảo Đại trong việc điều hành Quốc gia, để tiến tới việc tổ chức cuộc “Trưng cầu Dân ý truất phế Bảo Đại” vào ngày 23 tháng 10 năm 1955, và ủy nhiệm cho ông Ngô Đình Diệm thành lập nước VIỆT NAM CỘNG HOÀ theo khuôn mẫu Tổng Thống Chế của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ vào ngày 26-10-1956.

Suốt trong thời gian vận động tổ chức cuộc TRƯNG CẦU DÂN Ý vào ngày 23-10-1955, trên các phương tiện truyền thông của Chính phủ thường xuyên phổ biến bài hát thúc đẩy mọi người tích cực tham gia đi bầu rất hay. Nhưng rất tiếc Tôi chỉ còn nhớ một số câu tiêu biểu khó quên chứ không nhớ trọn bài:
    “Hai ba tháng mười là ngày trưng cầu dân ý, Hai ba tháng mười là ngày phá tan ngai vàng, Đứng lên toàn quốc, viết trang sử mới, ……..(không nhớ……”
Và kể từ sau ngày VIỆT NAM CỘNG HOÀ ra đời 26-10-1956, nghi thức chào cờ chính thức được quy định là sau khi hát bài Quốc Ca “Tiếng gọi công dân” thì phải hát bài SUY TÔN NGÔ TỔNG THỐNG. Bài hát này do nhạc sĩ Nguyễn Ngọc Bích sáng tác (ông đã qua đời vào năm 2001):



---oo0oo---

Ai bao năm từng lê gót nơi quê người
Cứu đất nước thề tranh đấu cho tự do
Người cương quyết chống cộng
Bài phong kiến bốc lột
Diệt thực dân đang giắt reo tàn phá

Bao công lao hồn sông núi ghi muôn đời
Gương hy sinh ngàn muôn tiếng không hề phai
Toàn dân quyết kết đoàn cùng chung sức với người
Thề đồng tâm say đắp cho ngày mai

Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Xin thượng đế ban phước lành cho người

Toàn dân Việt Nam nhớ ơn Ngô Tổng Thống
Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm
Toàn dân Việt Nam quyết theo Ngô Tổng Thống
Chung đắp say nền thống nhất sơn hà

Download nhạc xin bấm vào: Suy Tôn Ngô Tổng Thống

Nguyễn Huy Hùng (K1)
Cựu Đại Tá Quân lực Việt Nam Cộng Hoà,
Phụ tá Tổng cục trưởng Chiến tranh Chính trị kiêm Chủ nhiệm Nhật báo Tiền Tuyến,
Cựu tù nhân chính trị 13 năm lao động khổ sai trong các trại tập trung cải tạo của chính quyền Cộng hoà xă hội chủ nghiă Việt Nam sau ngày Quốc hận 30-4-1975.

Các tài liệu tham khảo:
1. (Quân sử 4) QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ TRONG GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH 1946-1955. Do Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu biên soạn và phát hành, sách được in tại cơ sở xuất bản Đại Nam năm 1972 trụ sở Taiwan Republic of China, và được ông Đỗ Kinh Lâm tự Đỗ Ngọc Tùng (cựu sinh viên sĩ quan Khoá 4 Lý Thường Kiệt, Trường Võ bị Quốc gia Việt Nam) Giám đốc nhà xuất bản Đại Nam sao in lại và phát hành vào năm 1983 tại thành phố Glendale California Hoa Kỳ.

2. THÀNH TÍCH SÁU NĂM HOẠT ĐỘNG CỦA CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG HOÀ ấn hành năm 1960 tại Saigon, và được ông Hồ Đắc Huân (cựu sinh viên sĩ quan Khoá 2 Hiện dịch Nha Trang) sao in lại tại Khu Little Saigon Nam California Hoa Kỳ vào tháng 7-2007 để gửi tặng riêng các thân hữu tùy nghi ủng hộ giải quyết tổn phí ấn loát chứ không in với mục đích thương mại. Ai muốn có sách có thể liên lạc với ông Huân qua điện thoại số (714) 725 5136 hoặc địa chỉ gửi thư:
HỒ ĐẮC HUÂN
    P.O. BOX 1711 Westminster, CA92684
3. VIỆT NAM NIÊN BIỂU 1939-1975 (Tập B: 1947-1954) của Chánh Đạo do nhà xuất bản Văn Hoá in và phát hành tại Hoa Kỳ năm 1997.

4. VIỆT NAM NIÊN BIỂU Tập III NHÂN VẬT CHÍ (liệt kê gần 900 tác nhân lịch sử cận đại, từ 1848 tới 1975) của Chánh Đạo do nhà xuất bản Văn Hoá in và phát hành tại Hoa Kỳ vào năm 1997

Lương cả năm không bằng tiền phong bì ngày 20.11?

