31/1/12

Ớn lạnh thịt thối - Kỳ 3: Công nghệ phù phép “thơm ngon”

Phủ tạng ngâm hóa chất
Rạng sáng ngày 26.10, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (PC49) Công an tỉnh Đồng Nai bất ngờ kiểm tra cơ sở của ông T.H.V (tại KP.5, P.Long Bình, TP.Biên Hòa) bắt quả tang công nhân đang ngâm hàng tấn nội tạng trâu, bò heo bằng hóa chất để bán cho quán nhậu. Tại hiện trường, ông V. đang chỉ đạo cho 5 nhân công phân loại 700 kg nội tạng trâu bò gồm lòng, dạ dày, tim, gan... cho vào một cái thau lớn để ngâm dung dịch tẩy trắng. Trong đó, gần 300 kg đã được hoàn thiện chuẩn bị đưa đi tiêu thụ. Số nội tạng trên, ông V. khai đưa đi tiêu thụ tại các quán nhậu trên địa bàn TP.Biên Hòa, TP.HCM và Bình Dương. PC49 cũng đã thu giữ 2 can (khoảng 40 lít) hóa chất dùng để tẩy trắng.
 
Thịt thối chuẩn bị đem ngâm hóa chất - Ảnh: Kim Cương
Trước đó, ngày 11.1, PC49 bắt quả tang hộ ông N.V.T (xã Hố Nai 3, H.Trảng Bom) cũng dùng công nghệ này để "phù phép" thịt thối. Tại hiện trường, cơ quan chức năng phát hiện các công nhân cơ sở đang đưa khoảng 60 kg lòng bò ngâm trong hóa chất để tẩy trắng và 3 thùng xốp chứa khoảng 1.000 kg nội tạng lòng bò (đã được tẩy trắng) chuẩn bị đưa đi tiêu thụ. PC49 đã thu giữ 1 can (20 lít) đang đựng dung dịch tẩy lòng bò; 3 kg bột hóa chất tạo màu... Tại cơ sở của mình, ông T. cho xây dựng 4 hố ngâm hóa chất để tẩy trắng.

Độc hại khôn lường
Một chuyên gia thú y cho biết, các loại hóa chất sử dụng để tẩm ướp, ngâm thịt và nội tạng này được pha trộn với muối Natri Sunfit (NàSỎ hay còn gọi là Sunfit Natri). Loại muối này khi nhúng thịt vào khoảng 15 phút rồi vớt ra thì miếng thịt hoàn toàn khác với ban đầu. Phần da trắng sáng, phần mỡ trắng tinh, còn phần nạc hồng đỏ lên. Loại hóa chất này được khuyến cáo không được dùng. Nếu lỡ ăn thịt nhiễm hóa chất này sẽ bị viêm loét thành ruột và các cơ quan tiêu hóa. 
K.C
Theo lời khai ban đầu, để thịt được trắng, giòn, để lâu vẫn tươi, cơ sở này cho tẩy trắng lòng bò bằng hóa chất rồi ngâm với hàn the để bảo quản. Đến khi đem đi tiêu thụ, chỉ cần quét thêm chất tạo màu, tạo mùi để hấp dẫn rồi đem bỏ mối cho các quán nhậu tại Đồng Nai, Bình Dương và TP.HCM.
Theo một cán bộ thú y Chi cục Thú y Đồng Nai, những loại thịt để lâu, bốc mùi hôi thối và bắt đầu phân hủy nhưng sau khi rã đông, ngâm  hóa chất vào khoảng 10 tiếng đồng hồ, thịt sẽ trở nên trắng tươi như khi vừa mổ xong. Hoặc thịt để trong tủ cấp đông lâu ngày có màu thẫm, tái hoặc lên mốc meo, vẫn có thể bảo quản tiếp một thời gian dài nữa bằng cách ngâm hàn the cho thịt tươi và giòn hơn. Khi ăn, khó ai ngửi được mùi hóa chất cũng không thể phân biệt được thịt mới hay cũ. Đặc biệt các loại hóa chất được cơ sở tự chế biến bằng cách pha trộn theo công thức riêng nên khó biết đó là loại gì.
Đầu cơ thịt bẩn
Lái L. chuyên thu gom heo lậu tại H.Trảng Bom cho biết, hiện nay nhiều thương lái sẵn sàng đầu tư kho trữ đông, hệ thống xử lý thịt hàng tỉ đồng để thu gom, trữ thịt hàng năm. Khi giá thịt trên thị trường rẻ hoặc rơi vào dịp dịch (lở mồm long móng, tai xanh...), thì họ tổ chức thu gom heo, trâu, bò với giá rẻ để về mổ thịt. Sau đó xịt thuốc khử mùi, bỏ vào bịch nylon rồi cột chặt cho vào tủ cấp đông để trữ. Khi vào tủ cấp đông dưới mức -5 độ C, thịt có thể để năm này qua năm khác mà không sợ phân hủy. "Đến khi hết dịch, người dân cũng không còn gia súc để bán, lúc này thịt được đẩy giá lên cao. Khi đó thương lái sẽ tung hàng ra, dùng các công nghệ bằng hóa chất tẩy rửa, xử lý rồi bán với giá cao. Mặc sức thu lợi", L. tiết lộ.
Điển hình như ngày 28.3, Công an Đồng Nai và Chi cục Thú y đã tổ chức tiêu hủy hơn 20 tấn thịt heo và nội tạng thối do đã để quá đát từ lâu. Đây là số thịt đông lạnh không rõ nguồn gốc được cơ quan chức năng phát hiện tại một DN trên địa bàn TP.Biên Hòa do bà N.T.K.P làm chủ. Qua kiểm nghiệm xác định số thịt trên đã bị nhiễm vi sinh.
Ông Lê Minh Chí, Phó chi cục trưởng Chi cục Thú y Đồng Nai cho biết, vừa qua lực lượng thú y liên tiếp phát hiện hàng chục vụ thu gom, vận chuyển thịt không rõ nguồn gốc, thịt đã hư hỏng qua địa bàn. "Do đặc thù là tỉnh công nghiệp, giáp ranh với TP.HCM và Bình Dương là những thị trường tiêu thụ thịt lớn nên Đồng Nai trở thành địa bàn trung chuyển thịt lậu qua các tuyến quốc lộ. Cao điểm “cháy” hàng, thịt từ miền Trung tuồn vào bằng cách xé lẻ hàng, bỏ vào các loại thùng xốp đông lạnh, rồi giấu vào xe khách hoặc các loại phương tiện thô sơ để tránh sự kiểm soát của các chốt kiểm dịch", ông Chí nói.

Bắt quả tang lò quay heo bệnh
Chiều 23.11, Trạm thú y Bình Chánh (TP.HCM) phối hợp với Công an xã Bình Hưng kiểm tra lò quay heo hoạt động “chui” tại B18/6N1, ấp 3A, xã Bình Hưng, H.Bình Chánh, phát hiện tang vật vi phạm gồm 5 con heo đã giết thịt và 337 kg thịt heo. Toàn bộ lô thịt heo bị bệnh xuất huyết, chảy nhớt và biến chất, chưa qua kiểm soát giết mổ, không có giấy chứng nhận kiểm dịch sản phẩm động vật, chế biến trên nền sàn không đảm bảo vệ sinh. Khi bị phát hiện, ông Đỗ Duy Tâm - chủ lò quay đã bỏ trốn. Tổ kiểm tra đã tiêu hủy lô hàng, đồng thời chuyển hồ sơ đề nghị UBND H.Bình Chánh xử lý vi phạm hành chính.
Hoàng Việt
Kim Cương