Thứ Tư, 16.11.2011

Sắp đến 20.11, chỉ cần nghe phụ huynh xì xào với nhau mua gì, bỏ phong bì bao nhiêu, đã thấy không khí khẩn trương của ngày Nhà giáo Việt Nam.
Tôi có người bạn thân, chị cô đang làm trợ giảng cho một lớp mầm non trường Quốc tế. Sắp đến ngày sinh em bé, bác sĩ siêu âm cho biết khoảng sau hoặc trước 20-11 sẽ sinh làm chị tỏ ra tiếc nuối: “Nếu sinh sau 20-11 thì tốt!” .Cả năm, nhà giáo mới có một ngày. Chị cho biết, dạy ở trường Quốc tế, nên mĩ phẩm, nước hoa, quần áo hàng hiệu không phải bàn. “Còn phong bì ít nhất cũng 500. Đấy là bét nhất đấy!”
Đã thành lệ, trước 20-11 nửa tháng, chị Thủy có con trai đang học ở trường Tiểu học X đã phải lo sốt vó, vội gọi và gặp mấy bà bạn thống nhất xem lần này đi cô bao nhiêu. Năm nay trượt giá. Nếu không thống nhất, con mình đi ít hơn thì lại ê mặt.
“Con còn nhỏ thì cha mẹ lo ngược xuôi bó hoa, hộp quà tươm tất cho cô giáo của con. Khi con lớn lại lo chuyện con xin tiền”- Một phụ huynh có con đang học một trường cấp 3 ở Hà Nội cho hay.
Chị cho biết thêm. Lớp con chị có quỹ lớp chung để cả lớp tặng hoa, tặng quà cho cô thầy. Nhưng để cảm ơn cô hơn nữa, các con còn xin thêm tiền để đi riêng theo nhóm. Nếu cần “cảm ơn đặc biệt”, có khi phải đi cá nhân.
Việc tặng hoa nhớ ơn thầy cô trong ngày 20.11 mang ý nghĩa đẹp. Tuy nhiên, trong thời đại này, việc làm đó đang bị biến tướng.
Việc tặng hoa nhớ ơn thầy cô trong ngày 20.11 mang ý nghĩa đẹp. Tuy nhiên, hiện nay, việc làm đó đang bị biến tướng.
Hoa trong ngày 20.11 đắt đỏ. Một bó dăm bảy bông đã vài trăm. Nhưng quan trọng nhất là phải “hoa hồng”. Các con hay cha mẹ có đi đến nhà thầy cô thì bó hoa, hộp bánh cũng chỉ làm hình thức. Hoa quả, bánh trái, nhà các cô thiếu gì, đi phong bì, ghi rõ tên tuổi, cho xuống đáy túi, người ta mới nhớ đến mình.
Tưởng là chỉ có học trò các cấp dưới mới sốt vó đến ngày 20.11, sinh viên trước ngày này nhiều người đã phải cắt bớt tiền bố mẹ gửi để lo vụ biếu xén. Nhất là những sinh viên học lại, thi lại, nợ môn mà muốn qua nhẹ nhàng đây là cơ hội để gây ấn tượng. Hùng- nam sinh viên khoa Xây dựng đã đi thực tập, công việc trơn tru, chỉ còn nợ mấy môn lý luận nói rất ghét việc đưa phong bì. Nhưng tâm lý ai cũng muốn ổn định công việc. “Thôi thì đành bớt chút thời gian đến “thăm hỏi” thầy cô".
“Muốn sang thì bắc cầu Kiều, muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”- câu ca dao xưa giờ đây đang được xã hội hiểu sai nghĩa của từ “yêu”. Yêu lấy thầy, bây giờ không phải là yêu bằng tình cảm tinh thần kính trọng, nhớ ơn thầy cô nữa mà tình yêu ấy đang được đo đếm bằng mức dày của chiếc phong bì, giá trị của túi quà mà học trò, phụ huynh xách đến.
Cô giáo dạy toán toán Trần Thị Bích, Trường THPT Kim Anh (huyện Sóc Sơn, Hà Nội)- một trong hàng trăm nhà giáo tiến tiến được ngành giáo dục Hà Nội lựa chọn tham dự lễ tuyên dương khen thưởng các điển hình tiên tiến, nhà giáo mẫu mực tiêu biểu ngành giáo dục Thủ đô năm 2011 tổ chức sáng 15/11 vừa qua được nhà trường, phụ huynh, học sinh yêu quý, bởi sự chân thành. 23 năm qua,  cô giáo tận tâm này chưa bao giờ biết đến khái niệm “phong bì”.
Xã hội vẫn còn những nhà giáo liêm khiết như cô Bích. Nhưng xã hội vẫn còn những “con sâu”, thích quà cáp, thích “phong bì” để giả quyết mọi chuyện khó nói. Do đó hiển nhiên, gần đến ngày 20-11, phụ huynh lại thở dài lo lắng về  khoản tặng quà cho thầy cô của con.
                                                                                                                                                                                                                       Thúy Hằng

http://www.baomoi.com/Home/GiaoDuc/laodong.vn/Luong-ca-nam-khong-bang-tien-phong-bi-ngay-2011/7368409.epi

SỐNG _ Phan Bội Châu

Phan Bội Châu

SỐNG
"Sống tủi làm chi đứng chật trời
Sống nhìn thế giới hổ chăng ai
Sống làm nô lệ cho người khiến
Sống chịu ngu si để chúng cười
Sống tưởng công danh, không tưởng nước
Sống lo phú quý chẳng lo đời,
Sống mà như thế đừng nên sống!
Sống tủi làm chi đứng chật trời?


Phan Bội Châu

Di chúc của Vua Trần Nhân Tôn

Di chúc của Vua Trần Nhân Tôn
"Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nêncái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa.

Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới quy ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:


"Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác".

Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu".


Di chúc của Vua Trần Nhân Tôn

“LÊ MÁY CHÉM ĐI KHẮP MIỀN NAM…”?

Trần Kỳ Trung
Trong buổi truyền hình trực tiếp của VTV về nhạc sỹ Văn Ký tối thứ 7 ( ngày 13/11/2011) vừa rồi, khi giới thiệu về hoàn cảnh ra đời của bài hát “bài ca hy vọng” của nhạc sỹ Văn Ký, cô MC cho biết, thời điểm mà bài hát này ra đời là lúc phong trào cách mạng ở miền Nam bị đàn áp rất khốc liệt, Mỹ – ngụy “ …lê máy chém đi khắp miền nam giết hại các chiến sỹcộng sản, người dân yêu nước”.
Theo tôi biết, khi miền nam được giải phóng chỉ có một máy chém nặng cả tấn để ở nhà lao Chí Hòa (Sài Gòn), thực chất mang tính chất dọa dẫm, biểu thị quyền lực, luật pháp của một chế độ chứ nó không hề dùng để chặt đầu người. Tôi được biết, dưới chế độ của ông Ngô Đình Diệm, duy nhất có một lần dùng máy chém để chém đầu ông Hoàng Lệ Kha, một nhân sỹ yêu nước ở Tây Ninh ( xin lỗi nếu tôi nhớ nhầm họ tên ông này, vì tôi nghe chuyện này lâu lắm rồi, qua một nhà sử học nổi tiếng). Về sau, thấy dã man, ông Ngô Đình Diệm yêu cầu không sử dụng biện pháp tử hình này nữa.
Lịch sử cần tôn trọng sự thật. Bây giờ nhiều sự thật đã sáng tỏ và đang sáng tỏ, không thể tô hồng hay bóp méo, xuyên tạc .
Lòng dân chỉ hòa hợp, đoàn kết khi mọi hiểu lầm qua đi, mọi khúc mắc của lịch sử được giải đáp, những điều không đúng được sửa sai.
“ …Lê máy chém đi khắp miền nam…” phải khẳng định, điều này trước năm 1975 ở miền nam là không có!
Đã không có thì không nên nhắc lại.
Nhắc lại là sự xuyên tạc, cố chấp, không thật lòng.
Nên không ?

Một cuộc thuyết giảng cho trí thức –Vụ cắt cáp tàu Bình Minh 2: “Yêu con cho đòn cho vọt”