Ớn lạnh thịt thối - Kỳ 2: Tràn ngập quán ăn

Chân gà, nội tạng gia súc không rõ nguồn gốc, mất vệ sinh tràn ngập các quán vỉa hè ở TP.HCM.
Không rõ nguồn gốc
Trong khi Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát chỉ đạo thanh tra tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành, để tiến hành làm rõ vụ việc hơn 100 tấn chân gà thối “bốc hơi” khỏi cảng Hải Phòng, thì tại TP.HCM, loại thực phẩm này được bày bán nhan nhản ở rất nhiều hàng quán dơ bẩn và nhếch nhác. Riêng một đoạn ngắn trên đường Trường Sơn, thuộc P.4 (Q.Tân Bình) đã có gần 10 quán bán chân gà nướng. Gần 5 giờ chiều 22.11, chúng tôi ghi nhận tại quán C.B có rất đông thực khách ăn những cặp chân gà nướng to tướng.
''Loại thịt này, sau khi được tẩm hóa chất đưa vào quán ăn thì thực khách khó lòng biết được, rất nguy hiểm'' - Ông Phạm Thanh Bình, Đội trưởng Đội QLTT Tân Phú
Theo một người phục vụ thì không rõ nguồn gốc chân gà này ở đâu, "hằng ngày thường có mối chở đến bỏ, muốn lấy bao nhiêu và lấy vào bất kỳ thời điểm nào cũng có; lúc chưa tẩm ướp, lớp da bên ngoài chân gà nhơn nhớt, bốc mùi". Nhưng khi nướng lên, chân gà có màu vàng ươm, thơm phức và nhìn rất bắt mắt. Đó là nhờ “công nghệ” tẩm gừng, cà ri nên thực khách không nhận biết được tình trạng trước đó có thối rữa hay không. Giá mua chân gà ban đầu chỉ khoảng 60.000 đồng/kg, nhưng sau khi chế biến xong, giá bán gần 300.000 đồng/kg.
Hằng ngày, cứ tầm 5 giờ chiều đến tối, giàn nướng chân gà được đưa ra vỉa hè một quán nhậu trên đường Đồng Đen (Q.Tân Bình); những chiếc chân gà mập ú được tẩm ướp nằm trên giàn “hỏa thiêu”. Tương tự, một quán nhậu kiêm ăn vặt phục vụ sinh viên trong Làng đại học Thủ Đức (thuộc P.Linh Trung) cũng bán chân gà nướng. Giá bán 10.000 đồng/cặp chân gà loại nhỏ, 12.000 đồng/cặp lớn. Anh Lâm - một thực khách tại đây - cho biết: “Chiều chiều chúng tôi hay đi gặm món này, chân gà khi nướng lên thơm phức nhưng trước đó thì không biết thế nào”.
Thực đơn của rất nhiều nhà hàng ở TP.HCM đều có món chân gà nướng, lòng heo, nhưng khi chúng tôi hỏi về nguồn gốc của nguyên liệu chế biến xuất phát từ đâu, đã tồn trữ trong khoảng thời gian bao nhiêu tháng thì các nhân viên đều lắc đầu.

Chân gà nướng đang là món ăn khoái khẩu của nhiều thực khách tại TP.HCM - Ảnh: Đào Ngọc Thạch
Không kiểm soát xuể
Bác sĩ Phan Xuân Thảo, Chi cục trưởng Chi cục Thú y TP.HCM, cho biết: “Tình trạng vận chuyển động vật, sản phẩm động vật không rõ nguồn gốc và hư thối từ các tỉnh vào TP.HCM gần đây đã tăng lên khá nhiều. Chúng tôi đã xây dựng kế hoạch tăng cường kiểm tra, trinh sát, đánh chặn để không bùng phát thêm nữa. Tuy nhiên, chỉ lực lượng thú y TP.HCM thôi thì không đủ và không thể nào làm nổi. Vấn đề là phải tiến hành đồng bộ trên cả nước. Tôi đã có văn bản báo cáo Cục Thú y về tình trạng này đồng thời cũng gửi công văn cho chi cục thú y các tỉnh đề nghị họ phải phối hợp ngăn chặn từ gốc".
Bắt thêm 3 vụ vận chuyển thịt thối
Ngày 23.11, tại quốc lộ 1A, Đội CSGT Rạch Chiếc phối hợp với Trạm kiểm dịch động vật Thủ Đức, TP.HCM kiểm tra, phát hiện 3 trường hợp (xe buýt, xe khách và xe máy) vận chuyển hơn 410 kg thịt heo, phụ phẩm heo, trứng cút… không giấy chứng nhận kiểm dịch, không rõ nguồn gốc… từ Đồng Nai về TP.HCM tiêu thụ. Qua kiểm tra phát hiện lô hàng phụ phẩm heo bốc mùi hôi thối, đổi màu, tổ công tác đã buộc tiêu hủy 3 lô hàng nói trên.
Hoàng Việt
Bà Đặng Thị Tuyết, Trưởng trạm Kiểm dịch động vật Thủ Đức, đánh giá: “So với năm trước, năm nay, số vụ vận chuyển thực phẩm bẩn phát hiện nhiều hơn. Trước đây hiếm khi xe khách chất lượng cao vận chuyển thực phẩm bẩn nhưng nay lại phát hiện không ít”.
Để kiểm soát tốt và ngăn chặn thực phẩm bẩn vào TP.HCM, bà Tuyết cho rằng: “Hàng trăm, hàng ngàn xe lưu thông trên đường, nếu không có tai mắt người dân thì cơ quan chức năng khó mà kham nổi. TP.HCM chỉ là đầu ngọn, thú y các địa phương làm chặt đầu gốc thì mới hạn chế được thực phẩm bẩn đưa về TP.HCM”. Cũng theo bà Tuyết: “Thời gian qua trạm phát hiện nhiều trường hợp tái phạm vận chuyển sản phẩm động vật trái phép. Theo quy định, những trường hợp tái phạm thì khi xử phạt sẽ xem xét tình tiết tăng nặng; tái phạm lần thứ 3 trong một năm thì sẽ chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra, nhưng thực tế rất ít vụ bị truy tố".
Thịt thối vẫn đạt chuẩn
Giữa tháng 9.2011, Đội Quản lý thị trường (QLTT) Tân Phú - thuộc Chi cục QLTT TP.HCM phối hợp với đoàn liên ngành Q.Tân Phú kiểm tra kho hàng của một công ty nằm trong khu công nghiệp Tân Bình, niêm phong gần 15 tấn thịt bò nhập khẩu không rõ nhãn hàng hóa, xuất xứ, không hạn sử dụng. Lô thịt này bị chuyển màu xanh đen, bốc mùi hôi. Ông Phạm Thanh Bình - Đội trưởng Đội QLTT Tân Phú - cho biết: “Khi tổ công tác ập vào kiểm tra thì gần nửa lô thịt bò hôi thối nhập khẩu từ Mỹ đã bị tẩu tán. Đối tượng khai đã đưa ra thị trường tiêu thụ. Bằng cảm quan, các cán bộ chuyên môn thú y kết luận lô hàng thịt bò này đã thối rữa không thể tiêu thụ được. Nhưng chủ hàng chỉ bị xử lý hành vi nhập lậu. Theo thông tin từ cán bộ thú y, các đối tượng kinh doanh thực phẩm bẩn thường chiếu xạ lên lô hàng nên thịt thối cỡ nào đi chăng nữa, nhưng khi đưa đi xét nghiệm đều đạt chỉ tiêu vệ sinh. Loại thịt này sau khi được tẩm hóa chất đưa vào quán ăn thì thực khách khó lòng biết được, rất nguy hiểm. Phần nhiều các loại thịt nguội đều từ nguồn thịt bẩn mà ra”.
Đề cập đến các lô hàng thực phẩm bẩn (thịt, nội tạng, phụ phẩm động vật…) bị tẩu tán khỏi một số cảng có khả năng đưa vào TP.HCM tiêu thụ, bà Đặng Thị Tuyết nhìn nhận: “Các lô hàng này thường được vận chuyển lậu vào TP.HCM bằng xe tải, container nên rất khó bị phát hiện...".
Đình Phú - Hoàng Việt - Quang Thuần

Ớn lạnh thịt thối

Hàng loạt vụ vận chuyển thịt thối tuồn vào TP.HCM được phát hiện đã gây tâm lý bất an cho người tiêu dùng. Đặc biệt, nhiều loại xe có thương hiệu hoặc xe chuyên dùng cũng tham gia chở thịt thối.
 