Người Quan Sát
BVN:Xin hãy đọc bài này để chiêm nghiệm một thực tế là khoảng cách quá chênh lệch về nhân cách (bao hàm cả bản lĩnh và tri thức) giữa người làm chính trị và người trí thức chân chính ở nước ta hiện nay. Cũng xin hãy đọc bài này để thấy rằng trong dòng máu Việt 4000 năm vốn có chứa sẵn truyền thống quật cường là một sự thật trăm phần trăm. Dù người ta có muốn nhuộm đen nó, dù người ta có dùng một đám… không biết gọi là gì đành xin mượn lời Nguyễn Du “đầu… mặt… ào ào như sôi” để đạp vào mặt người biểu tình yêu nước, để xuống tay đánh đập, lôi, kéo, khiêng họ vào đồn công an hoặc vào nhà giam, thậm chí đánh ngất cả những đứa con gia đình nền nếp như anh Nguyễn Lân Thắng – cháu của GS Nguyễn Lân,… thì điều chắc chắn là dòng thác yêu nước cuồn cuộn trong lòng dân tộc ta cuối cùng vẫn trở thành thác lũ cuốn phăng tất cả mọi thứ rác rưởi hôi thối trên đó mọi thế lực bạo tàn cướp nước và bán nước đang bấu víu nhằm chống lại dân tộc Việt Nam. Chân lý ấy được Cụ Hồ nói ra từ hơn 70 năm trước là một chân lý không làm sao thay đổi được. Dù có là Đảng Trời đi nữa, không thay đổi là tự đánh mất mình.
Chiều thứ hai 14/11/2011, ông Nguyễn Duy Chiến, Phó chủ nhiệm Ủy ban biên giới quốc gia của Bộ Ngoại giaoViệt Nam (tôi nhấn mạnh: của Việt Nam) được mời đến một trường đại học lớn ở Hà Nội báo cáo về tình hình biên giới.
Nhà trường thông báo cho các thầy cô đến dự.
Ban tổ chức nghĩ rằng, các thầy cô bận rộn, vả lại đây là vấn đề đại sự quốc gia đã có Đảng và Chính phủ lo, chắc cũng không mấy người quan tâm, cho nên cái giảng đường 432 chỗ ngồi đã được ngăn bằng một tấm vách ngăn di động, chỉ còn chừa lại chừng 200 chỗ ngồi để giảng đường đỡ trống trải.
Không dè chưa đến giờ hẹn mà giảng đường đã chật cứng, bộ phận tổ chức phải tháo dỡ tấm vách ngăn… Thế mà cái giảng đường trên 400 chỗ ngồi hầu như không còn chỗ trống.
Người quan sát nhận ra, hôm nay đến dự rất đông đủ, hầu như các vị thuộc hàng Giáo sư có tên tuổi đều có mặt, trừ thầy Hiệu trưởng đi công tác nước ngoài, các thầy Phó hiệu trưởng đều có mặt, buổi báo cáo do thầy Phó hiệu trưởng thường trực chủ trì.
Những người đến dự chờ đợi ông Phó chủ nhiệm cung cấp những thông tin thời sự về tình hình biên giới, để cập nhật thông tin và bổ sung kiến thức vào công việc nghiên cứu và giảng dạy. Ông giảng giải rất kỹ thế nào là đường cơ bản, thế nào là lãnh hải, thế nào là vùng đặc quyền kinh tế, … Ông còn làm “công tác tư tưởng” cho các Giáo sư, đảng viên và đoàn viên thanh niên cộng sản không được quên rằng Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia do các đảng cộng sản lãnh đạo, chúng ta cùng chung ông Tổ Mác Lê-nin.
Rồi ông cung cấp thông tin, như muốn nhắc nhở các Giáo sư đừng quên góp đá xây dựng Trường Sa, khi đã có đơn vị này đóng góp một tỷ đồng, mỗi người đơn vị kia đóng góp một ngày lương, … rồi Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã làm các việc… ông nhắc đi nhắc lại một điệp khúc “nhiều lắm các thứ” (nguyên văn lời ông). Ông giảng giải rành rẽ như đang giảng bài cho học sinh trung học, chứ không phải một báo cáo nghiêm túc cho các Giáo sư… Trên màn hình của bản thuyết trình, ông xen vào rất nhiều hình ảnh để chứng minh rằng ông đã từng đi báo cáo về biên giới trên biển tại nhiều trường đại học và các đơn vị khác trên toàn quốc.