Sẽ ra sao nếu như số thịt thối này lọt vào các quán ăn, nhà hàng và người tiêu dùng sẽ ăn mà không hay biết gì? - Ảnh: Nguyễn Phúc
Có nhiều vụ nhà xe chở thịt bẩn liên tục tái phạm, thậm chí khi bị phạt thì không thèm đến đóng tiền phạt
Bà Đặng Thị Tuyết, Trưởng trạm Kiểm dịch động vật Thủ Đức, TP.HCM
Thật khó để tưởng tượng, nhưng đối với một số nhà xe chạy tuyến Bắc - Nam hiện nay, “hành khách” yêu thích của họ là các loại thực phẩm, gồm: nội tạng gia súc, chân gà, móng lợn, đuôi bò… thối. Theo lời khai của các tài xế lúc bị phát hiện thì hầu hết điểm đến của số “hành khách” không mấy thơm tho thường là ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt là TP.HCM - thị trường tiêu thụ lớn nhất nước. Các chủ hàng sử dụng các loại xe chuyên chở thịt thối cũng rất đa dạng. Từ xe khách loại 12 chỗ ngồi, đến xe khách chất lượng cao, thậm chí là… xe cứu thương.
Nội tạng, chân, đuôi, tai trâu, bò thối…
Lúc 3 giờ sáng 28.10, trên QL1A đoạn qua xã Cam An (H.Cam Lộ, Quảng Trị), đội tuần tra 8.1 (Phòng CSGT, Công an tỉnh Quảng Trị) phát hiện chiếc xe khách 88H- 6634 chở trên khoang hành lý 12 thùng xốp với 600 kg nội tạng, chân, đuôi, tai trâu, bò bốc mùi hôi thối. Chiếc xe này xuất phát từ Vĩnh Phúc do Nguyễn Quốc Nhâm (SN 1969, trú Vĩnh Phúc) điều khiển có "nhiệm vụ” vận chuyển số thịt thối này vào TP.HCM.
Trước đó, xe khách 73L- 4850 do Nguyễn Văn Xá (SN 1955, trú P.Bắc Nghĩa, TP.Đồng Hới, Quảng Bình) cũng đã bị CSGT (Công an tỉnh Quảng Trị) bắt giữ ngày 24.5 trên QL1A (đoạn qua xã Vĩnh Chấp, H.Vĩnh Linh) khi đang chở 630 kg nội tạng động vật thối. Sau khi bị xử phạt 4 triệu đồng và tài xế Xá bị tạm giữ giấy phép lái xe 60 ngày, chủ xe tiếp tục giao xe cho một tài xế khác chạy thì một lần nữa bị cơ quan chức năng bắt giữ khi chở 350 kg nội tạng heo.
Ngày 19.9, đội tuần tra 1.9 (Phòng CSGT, Công an Quảng Trị) phát hiện xe khách “VIP” Yến Hải chạy tuyến Vientiane (Lào) - Quảng Nam mang BKS 43B-002.74, do Lâm Quang Dũng (SN 1980, trú Q.Thanh Khê, Đà Nẵng) điều khiển, chở theo 3 thùng đuôi bò, 5 thùng móng trâu thối, với tổng trọng lượng trên 500 kg. Trung tá Nguyễn Văn Thủy (Đội phó Đội tuần tra 1.9) cũng cho biết: "Trước đó, ngày 10.9, chiếc xe này cũng đã bị chúng tôi bắt giữ vì chở theo 600 kg thịt gia súc thối tương tự. Nhưng sau khi bị xử phạt, nhà xe lại tiếp tục vi phạm…”.
Heo sữa, da heo, lòng gà… đổ về thành phố
Trong khi đó, tại TP.HCM, các cơ quan chức năng cũng liên tục phát hiện, bắt giữ nhiều vụ vận chuyển thịt thối.
Chỉ trong vòng nửa tháng, từ 16 - 31.10.2011, Trạm Kiểm dịch động vật Thủ Đức phối hợp với lực lượng chức năng phát hiện 11 vụ vận chuyển gần hơn 4 tấn heo sữa, nội tạng, thịt, da heo, lòng, thịt gà… không dấu kiểm soát giết mổ, không giấy kiểm dịch sản phẩm động vật, không rõ nguồn gốc... Trong đó có 3 vụ tái phạm nghiêm trọng với tang vật bị phát hiện lên đến hơn 2 tấn thịt thối. Bà Đặng Thị Tuyết, Trưởng trạm Kiểm dịch động vật Thủ Đức, cho biết: “Có nhiều vụ nhà xe chở thịt bẩn liên tục tái phạm, thậm chí khi bị phạt thì không thèm đến đóng tiền phạt”.
Điều đáng nói hơn là tham gia vận chuyển thịt thối có cả những xe khách có thương hiệu. Chẳng hạn khi xe mang biển số 53N-9339 (tài xế Nguyễn Văn Dũng, SN 1980, ngụ tại Thanh Hóa) vận chuyển trong khoang hành lý 12 thùng xốp gồm 636 kg chân trâu bò không rõ nguồn gốc về TP.HCM tiêu thụ thì lực lượng chức năng phát hiện toàn bộ lô hàng đã biến chất, bốc mùi hôi thối. Xe khách biển số 43B-000.39 (tài xế Lê Công Trình, SN 1982, ngụ tại Hà Tĩnh) cũng chở trong khoang hành khách 4 thùng xốp gồm 228 kg lòng heo không rõ nguồn gốc về TP.HCM tiêu thụ. Toàn bộ lô hàng cũng đã biến chất, bốc mùi hôi thối.
Ngày 5.11.2011, lực lượng chức năng còn phát hiện 3 trường hợp xe gắn máy chở sản phẩm động vật không rõ nguồn gốc, không giấy chứng nhận kiểm dịch từ Đồng Nai về TP.HCM tiêu thụ. Tang vật vi phạm gồm 1.200 quả trứng vịt, 73 kg da heo và hơn 100 kg heo sữa đã bốc mùi…
Trạm thú y Bình Chánh khi phối hợp với Công an xã Phong Phú (H.Bình Chánh) kiểm tra tại địa chỉ B1/19 đường Tân Liêm, ấp 2, xã Phong Phú cũng phát hiện 19 con heo (238 kg) và 16 miếng thịt heo (127 kg) đã giết mổ, quầy thịt xuất huyết, đổ nhớt, biến chất...
Món chế biến từ thịt thối có thể gây ung thư
Trao đổi với PV Thanh Niên, một chuyên gia về vệ sinh thực phẩm của Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) TP.HCM, cho biết: “Những nguyên liệu như đuôi bò thường sẽ được dùng chế biến trong các món lẩu. Còn móng heo, móng bò, móng trâu thường dùng nấu lấy nước súp, nước lẩu. Chân gà thì chế biến thành chân gà rút xương, chân gà hấp hành, chân gà hầm vị thuốc, chân gà nướng. Các tạng phủ, bộ đồ lòng thường được chế biến làm các món nhậu...”.
Theo chuyên gia này, các sản phẩm thịt động vật cho dù không bị hư, không bị biến chất, nhưng nếu không qua khâu kiểm dịch thú y thì cũng rất nguy hiểm. Bởi đó có thể là những sản phẩm không rõ nguồn gốc, sản phẩm từ động vật mắc bệnh than, bệnh lở mồm long móng, nhiễm vi sinh, nhiễm vi khuẩn E.coli, hoặc heo mắc bệnh tai xanh, bệnh cúm... Do vậy, không được sử dụng, vì chắc chắn sẽ gây hại cho sức khỏe. Còn nếu sản phẩm đã qua kiểm dịch, nhưng bảo quản, vận chuyển không đảm bảo ATVSTP khiến thịt, móng bị hư, hôi thối, biến chất thì càng nguy hiểm hơn. Khi đó, thịt đã bị biến chất sinh ra những độc tố, bị nhiễm vi sinh, nhiễm nhiều vi khuẩn đường ruột. Và khi chế biến có thể làm lây lan mầm bệnh ra cộng đồng rất nguy hại.
T.T
Chỉ có thể làm... phân bón
Bác sĩ Nguyễn Xuân Mai, nguyên Phó viện trưởng Viện Vệ sinh y tế công cộng TP.HCM, nhấn mạnh: “Các loại thịt, sản phẩm động vật từ nội tạng, chân móng... một khi đã bị hôi thối thì chỉ có thể làm phân bón, tuyệt đối không được chế biến món ăn sử dụng cho người. Bởi vì thịt, nội tạng động vật khi đã hư, hôi thối, protein sẽ bị phân hủy, sản sinh ra rất nhiều độc chất. Nội tạng như gan bản thân nó là cơ quan xử lý độc chất cho cơ thể khi động vật còn sống, khi phân hủy như thế càng độc hơn nữa”.
Bác sĩ Trần Văn Ký, Hội Khoa học kỹ thuật ATVSTP VN, phân tích: “Cần phải làm rõ nguồn gốc những sản phẩm nội tạng động vật có xuất xứ từ đâu. Vì những bộ đồ lòng, nội tạng, chân móng động vật nhiều nước không sử dụng, là những thứ họ bỏ đi, để khỏi xử lý môi trường họ cho VN nhập về. Gan thì thường được làm patê; đuôi bò nấu cháo, nấu lẩu; bộ đồ lòng làm món nhậu. Để xử lý những sản phẩm động vật bị hư, hôi thối này, các quán ăn, nhà hàng thường cho hóa chất tẩy mùi và kèm hóa chất tẩy trắng. Rồi dùng phụ gia, phẩm màu, gia vị nồng độ thật nặng để chế biến thành các món ăn mà người tiêu dùng rất khó để nhận ra”.
Theo bác sĩ Ký, món ăn chế biến từ những sản phẩm động vật bị hư, hôi thối chẳng những không có tí chất dinh dưỡng nào, mà còn rất độc hại, và có nguy cơ gây ung thư cho người sử dụng.
THANH TÙNG
 
Nguyễn Phúc - Quang Thuần - Hoàng Việt

Đêm Noel trong xà lim số 6


Vũ Ánh 2011/07/07
Linh Mục Nguyễn Văn Vàng Chết Trong Xà Lim Ngục Tù Cộng Sản

Nếu có những linh mục cam tâm làm tay sai cho Cộng Sản để được vinh thân phì gia, thì cũng có rất rất nhiều vị kiên trung trong Đức Tin thà chết chứ không làm tôi cho bọn quỷ dữ...
Linh Mục Nguyễn Văn Vàng qua đời tháng 4-1985 ngay trong xà lim số 6-Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước.
Đêm Noel trong xà lim số 6

Ngày 29-4-1984, tôi được chuyển sang xà lim số 6 trại A-20 ở chung với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, linh hồn của một vụ nổi dậy do ngài và người em chủ trương năm 1976. Tôi hoàn toàn không hiểu lý do của việc chuyển xà lim cá nhân này. Ðây cũng là ngày mà tôi đánh dấu 3 năm bị cùm hai chân và có giai đoạn cả hai tay trong xà lim số 5. Phải nói là tôi bị gông thì đúng hơn. Nếu quý vị được nhìn thấy những tội phạm của thời phong kiến bị gông như thế nào thì chúng tôi bị gông như thế nấy. Chỉ có khác là nhà tù Cộng sản không gông cổ mà thôi.

Linh Mục Vàng, một nhà giảng đạo lỗi lạc của dòng Chúa Cứu Thế, sau khi bị lên án chung thân khổ sai sau vụ và em ruột ngài là Linh Mục Hiệu bị xử tử, đã bị đưa lưu đầy tại trại A-20 Xuân Phước. Khi tôi đã nằm cùm trong biệt giam trong phòng số 5 được 2 năm thì một hôm Linh Mục Nguyễn Văn Vàng lúc ấy từ trại lao động bị đưa vào xà lim số 6, bên cạnh xà lim tôi bị giam.

Khi còn ở ngoài trại lao động, Ngài là đối tượng theo dõi của đám an ninh trại giam, nhất cử nhất động đều không qua mắt được một giàn ăng ten dầy đặc vây quanh vị tu sĩ công giáo này. Bọn an ninh trại nói thẳng ra rằng nếu chúng bắt gặp bất cứ tù nhân nào liên hệ với Linh Mục Nguyễn Văn Vàng, sẽ cùm ngay.

Tôi là một Phật Tử, nhưng mối liên hệ với Cha Vàng khá thân thiết và chúng tôi thường đàm đạo với nhau vào mỗi ngày sau giờ cơm chiều trước khi điểm số để vào buồng giam, không chấp lệnh của trại. Có lẽ đây là lý do bọn an ninh trại đưa tôi đi “nghỉ mát” trước và 2 năm sau họ đưa Cha Vàng và một vài anh em nữa vào những chiếc hộp nhỏ ở ngay sau nhà bếp của trại A. Trại tập trung A-20 ở Xuân Phước thường được chúng tôi gọi là trại trừng giới (danh từ có từ thời Pháp thuộc để chỉ những trại có quy chế trừng trị tù nhân khắt khe). Cục Quản Lý Trại Giam của Cộng Sản thì gọi những loại trại này là Trại Kiên Giam.

Những người xây dựng trại Xuân Phước là ai? Cái oái oăm của lịch sử mà chúng tôi gặp phải chính là ở chỗ: Trại tù này lại do chính bàn tay của những người từng được di tản tới Guam trước ngày 30-4-1975, sau đó lại biểu tình đòi trở về lại Việt Nam bằng tầu Việt Nam Thương Tín, tạo dựng lên. Lúc chúng tôi được chuyển trại về đây thì có một số vẫn chưa được trả tự do. Chạy nạn Cộng Sản tới Guam , rồi vì những lý do riêng biệt hầu hết là vì gia đình còn kẹt lại, trong cơn hoang mang và đau khổ tột độ, tình cảm che lấp lý trí và bị kích động, họ đòi quay trở về với lý do xây dựng lại quê hương sau chiến tranh. Nhưng người Cộng Sản thừa hiểu, những người tị nạn này quay trở về chỉ vì có người còn vợ con, có người còn mẹ già không có người săn sóc, có người hoảng loạn bỏ lại vợ mới cưới, người tình đằng sau. Cho nên, Cộng Sản mở một cuộc đón tiếp để quay phim chụp hình và sau đó đẩy tất cả đàn ông vào khu rừng Xuân Phước và bị buộc phải xây dựng nhà tù này để nhà cầm quyền Cộng Sản giam giữ chính những đồng đội của mình. Tôi đã có rất nhiều dịp tiếp xúc với họ, nên hiểu được tấm lòng của họ và thấy họ đáng thương quý hơn là đáng trách. Một sĩ quan xưng là quản gia cho tướng Nguyễn Cao Kỳ tâm sự với tôi: “Cậu tính coi, lúc đó vì hoang mang đi gấp không kịp lôi vợ con và bà mẹ già theo.. Ðến Guam, cứ nghĩ đến họ, làm sao nuốt nổi miếng cơm chứ. Tôi biết nhiều người không thể thông cảm được lý do tôi trở về, trong đó có thể có cả vợ con tôi nữa, nhưng đành chịu vậy. Cho nên dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn nạn như thế này, tôi vẫn thấy lương tâm yên ổn hơn”...