Mặc dầu chờ đợi, nhưng các cử tọa tuyệt nhiên không thấy ông Chiến đưa ra một thông tin nào mới, trừ những thông tin mà các Giáo sư đã tiếp nhận qua các phương tiện truyền thông và nhất là các trang mạng “lề phải”, “lề trái”. Và ông luôn nhắc đi nhắc lại “đây là vấn đề nhạy cảm” mà ông không thể nói ra, và ông Chiến cũng khuyên mọi người đừng nhắc đến.
Quả tình đây là vấn đề rất “nhạy cảm”, bởi vậy ông yêu cầu mọi người tuyệt đối không được chụp ảnh, quay phim về buổi nói chuyện này. Có một vị giảng viên rất trẻ (có lẽ vừa ra toa lét quay vào) chưa kịp nghe lời cảnh báo của ông, lỡ dại giương máy ảnh lên chụp, liền bị ông nghiêm khắc cảnh cáo.
Điều đặc biệt là cái bản đồ mà ông trưng lên để giảng giải thì lại dùng tiếng Anh và ghi rõ vùng biển mà Trung Quốc đang khuấy đảo là biển “Nam Trung Hoa”, chứ không phải là Biển Đông như viết trên các báo chí “lề phải” của ta.
Khi nói về các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược, ông nhấn mạnh,… ta có chưa đầy trăm triệu dân, Trung Quốc có gấp mười mấy lần số đó, mình biểu tình năm ngàn người thì họ biểu tình năm chục ngàn người… Kinh khủng hơn thế… Giải quyết vấn đề gì đâu (!).
Nhưng có một thông tin mà cả giảng đường sững sờ: Khi nói về vụ Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 và tàu Viking 2 của ta, ông Chiến “lỡ mồm” đưa ra một lời răn dạy, chẳng qua chỉ là… là “Yêu cho đòn cho vọt” mà thôi! Theo bình luận của người quan sát, thì đây là lời khuyên của các cụ đối với các bậc cha mẹ khi dạy dỗ con cái.
Nghe giọng điệu của ông cứ thấy là lạ thế nào! Đúng là giọng điệu của bọn người nước lạ, luôn mồm đe dọa cho “Dạy cho Việt Nam một bài học”… Nhưng lần này được ông cán bộ Chiến của cái cơ quan lạ kia phiên dịch bằng một ngôn ngữ “thân ái hơn”, là… là “Yêu cho đòn cho vọt”. Cả giảng đường giật mình… Không biết bố nào dạy con nào đây?Và ai đang được ai yêu như vậy đó?
Sau phần ông thuyết trình thì đến lượt mọi người nêu câu hỏi và bình luận.
Rất đông đảo các vị Giáo sư đương chức đã phát biểu ý kiến. Tất cả các ý kiến đều thể hiện sự đáng tiếc là trong báo cáo của ông Chiến không đưa ra được những thông tin gì mới so với báo chí, và mọi thông tin quen biết mà ông Chiến đưa ra kèm theo lời răn phủ đầu: “Đây là vấn đề nhạy cảm”. Những vấn đề “nhạy cảm” của ông Chiến quả thật còn kém xa những thông tin mà các thầy cô của trường đại học này nghiên cứu, nhất là các thầy cô trong ngành sử học.
Người đầu tiên phát biểu ý kiến là thầy Phó hiệu trưởng thường trực. Thầy chất vấn ông Chiến, tại sao lại ông lại dùng bản đồ tiếng Anh với dòng chữ “Biển Nam Trung Hoa” để chỉ vùng Biển Đông của Việt Nam? Ông Chiến lúng túng, quanh co một hồi, và không thể trả lời được thấu đáo câu hỏi của thầy Phó hiệu trưởng thường trực (mà làm sao ông Chiến trả lời cho đặng!!!).