Tôi không có ý định nói chi tiết về vụ này mà muốn trở lại cái đêm Noel trong xà lim số 6. Xà lim là tiếng dịch theo âm Việt Nam của “cellule” (tiếng Pháp), xuất hiện trong văn chương và báo chí từ thời Pháp thuộc. Thực ra nếu tra tự điển tiếng Anh Việt hay Pháp Việt, chữ cell hay cellule đều có nghĩa là “tế bào”. Trong các trại tù của những quốc gia theo chủ nghĩa tư bản cũng như chủ nghĩa cộng sản, hoặc các quốc gia dân chủ tự do, những “tế bào” vẫn được hiểu là những phòng biệt giam cá nhân để trừng phạt những tù nhân nguy hiểm. Những phòng biệt giam cá nhân này thường được xây dựng theo một tiêu chuẩn giống nhau: Không gian nhỏ hẹp của chúng phải đáp ứng được nhu cầu trừng phạt cả thể xác lẫn tinh thần người tù. Riêng tại các trại cải tạo do người Cộng Sản dựng lên, những phòng biệt giam cá nhân được gọi bằng một nhóm từ “nhà kỷ luật”. Trại A ở A-20 Xuân Phước có một dãy 10 phòng biệt giam cá nhân, mỗi phòng như vậy giống như một cái hộp với bề rộng 3 thước, dài 3 thước, cao 6 thước, xây dựng bằng vật liệu bê tông cốt sắt, kín mít chỉ có một lỗ tò vò nhỏ ở cánh cửa trước để cho vệ binh kiểm soát tù nhân ở bên trong. Ở phía trong mỗi xà lim cá nhân, có hai bệ nằm song song, cách nhau bằng một khoảng hẹp khoảng nửa thước. Người tù nằm trên bệ quay mặt ra phía cửa hai chân bị cùm chặt bằng một cùm sắt (trong hình), có nhiều trường hợp bị cùm cả hai chân hai tay.

Nhưng cùm như thế nào? Có phải là cùm bằng còng số 8 như ta thấy cảnh sát Mỹ còng tay phạm nhân để giải giao về sở cảnh sát không? Thưa không phải như vậy! Làm gì chúng tôi lại được ưu đãi đó. Loại còng trong những xà lim mà tôi trải qua suốt 5 năm liên tiếp tại A-20 trong rừng Xuân Phước là “cùm Omega”. Tại sao lại gọi loại cùm này bằng cái tên của một hiệu đồng hồ rất nổi tiếng là đồng hồ Omega. Hai cái vòng sắt để khóa hai chân người có hình thù giống y chang logo của đồng hồ Omega (minh họa của Bùi Ánh). Khi bị còng trong xà lim, người tù cải tạo bị đẩy ngồi lên bệ nằm, duỗi thẳng hai chân. Viên cán bộ an ninh trại giam sai một trật tự lấy ra một lô vòng sắt hình ký hiệu omega ra và ướm thử vào cổ chân người tù. Nếu đám an ninh trại giam không có ý định trừng phạt nặng tù nhân cải tạo thì họ ra lệnh cho trật tự lấy hai vòng omega vừa vặn với cổ chân người tù cải tạo. Ngược lại nếu họ muốn trừng phạt nặng và muốn làm nhiễm độc thối chân người tù, họ tra vào cổ chân tù cải trạo hai vòng omega nhỏ hơn vòng cổ chân rồi đóng mạnh xuống. Khi cổ chân người tù lọt vào được chiếc vòng omega, nó đã làm trầy trụa một phần hay nhiều phần cổ chân người tù. Sau đó, họ tra vào bên dưới một cây sắt dài qua những bốn lỗ tròn ở hai vòng omega, một đầu cây sắt ăn sâu vào mặt tường trong, đầu phía ngoài của thanh sắt được xỏ qua một chốt được gắn thật sâu xuống cạnh bên ngoài của bệ nằm. Một cây sắt khác ngắn hơn, một đầu được uốn tròn, đầu kia của cây sắt này được đánh dẹp và khoan một lỗ nhỏ. Khi hai thanh sắt này được khóa chặt với nhau thì một đầu của cây sắt dọc sẽ xuyên qua một lỗ nhỏ tường phái trước, thò ra ngoài ra ngoài một đoạn. Chỉ việc tra một cái khóa vào đầu phía ngoài ấy của thanh sắt dọc là tất cả hệ thống trên sẽ tạo thành một cái cùm thật chặt khó lòng một người tù nào có thể mở khóa vì mấu chốt để tháo cùm là ổ khóa bên ngoài. Phải mở được ổ khóa bên ngoài thì mới mở được cùm.

Có bốn mức cùm dành cho một tù cải tạo khi họ bị biệt giam ở trại Xuân Phước:

Mức độ 1: Cùm một chân phải,
mức độ 2: Cùm một chân trái,
mức độ 3: Cùm hai chân,
mức độ 4: Cùm hai chân hai tay.

Tôi đã trải qua mức độ 4 trong 8 tháng liên tiếp, sau đó giảm xuống mức độ ba, rồi lại tăng lên mức độ 4 trước khi giảm xuống mức độ 3, 2 rồi 1. Khi còn bị cùm mức độ 4, ngoài hai bữa ăn và ban đêm, tôi được tháo cùm 2 tay, thời gian còn lại lúc nào tôi cũng phải ngồi cong như con tôm luộc vì kiểu cùm độc ác này. Sở dĩ tôi được giảm xuống mức độ 3 rồi trở lại mức độ 4 chỉ vì một sự kiện: Sự can thiệp của Hội Ân Xá Quốc Tế để thả tôi ra. Khi hai thành viên của Hội này là bà Frederick Fuchs (người Bỉ) và ông Pierre Carreaux (cựu chiến binh người Pháp) từ Belgique bay qua Bangkok với một danh sách 14 ký giả, phóng viên bị trả thù bởi chế độ mới tại Việt Nam và đòi đến Hà Nội để được gặp mặt những người này. Chỉ có bà Fuchs là được vào Hà Nội, nhưng bà chỉ được nhận hồ sơ can thiệp và được phép thăm bà mẹ tôi tại Saigon chứ không được đến trại A-20 gặp mặt tôi. Khi bà Fuchs đòi chiếu khán ở Bangkok để vào Hà Nội trùng vào thời điểm tôi được tháo cùm hai tay và thời gian bà Fuchs rời Hà Nội trùng thời gian tôi bị trở lại mức cùm số 4.

Trước khi tôi được tháo cùm hưởng ân huệ ở mức độ 2, thì một phái đoàn do Hoàng Thanh hướng dẫn từ Hà Nội vào “thăm” A-20. Ông ta lôi một lô những người tù cải tạo đang nằm trong biệt giam tại trại A cũng như B ở A-20 ra thẩm cung. Tôi được một trong những thẩm vấn viên cho xem bản sao những lá thư can thiệp đòi thả tôi, và 13 ký giả khác trong đó có kèm theo cả những lá thư của bằng hữu và đồng nghiệp với tôi ở Pháp, trong đó có thư của ông Trần Văn Ngô tức ký giả Từ Nguyên, một cựu phóng viên của Việt Tấn Xã thuộc lớp đàn anh chúng tôi. Sau đó anh ta nói thẳng với tôi:

Bọn mày thấy đấy, mấy thằng Tây này kể cả mấy thằng ký giả Việt gian chạy trốn tổ quốc không thể đánh tháo chúng mày được. Khôn hồn thì chịu cải tạo để không bị chết trong cùm. Suốt đời chúng mày sẽ không ra khỏi cái thung lũng này được đâu. Ân Xá Quốc Tế hả, còn khuya bọn nó mới làm gì được chúng tao”.

Tôi không trách gì việc can thiệp này mà lại còn vui là đằng khác, bởi vì nó củng cố cho tôi một niềm tin và thấy được tấm lòng hào sảng của bạn bè đồng nghiệp ra được nước ngoài. Tôi thành thật tri ân họ.