Sau đó đến lượt một vị Giáo sư là một nhà nghiên cứu lịch sử, đã bình luận, ý là Trung Quốc “yêu Việt Nam”,… rất yêu. Yêu đến mức cho những thứ hơn đòn hơn vọt mà ông Chiến vừa nói đến, bằng chứng là nhan nhản những bài viết trên những trang mạng do Đảng Trung Quốc thao túng đòi “Giết giặc Việt để lấy máu làm lễ tế cờ thu hồi Nam Sa” (tức Trường Sa của Việt Nam). Ông còn dẫn ra một loạt sự kiện nữa, trong đó có việc ông Chủ tịch Hồ Cẩm Đào vừa dứt lời từ biệt với Tổng Bí thư của Việt Nam, thì trên cơ quan ngôn luận chính thức của Trung Quốc đã dọa cho Việt Nam nghe tiếng súng ở Biển Đông. Vị Giáo sư này còn nói: “Tôi có thể cung cấp cho anh Chiến, rằng bản chất của Trung Quốc là lời nói không bao giờ đi đôi với hành động. Họ nói một đằng, nhưng lại hành động theo một cách khác. Nó nhất quán từ cấp lãnh đạo cao nhất đến cấp thực thi thấp nhất”.
Vị Giáo sư khả kính của chúng ta còn khẳng định, chúng ta phải đặt lợi ích quốc gia trong khuôn khổ của pháp luật quốc tế lên trên hết, chứ không phải nhấn mạnh họ và ta đều chung ông tổ Mác Lê-nin.
Một vị Giáo sư khác đã từng có bề dày nghiên cứu về Trung Quốc, đã từng có công trình khoa học về vấn đề này được công bố từ 1979, thì khẳng định với ông Chiến rằng, trong suốt chiều dài lịch sử, các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn hành xử theo kiểu lời nói không đi đôi với việc làm. Khi vị Giáo sư này nhắc đến bản tính lời nói không đi đôi với việc làm thì gợi người quan sát nhớ lại ý kiến của vị Giáo sư vừa phát biểu ý kiến ở trên, rằng, mỗi khi diễn ra những sự kiện Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam, được phía lãnh đạo Việt Nam nhắc nhở, thì lãnh đạo Trung Quốc luôn đưa lời khuyên thân ái: “Các đồng chí ơi, chúng ta phải kiên nhẫn nhìn về đại cục, chứ chấp gì với cái hành động ngu xuẩn của bọn dân đen…”
Một vị nữ Giáo sư nói “Báo cáo một vấn đề nghiêm túc như thế này phải có chứng cứ khoa học, bằng chứng lịch sử, chứ không thể cái gì cũng “vấn đề nhạy cảm”… Vậy ra chúng tôi không đáng được cung cấp thông tin sao?”. Nghe xong lời vị nữ Giáo sư này, ông Chiến liền hạ giọng phán rằng: “Không ai cấm các thầy cô nghiên cứu khoa học, nhưng nghiên cứu thì phải… cho nó… cẩn thận… Chúng ta có thể viết một trăm trang nghiêm túc, nhưng chỉ cần một dòng không cẩn thận là phía bạn có thể dùng nó để làm bằng chứng rằng đã có một Giáo sư của Việt Nam nói năng như vậy đấy!”. (Người quan sát trộm nghĩ: Vậy thì trên hàng trăm trang mạng của Trung Quốc, cả lề phải và lề trái, nhan nhản những dòng lăng nhục và đe dọa Việt Nam thì ông Chiến nghĩ sao nhỉ?).
Dân tình quan sát thấy ông Chiến mặt đỏ nhừ… Chắc ông không ngờ các thầy cô ở trường đại học này thể hiện một phản ứng dữ dội như vậy… Cứ như những cuộc đấu tố ở các khu phố đối với những người có ý kiến trái chiều.
Cuối cùng, chắc là để gỡ thể diện cho ông Chiến, vì dù sao, nhà trường cũng đã có lời mời ông Chiến đến báo cáo, thầy Phó hiệu trưởng thường trực đã nói lời cảm ơn để kết thúc cuộc đối thoại rất cởi mở với ông Chiến.
Trong dòng người ùa ra từ giảng đường, người quan sát nghe thấy cuộc trao đổi giữa mấy bạn giảng viên trẻ, trong đó đáng chú ý là lời của một anh: “Tôi cho rằng, phúc đức của nước nhà còn lớn lắm, bởi vì, đưa một người như ông Chiến đi thương thảo về biên giới, để một người như ông Chiến tư vấn chính sách về biên giới cho Chính phủ mà chúng ta mới chỉ mất có ngần ấy đất và ngần ấy biển là còn ít đấy”./.
N. Q. S