Những ngày tiếp theo, tôi bị nâng cùm ở mức độ 4 và bị cắt khẩu phần ăn xuống chỉ còn bằng một nửa so với các anh em bên ngoài, nghĩa là chỉ còn mỗi bữa ăn 150 grams. Nếu tính chi ly ra thì 150 grams thực phẩm mỗi ngày gồm khoản 5 lát khoai mì khô luộc và một muỗng cơm, tất cả chan đẫm nước muối và được phát cho nửa ca nước một ngày. Ăn mặn và uống nước ít, người rất dễ bị phù sẽ ảnh hưởng tới thận. Trong tù mà bị thận thì kể như tàn đời. Cho nên ăn lúc đó trở thành ít quan trọng hơn dù lúc đó chúng tôi đã là lũ ma đói. Cái khát triền miên đã che đi cái đói. Nếu tôi muốn ăn muốn ăn được khẩu phần dành cho người đang bị trừng phạt phải dùng ít nhất nửa phần nước để rửa bớt cái mặn của nước muối được chan vào cơm và khoai mì. Tôi không dám hy sinh những muỗng nước quý như vàng lúc đó để rửa phần khoai. Tôi nghĩ chỉ có cách nhịn, nhưng càng đói lả đi thì mồ hôi ra như tắm, một tình trạng hết sức nguy hiểm. Cha Vàng thấy tôi lả đi, ngài đập cửa báo cáo nhưng đám cán bộ của nhà kỷ luật im lặng, coi như không có chuyện gì xảy ra. Buổi trưa hôm đó, cha Vàng nẩy ra một ý kiến. Ngài nói:
Anh không thể tránh ăn mãi như thế. Nếu Chúa che chở cho mình, phù cũng không chết. Bố tự trách không nghĩ ra việc hy sinh nửa ca nước của bố cho anh. Khoai mì ít ngấm nước muối hơn. Bố sẽ hy sinh nửa phần nước để anh rửa khoai mì cho bớt mặn”.

Tôi khước từ:

Bố (trong tù chúng tôi đều gọi tất cả các tu sĩ của các đạo giáo là bố hết) lớn tuổi sức chịu đựng yếu rồi, nhịn khát như con không được đâu”.

Ông cười:

Sao biết không được, đã thử đâu mà biết không được.

Tôi chọc ngài cho bớt căng thẳng:

“Thế bố đã thử chưa mà khi đi giảng đạo có lúc bố nói về hạnh phúc lứa đôi”.

Cả hai chúng tôi đều cười vang. Cha Vàng nói:

“Ê này, để bố nói cho anh nghe chuyện này. Bố dù là linh mục thì cũng là người, con tim cũng rung động như mọi người khác, nhiều lúc bố cũng muốn thử. Những lúc như thế mình phải tranh đấu với chính bản thân mình ghê lắm để đừng vượt rào đi ăn tình. Ðiều này cũng cần can đảm mới làm được. Tín đồ kính trọng người tu hành là kính trong sự can đảm ấy, kính trọng sự vượt qua để phụng sự, chứ nếu giống như thường tình thì nói gì nữa”.

Vâng thưa quý vị, giải pháp của Cha Vàng đã khiến cho một tuần, hai tuần, ba tuần qua đi nhanh và vô hiệu hóa được sự trừng phạt. Vào tuần lễ thứ tư của cuộc trừng phạt, như một phép lạ, viên cán bộ phát cơm nhà kỷ luật không phải là tên trực trại như thường lệ mà là một anh chàng lạ hoắc. Tù nhân mang cơm cho nhà kỷ luật cũng không phải là Hùng đen mà là Tuấn “sún” ở đội tù hình sự. Thông thường, khi vào phát khẩu phần cho nhà kỷ luật, viên cán bộ trực trại thường mở xà lim có tù nhân “bị gởi” (tù nhân bị ăn chế độ trừng phạt) trước. Nhưng lần này thấy các xà lim được lần lượt mở từ 1 cho đến 9 (số hên?) Xà lim 10 không có “khách”.

Ðến xà lim số 6, cha Vàng đưa hai chiếc bát nhựa và hai ca đựng nước ra trong khi viên cán bộ đích thân mở khóa tay cho tôi. Viên cán bộ này mặc đồ công an không lon lá gì cả nên không biết cấp bậc anh ta. Phát khoai xong, thấy Tuấn “sún” múc một vá nước muối, viên cán bộ nói ngay:

“Ít muối thôi, chan đẫm vào, làm sao người ta ăn được”.

Ðến phần nước, khi thấy Tuấn “sún” múc đầy cả hai ca, tôi hiểu rằng hôm đó tên cán bộ trực trại có việc gì đó không mở trại kỷ luật được, nên nhờ bạn thay thế. Vì làm thế nên anh chàng này không còn nhớ hoặc không thèm nhớ là trong trại có tù nhân phải ăn khẩu phần dành cho chế độ trừng phạt. Phát xà lim số 9 xong, lại thấy có tiếng chìa khóa mở cửa xà lim số 6 của tôi. Tôi đinh ninh rằng họ quay lại để lấy bớt phần nước nên tôi vội vàng cầm ca nước uống hết. Nhưng không, Tuấn “sún” xách thùng nước đứng ở cửa phòng hỏi:

“Có gì đựng thêm nước không”.

Tôi nói:

“Có.”
và đưa ca nước ra. Tuấn “sún” đổ đầy hai ca nước, rồi lại hỏi:

“Còn đồ đựng nước khác không?”

Cả hai chúng tôi lắc đầu. Viên cán bộ xen vào

“Ðổ vào thau cơm cho họ, chiều hay mai lấy ra”.

Hình phạt dành cho tôi chấm dứt vào đầu tháng 11. Tôi đoán hết lý do này đến lý do khác khiến chúng chấm dứt sự trừng phạt đối với tôi. Nhưng cha Vàng nhận định:

“Nếu cần phải giết chúng ta, chúng đã tùng xẻo mình ngay từ lúc đầu. Ðoán làm gì cho mệt…”

Cuối tháng 11, cả hai chúng tôi đều được mở cùm cho ra đi tắm, lần đầu tiên sau 3 năm biệt giam. Khi được mở cùm, tôi đứng lên không nổi vì hai chân dường như cứng lại. Cha Vàng cũng nằm trong tình trạng ấy, nhưng ngài mới bị biệt giam hơn một năm nên còn lết được. Chúng tôi bám lấy nhau theo hướng dẫn của trật tự đi ra ngoài giếng được đào bên cạnh một ao cá ngay sau nhà kỷ luật. Thời tiết tháng 11 ở vùng tiền sơn Tuy Hòa đã lạnh lắm rồi. Tôi còn có được một cái áo lạnh tự may bằng cách phá một chiếc chăn len của một bạn tù cho từ năm 1980. Khi được cho chiếc chăn len này, tôi nghĩ ngay đến chuyện may thành chiếc áo giống như áo trấn thủ. Trò may vá trong các trại tù cũng là một thú tiêu khiển và giết thời giờ. Chúng dùng những cọng sắt để làm kim và chỉ thì bằng những sợi rút ra từ những chiếc áo hay quần may bằng bao cát. Chính ở những trò may vá này, chúng tôi học được một bài học: Cùng thì tắc biến. Trước những trò đàn áp, những mưu chước thô bạo quản thúc con người trong các nhà tù cộng sản, vẫn có rất nhiều người vượt qua được cơn khốn khó do bản năng sống còn của họ rất mạnh. Cứ thử nghĩ một người nếu ăn bất cứ con vật gì mà họ bắt được kể cả rít núi, cỏ kiểng, ăn sống cả loại khoai mì H-34 có nhiều chất độc trên đất Hoa Kỳ này, thì chỉ có nước vào nhà thương sớm. Nhưng thời gian dưới các nhà tù Cộng Sản bệnh không có thuốc, ăn bậy bạ mà các tù nhân cải tạo ít bị hề hấn gì. Tôi nghĩ một cách chủ quan rằng chỉ có phép lạ hay bản năng tự tồn của người khi bị đẩy vào cùng quẫn mạnh, mới giúp cho một người tù sống được và có ngày trở về. Một số bạn tù của tôi sau này hay nói đến chuyện sống vì tinh thần, lúc đầu tôi chỉ coi là chuyện vui, nhưng ngẫm nghĩ lại thấy cũng có phần chí lý. Khi một người tù chấp nhận phần xấu nhất về mình, sẽ bất chấp những đòn thù. Vì một người biết chấp nhận phần xấu nhất về mình trong hoàn cảnh lưu đầy, sẽ chẳng còn gì phải suy nghĩ về hiện tại lẫn tương lai, ngày về. Lúc đó nếu Việt cộng có bắn mình một viên vào ngực, có lẽ điều đó được coi là ân huệ hơn là kéo dài cuộc sống của những người tù theo cách nửa sống, nửa chết như thế. Cho nên, người cộng sản có thể tính được nhiều trò đàn áp, hành hạ con người, nhưng không tính được điều liên quan đến bản năng và tinh thần của con người.