Nhân chuyện Ngọc Trinh cởi truồng

Đào Tuấn
Khi nghi án “Ảnh khỏa thân của Hoa hậu Ngọc Trinh” bị tung lên mạng, một tờ báo đã “bắc kính lúp” soi nốt ruồi trên body người đẹp và chạy hàng tít lớn: “4 nốt ruồi tố cáo Ngọc Trinh”. Các “cao thủ” photoshop, cũng đạo mạo vuốt râu khẳng định bộ ảnh “nóng đến từng centimet” không có dấu hiệu ghép hình. Khổ thân cho người đẹp. Cô bị đòi “xử lý” vì “không đơn thuần là ảnh nude mà là ảnh khiêu dâm”. Rồi thì “Viện khoa học hình sự vào cuộc”. Rồi “Sẽ bị tước vương miện hoa hậu”…
Ngọc Trinh không khóc, không “xin cho tôi một cơ hội” như “Vàng Anh”. Không nhận “cởi truồng vì môi trường” như Ngọc Quyên. Cũng không thề thốt “vô tình” như người đẹp Tăng Thanh Hà. Cô im lặng. Cô vốn nối tiếng thật thà đến phổi bò. Sự im lặng, vì thế, có lẽ cũng không phải vì “Quyền im lặng trước scandal không liên quan đến cô”.
Nhưng như thế nào là nude, thế nào là khiêu dâm? Nhưng xử lý cái gì và vì sao xử lý? Ngay cả đưa các tiêu chí phân biệt của mỹ học ra đánh giá cũng khó có thể kết luận gì về bộ ảnh. Huống chi sẽ chẳng có ai dám, và có thẩm quyền kết luận đó là những bức ảnh của Ngọc Trinh, chừng nào cô còn lắc đầu. 
“Viện Khoa học hình sự vào cuộc” ư. Thật là nhảm nhí và giàu trí tưởng bở.|
Trong các cuộc trà dư tửu hậu sau khi ngắm nghía chán chê cả trăm bức hình- được cho là của người đẹp, giang hồ đều thống nhất rằng: Ngọc Trinh rất đẹp, rất gợi cảm. Tóm lại là rất cái. Hơn đứt những thứ mà chúng ta vẫn gọi là Hoa hậu trong vài năm qua.
Và những tấm hình của một cô gái khỏa thân giống y cô, có lẽ, đã cho người xem một trải nghiệm, hoặc một hình dung thú vị. Khiêu dâm, hay gợi cảm. Cởi truồng hay khỏa thân. Lộ hàng hay khoe những đường con nóng bỏng. Có lẽ là ở cách cảm nhận của…người xem. Chỉ lạ là không hiểu vì sao người ta vừa sùng sục săn lùng, dấu dấu diếm diếm xem ảnh cô rồi ngay sau đó lại thắt cà vạt đạo đức để chửi cô như hát hay.
Còn nhớ trong cuộc thi Hoa hậu Hoàn cầu, người đẹp đã có 1 câu trả lời ứng xử không thể tệ hơn khi cô ấp úng, lí nhí, lúng túng và khổ sở ca ngợi cha mình, trước khi, rất nhanh nhảu “Em xin hết”, đúng như truyền thống của các người đẹp Việt. Khó có thể đòi hỏi hơn ở một cô gái Việt, có xuất thân phục vụ bàn bida, lại mới 19-20 tuổi đầu. Huống chi, trí tuệ thường lảng tránh những cô gái chân dài.
Nhưng thực ra, chả có ai thực sự giận dữ, thứ tình cảm mà công luận đã bày tỏ một cách mạnh mẽ khi scandal vàng ảnh vàng anh bị lộ trên mạng- dù những bức hình, được cho là của Ngọc Trinh, hầu như không che đậy.Ừ thì cố là ”Mỹ nhân nói hớ”, là “Hot girl khoe của”, là “Người đẹp thật thà”. Ừ thì cô đã trả lời ứng xử quá tệ. Nhưng cô không phải là tiến sĩ- nghị sĩ, cô không phải là nữ chính trị gia. Cô có thể cởi mà biết chắc là người ta hoặc sẽ trầm trồ, hoặc sẽ bực tức vì ghen tị. Rất đơn giản là bởi cô đẹp và tự tin với vẻ đẹp của mình (Chẳng phải là cô đã từng trả lời phỏng vấn: “Vòng 3 càng ngày càng vuông lên” và “Tôi mê nhất vòng 3 của mình”).
Sự thể sẽ khác đi rất nhiều nếu, chẳng hạn một bà giáo sư, tiến sĩ rau muống cũng đòi cởi truồng trên mạng.
Trong tuần xảy nghi án Ngọc Trinh khoe vẻ đẹp cơ thể, có hẳn hoi một sự kiện bà tiến sĩ rau muống nọ khoe vẻ đẹp “chí tuệ”.
Về mặt pháp lý, bà đã vi phạm luật quảng cáo khi quảng bá một sản phẩm bằng hình thức so sánh trực tiếp với sản phẩm cùng loại.
Rất khó để nói đó là một “thảm họa đạo đức” dù thực tế chứng minh rằng vì nói dối với nhau nhiều quá nên đôi khi người ta tưởng luôn đó là sự thật. Sẽ may mắn hơn nhiều nếu nó thuần túy chỉ là “thảm họa chí tuệ” liên quan đến kiến thức hoặc nhận thức của một giáo sư, tiến sĩ. 
Một câu chuyện cởi khác, liên quan đến một vị tiến sĩ khác. Đó là vị tiến sĩ- nhà văn đệ trình 3,5 trang dự án luật Nhà văn. Nếu chỉ dừng lại ở đó thì có thể sẽ chỉ là một sự tào lao thảm họa. Đằng này, sau khi bị dư luận mắng là tào lao, vị tiến sĩ- nhà văn cởi tiếp khi ông phát biểu trên nghị trường:  Nếu phải lựa chọn giữa luật Biểu tình và luật Nhà văn” thì ông vẫn chọn luật Nhà văn. Vài ngày sau đó, thảm họa thực sự đã xảy ra: “Tôi cũng không biết vì sao cần có Luật Nhà văn. Tôi chỉ thực hiện lời hứa, còn cụ thể vì sao cần có luật này thì tôi chưa nghĩ ra”.
Ngọc Trinh cởi (giả dụ những tấm hình kia là của cô), dẫu sao còn có cái để khoe: 4 nốt ruồi đẹp và một thân hình trẻ trung “nuột nà”, “trắng đều từ trên xuống dưới, từ trước ra sau”.
Nhưng không phải ai cởi cũng cho người ta thấy cái đẹp. Bởi cũng là chuyện cởi, nhưng có những người cởi áo cho người ta thấy vẻ đẹp của núi đồi và thảo nguyên, người khác cởi lại chỉ thấy toàn thung lũng, rừng rậm tăm tối.