Khi chúng tôi ra đến bờ giếng là muốn trở lại ngay xà lim. Còn tắm táp gì trong điều kiện thời tiết này. Thấy Cha Vàng run lên bần bật vì gió lạnh. Ngài lại chỉ mặc một chiếc áo len mỏng bên trong bộ đồ tù, nên tôi cởi chiếc áo trấn thủ và nói:

“Bố đưa chiếc áo len con, bố mặc chiếc áo của con vào ngay. Bố phong phanh thế, cảm lạnh bây giờ. Bố nhớ rằng ở đây không có thuốc, mặc chiếc áo này của con đi, bố đưa áo len cho con”.

Ông nhất định không chịu, nhưng cuối cùng tôi vẫn lột chiếc áo len của cha Vàng ra và mặc chiếc áo trấn thủ mang bằng chăn len hai lớp của tôi, tôi mặc chiếc áo len của ông. Dĩ nhiên chúng tôi chẳng tắm táp gì được cả, ngồi núp vào bức tường che giếng nước để tránh gió. Cha Vàng ít run rẩy hơn. Ngài đứng dậy và vung tay cử động. Tôi làm theo ngài. Tôi có cảm tưởng cứ mỗi lần vung tay cử động theo kiểu Dịch Cân Kinh thì chúng tôi choáng váng có thể chúi về trước, nhưng đồng thời cũng cảm thấy bớt lạnh. Viên cán bộ trực trại dặn chúng tôi:

“Các anh tắm thì tắm, không muốn thì thôi. Nếu không thì ngồi đây phơi nắng (ở Xuân Phước, mùa Ðông thường không thấy mặt trời). Cấm không được liên hệ với ai”.

Nói xong, anh ta bỏ đi.

Nói thì nói vậy, nhưng các anh em trong nhà bếp đều là anh em sĩ quan cải tạo, nên cũng tìm cách tiếp tế cho chúng tôi vài miếng cơm cháy, mấy tán đường. L.S, một người Việt gốc hoa, một tỷ phú, vua máy cày trước 30-4-1975 bị đẩy lên trại này sau khi lãnh cái án 20 năm tù sau đợt đánh tư sản mại bản lần thứ nhất, đang được cắt cử coi vườn rau cải. Ông ta từ vườn rau đi khơi khơi, không lén lút gì, đến thẳng chỗ chúng tôi, đưa một gói bánh trong đó có ít bánh bisquit lạt và ít đường tán, và thiết thực hơn là khoảng 10 viên thuốc B1. L.S nói:

“Ngộ biếu, bánh đường ăn hết ở ngoài này đi, đừng mang vào chúng nó sẽ tịch thu. Thuốc B1 cần cho các nị lắm á. Cứ ăn từ từ, đừng có lo, nhà nước ‘no’ hết ”.

Xong ông ta bỏ đi.

Nhóm người Việt gốc Hoa sống trong trại rất đầy đủ, nhưng đối với chúng tôi, lúc nào họ cũng cư xử đàng hoàng. Những tin tức từ bên ngoài được đem vào trại của họ khá chính xác. A-20 là trại trừng giới nhưng quà thăm nuôi hàng tháng của họ chất đầy chỗ nằm. Mỗi lần thăm gặp họ ở với gia đình cả ngày ở ngoài nhà thăm nuôi cũng được, nếu họ muốn. Nhưng ít khi nào họ hành động như vậy. Môi trường ở A-20 là môi trường tế nhị. Những doanh nhân này đầu óc rất thực tế: Có tiền mua tiên cũng được huống chi đám cán bộ trại giam vốn cũng đói rách. Cái giá của việc khơi khơi đến tiếp tế cho chúng tôi ít ra cũng phải trả bằng 6 tháng biệt giam, nếu bị bắt gặp. Nhưng 6 tháng biệt giam chỉ tương đương với 2 cặp lạp xưởng. Ông là người tù duy nhất ở trong trại có thể trả cái giá ấy bằng lạp xưởng hay nửa bao thuốc lá ba số 5 thay vì vào biệt giam. LS biết chắc rằng buổi tối hôm ấy, tên trật tự (bị án chung thân vì tội cướp có súng) sẽ xuống gọi LS ra cửa sổ buồng giam và xin hai ặp lạp xưởng cho cán bộ nấu xôi. Cho nên, LS đi đâu một lúc rồi ông ta trở lại với cái điếu cày, diêm và nói:

“Thuốc lào này say lắm, cẩn thận. Ðừng mang diêm vào biệt giam”.

Hút xong thuốc lào, chờ cơn “phê” nhạt dần, tôi chợt nẩy ra ý kiến:

“Bố ơi mình giấu 2 bi (tiếng lóng của hai điếu) để đêm Noel hút”.

Tôi quận nhúm thuốc còn lại cho thật nhỏ vào bao nhựa đựng 10 viên B1 và nhét vào gấu quần. Cái gấu quần là chỗ hôi thối của những người tù 3 năm không được tắm, chắc không có ai muốn sờ đến nên có thể an toàn. Biệt giam là nơi cấm hết mọi thứ kể cả thuốc hút nên chúng tôi phải hành động như vậy. Và quả thật, trước khi mang chúng tôi vào lại xà lim, trật tự Hùng đen chỉ khám sơ sơ. Tôi và Cha Vàng đã thắng.

Nhưng vào đến xà lim, sau khi xỏ chân vào cùm, nghĩ lại tôi mới thấy thất vọng: lửa ở đâu mà hút. Thảo luận mãi, Cha Vàng đưa ý kiến, lấy lửa bằng phương pháp của thời kỳ đồ đá. Tôi lại chọc vị tu sĩ Công giáo rất hùng biện này:

“Bố con mình đang ở thời kỳ đất sét mà bố nghĩ đến phương pháp của thời kỳ đồ đá”.

Cha Vàng cười:

“Mày chỉ tầm xàm. Ðứng đắn đấy. Ðêm Noel mình sẽ hút thuốc lào, bố có cách rồi”.

Sau đó cha Vàng giảng giải cho tôi cách lấy lửa “thời kỳ đồ đá”. Vị tu sĩ nói như giảng đạo:

“Này nhé, con có biết rằng nền văn minh ngày nay đến từ việc phát minh ra lửa. Lửa chế ngự đồi sống con người khi họ thoát ra thời kỳ ăn lông ở lỗ… Con người thời kỳ đồ đá đã biết dùng đá chọi vào nhau cho đến khi xẹt lửa. Những tia lửa đó rớt xuống đám lá khô dễ bắt lửa và họ thổi cháy thành ngọn lửa”.

Chà Vàng nói:

“chỉ cần một thanh vỏ tre và áo mục”.

Tôi hỏi Cha Vàng:

“áo mục thì có sẵn, nhưng thanh vỏ tre?”