Tranh cãi mới về phim 'Lý Công Uẩn'

Quốc Phương



Cảnh trong phim "Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng Long"
Cảnh trong phim "Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng Long" do công ty Trường Thành chủ trì sản xuất.

Tin bộ phim truyền hình gây tranh cãi "Lý Công Uẩn - đường đến thành Thăng Long" do công ty cổ phần Trường Thành kết hợp với đối tác Trung Quốc Đông Minh Vệ Thị (SEASTV) sản xuất, sắp được Truyền hình Việt Nam (VTV) trình chiếu tiếp tục tạo ra các dư luận trái chiều.
Tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, người phản đối việc công chiếu bộ phim, khởi xướng loạt bài mới từ hôm 13/11/2011 trên trang blog cá nhân của mình với tựa đề "VTV chuẩn bị công chiếu bộ phim phản quốc," trong đó trích đăng lại một bài báo trên tờ Người Hà Nội hôm 19/10/2011, thông báo về việc "chuẩn bị công chiếu" bộ phim.
"Cuối cùng thì, như số phận nổi chìm của nó - trước bao sóng gió của dư luận, bộ phim "Lý Công Uẩn - đường tới thành Thăng Long" từng bị phản đối dữ dội ròng rã suốt một năm trời, đến nay "số phận" đó được định đoạt một cách có hậu: đó là, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã có văn bản chính thức về việc phổ biến bộ phim, sau ba lần "nâng lên đặt xuống" của Hội đồng duyệt phim Quốc gia," bài báo có đoạn viết.
"Còn việc nội dung phim có xuyên tạc lịch sử, có "thân Tàu" hay không thì, Văn bản số 738/BVHTTDL-ĐA của Bộ VH-TT&DL cũng thể hiện rõ: "Về cơ bản tinh thần lịch sử trong phim được tôn trọng, không bị bóp méo, luôn đề cao tầm vóc và tình cảm của một vị vua vì dân, thương dân, biết đặt lợi ích của dân tộc lên lợi ích cá nhân.
"Chúng tôi thấy là chúng tôi quyết gióng lên tiếng nói để bảo vệ văn hóa của dân Việt của mình. Trong chuyện này có một ý đồ lộ liễu và có thể nói là có một ý đồ xâm lược, một sự xâm lược về văn hóa"
Blogger Nguyễn Xuân Diện
"Nội dung không có gì vi phạm về chính trị, cũng như mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc," tờ Người Hà Nội trong một đoạn khác viết, khi đưa thông tin bộ phim sắp được chiếu.
Trả lời câu hỏi của BBC hôm 14/11 về việc tờ Người Hà Nội có biết chắc chắn hay không về việc bộ phim sẽ được (VTV) phát sóng, như tinh thần bài báo từ hôm 19/10, ông Bùi Việt Mỹ, Tổng Biên tập Người Hà Nội cho hay chưa chắc chắn về "thời điểm công chiếu":
"Có thể là trong một vài ngày nữa," lãnh đạo tờ báo này nói, và cho biết rằng ông sẽ cần kiểm tra thêm vì "bài báo đăng cũng đã lâu."
Thế nhưng, cũng hôm thứ Hai, cùng ngày, ông Trịnh Văn Sơn, tác giả kịch bản, giám đốc sản xuất và tổng giám đốc công ty cổ phần Trường Thành nói với BBC:
"Tôi không có thông tin về việc đó," ông Sơn nói và thêm rằng ông sẽ kiểm tra lại thông tin này.
'Xâm lược văn hóa'
Cảnh trong phim Lý Công Uẩn đường tới thành Thăng Long
Nhà sản xuất phim, công ty Trường Thành, cho rằng nhóm làm phim đã tham khảo nhiều tài liệu văn hóa "thuần Việt."

Trước câu hỏi, vì sao blogger Nguyễn Xuân Diện không phản ứng ngay về bài báo trên tờ Người Hà Nội từ hạ tuần tháng Mười, hoặc ngay khi văn bản số 738 của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch ban hành một thời gian trước đó, mà phải đợi tới trung tuần tháng Mười Một mới lên tiếng ông Diện nói:
"Chúng tôi nghe ngóng và chúng tôi mới được biết bộ phim đó hình như là đài truyền hình Việt Nam sắp công chiếu nó lên sóng. Và thời điểm công chiếu dường như cũng gần đến nơi rồi. Chúng tôi thấy là chúng tôi quyết gióng lên tiếng nói để bảo vệ văn hóa của dân Việt của mình.
"Trong chuyện này có một ý đồ lộ liễu và có thể nói là có một ý đồ xâm lược, một sự xâm lược về văn hóa."
Ông Diện cũng cho rằng không cần đợi tới khi điều mà ông tin là một "nọc độc văn hóa" được tung ra mới xử lý, mà phải ngăn ngừa ngay từ đầu. Tiến sỹ Diện còn cho hay ông và nhà sử học, Giáo sư Lê Văn Lan đã có kế hoạch tới trước cửa Đài Truyền hình Việt Nam để "phản đối" nếu bộ phim được cho phép chiếu.
"Bản thân tôi là một người làm phim, tôi không bao giờ mong muốn bất kỳ một bộ phim nào bị cấm cả. Bởi vì thái độ với một bộ phim tốt nhất là dành cho tất cả mọi người."
Đạo diễn Bùi Thạc Chuyên
Có vẻ như bộ phim truyền hình 19 tập lấy chủ đề lịch sử này của Việt Nam tiếp tục là một chủ đề "gây tranh cãi" và sẽ tiếp tục đặt ra câu hỏi về hướng xử lý ra sao đối với các nhà sản xuất, giới phê bình, ngành văn hóa và công chúng.
Trao đổi với BBC hôm 14/11, đạo diễn điện ảnh Bùi Thạc Chuyên cho rằng:
"Bản thân tôi là một người làm phim, tôi không bao giờ mong muốn bất kỳ một bộ phim nào bị cấm cả. Bởi vì thái độ với một bộ phim tốt nhất là dành cho tất cả mọi người."
Tuy vậy ông Chuyên, người đã được cơ quan chức năng mời xem bộ phim để cho ý kiến, cho hay nếu được tư vấn làm lại bộ phim từ đầu, các nhà sản xuất theo ông cần lưu ý một số điểm:
"Cần phải bỏ ra công sức càng nhiều càng tốt, dù có thể không được 100%, để đưa vào tinh thần của người phương Nam, người Việt, tôi thấy rất là quan trọng, bởi vì đó là sự trân trọng đối với Tổ tiên. Phải giữ được tinh thần, không khí, cảnh quan, hay những cái gì đó của đất nước.
"Và cái thứ hai là tất cả thành phần sáng tác chủ yếu phải là người Việt, tôi nghĩ như thế thì tốt hơn," đạo diễn Bùi Thạc Chuyên nói.