Cha Vàng cười:

“Bố giao nhiệm vụ cho mày nếu bị kêu đi thẩm cung, thế nào trước Noel chúng cũng gọi chúng ta ra tra vấn và khám xà lim, một biện pháp an ninh trước những ngày lễ trọng…”

Do kinh nghiệm, cha Vàng nói đúng. Năm ngày trước Noel, trời có nắng, những tia nắng hiếm hoi xuyên qua cửa tò vò vào phòng giam. Ngài vội lấy chiếc áo tù bằng vải thô vá chằng vá đụp, xé hai mảnh nhỏ. Ngài nói:

“Ðây là cái áo bố đã giặt rất sạch trước khi vào đây, để làm con cúi lấy lửa khi cần. Xé nó ra phơi cho thật khô. Cuộn lại cho chặt thành một cuộn bằng ngón tay cái. Dùng móng tay đánh tơi một đầu, đánh thật tơi cho đến khi sợi vải ở đầu con cúi xuất hiện một lớp bông. Dùng miếng vỏ tre thật mỏng luồn nó vào cái khe hẹp để gắn quai dép lốp rồi kéo cho đến khi thanh tre nóng bỏng. Hơi nóng của bột tre dính trên mặt bông của con cúi, lửa sẽ ngún và thổi nhè nhẹ vết lửa sẽ loang ra, chỉ cần thổi nhẹ là lửa sẽ bật lên”.

Nghe Cha Vàng nói tôi tưởng là ngài nói chuyện thần thoại. Nhưng do vẫn nghĩ đến phép lạ, nên tôi nghe theo lời ngài. Tôi nghĩ đây là một trò vui và cũng là dịp tự thử thách mình. Ðúng như dự đoán, trước Noel 1984 ba ngày, lần lượt chúng tôi bị kêu ra ngoài thẩm cung và xà lim bị khám xét rất kỹ. Nhưng họ vẫn không phát giác ra được mấy điếu thuốc lào và thuốc B1 tôi giấu trong lai quần. Có lẽ do người hôi thối quá nên, anh cán bộ nào cũng sợ mó vào quần áo tôi. Chỉ còn thanh tre mỏng. Tôi nghĩ ra một kế nên báo cáo cán bộ cho xin một thanh tre mỏng mang vào xà lim để làm dồ cạo lưỡi. Viên cán bộ hỏi tôi:

“Lưỡi anh làm sao?”

Tôi nói:

“Ðóng bợn ba năm rồi không được cạo, nên xin cán bộ.”

Anh ta không nghi ngờ gì cả nên gật đầu:

“Nhưng tre ở đâu ra?”

Tôi nói ngay:

“Ở nhà bếp chắc có”.

Anh cán bộ gọi trật tự Hùng đen:

“Xuống nhà bếp bảo họ cho tôi một vỏ tre cạo lưỡi cho anh này”.

Tôi lại gặp may lần nữa. Mấy anh em nhà bếp tưởng làm cây cạo lưỡi cho cán bộ nên họ làm rất kỹ và tôi có một thanh cạo lưỡi bằng vỏ tre khô dài khoảng 2 gang tay.

Sau khi trở lại xà lim, tôi bắt đầu thực tập ngay. Tháo một quai dép lốp ra, tôi luồn thanh tre vào và dùng hai tay kéo cưa. Thấy nóng thật, tôi ra sức kéo mạnh. Cha Vàng vội can:

“Kéo từ từ, thở ra hít vào đều, ít ra cũng một tiếng đồng hồ”.

Tôi lại chọc cha Vàng:

“Bố ơi, mình đang ở thời kỳ đồ đất mà kéo như thế này, chắc phải ăn 5 phần khoai mì may ra mới bù lại được. Ðồ đất dễ vỡ lắm!”

'Vị linh mục cười hiền lành:

“Thôi đừng có nói nữa, anh nói nhiều xì hơi còn sức đâu mà kéo.”

Trong khi tôi đánh vật với chiếc dép và thanh tre, thì Cha Vàng móc trong tay nải lấy hai miếng vải đã phơi khô ra và làm thành một con cúi. Ông chà một đầu con cúi xuống sàn rồi lấy móng tay út lúc đó đã dài như móng tay của mấy bà người Tàu bó chân, khẩy khẩy cả tiếng đồng hồ vào những thớ vải lúc đó đã hơi bung ra. Ðến khi thấy mệt, mồ hôi ra như tắm, tôi nói với Cha Vàng:

“Con chịu thua rồi bố ơi, mệt quá”.

Cha Vàng khuyến khích:

“Ðừng ngừng, tiếp tục để bố thử coi."

Tôi tiếp tục kéo. Bột tre đã văng ra có thể nhìn thấy trên sàn. Khi Cha Vàng lựa thế đưa cúi vào thì tôi gia tăng tốc độ. Cha Vàng reo lên:

“Hơi ngún rồi, tại chưa bén than vì anh kéo chưa đủ đô”.

Quả thật tôi cũng thấy một chút khói bốc lên. Ngày hôm sau, chúng tôi lại thử, một cuộc chạy đua tiếp sức của hai người. Ðể con cúi vải xuống sàn, tôi và Cha Vàng thay phiên nhau kéo, từ 9 giờ sáng cho đến hơn 11 giờ thì “phép lạ” đã đến. Ðầu con cúi bắt đầu ngún và có khói, có nghĩa là bột tre nóng quá độ đã khiến cho lớp bông nhẹ trên con cúi bén lửa. Một lát sau khi thấy xuất hiện những đốm hồng, Cha Vàng thổi nhẹ nhẹ, vết lửa lan ra, trang sử của mấy ngàn năm trước được lật lại. Cha Vàng tiếp tục thổi nhẹ để nuôi dưỡng ngọn lửa. Và khi đã ngủi thấy mùi khét của vải, ngài thổi hơi mạnh. Ngọn than hồng lan rộng ra hơn và cuối cùng chỉ cần một hơi nhẹ, ngọn lửa bùng lên. Vị tu sĩ nhìn con cúi vải có than hồng giống như một điếu thuốc lá mới được đốt lên, rồi cười vang: “Mình thắng”.

Ngài lục trong tay nải một miếng giấy châm vào cúi vải, ngọn lửa lan sang đóm giấy. Xong, cha nắm chặt tay tôi giơ lên cao như một võ sĩ được trọng tài nắm tay giơ cao sau khi đấm địch thủ đo ván.

Chúng tôi ngồi nghỉ một lát, sau đó Cha Vàng nói:

“Chúng ta đã học xong bài học lúc bố đã ngoài 50, còn con đã 33 tuổi. Nhưng tự bố, bố thấy chúng ta xứng đáng với bài học ấy. Ðó là kiên trì đạt mục tiêu trong hoàn cảnh khó khăn nhất”.

Ðúng vào tối 24-12-1984, trước khi Cha Vàng cử hành thánh lễ nửa đêm trong xà lim số 6, chúng tôi đã hút mỗi người một điếu thuốc lào. Hút bằng một miếng giấy cuộn tròn như loa kèn và ngậm nước. Hút như thế, miệng mình chính là cái điếu, và cũng có tiếng kêu, cũng chếnh choáng say như khi hút bằng điếu cày. Chỉ có điều khác với hút thuốc lào bằng điếu cày: Sau khi hút phải nhổ nước đi. Trong hoàn cảnh tôi và Cha Vàng lúc đó thì hơi tiếc vì chúng tôi thiếu nước uống kinh niên.

Kể từ ngày sống cùng một xà lim với Cha Nguyễn Văn Vàng, tôi học được nhiều điều. Trong suốt thời gian này, ngài giảng cho tôi bộ Tân Ước. Dù tôi là một Phật tử, nhưng nghe một nhà truyền đạo Công giáo chuyên môn giảng kinh, nên bộ Tân Ước đã củng cố những lập luận sau này của tôi rất nhiều. Quan trọng hơn hết, đó chính là kỷ niệm với một tu sĩ mà tôi kính trọng.

Tháng 4-1985, Cha Vàng lâm bệnh vào lúc sức khỏe của Ngài đã quá yếu. Có lẽ Ngài đã kiệt sức, sốt cao rồi đi vào hôn mê. Tôi đập cửa kêu cấp cứu suốt ngày, nhưng lúc tên trực trại chịu mở cửa để cho một y sĩ vào khám bệnh, thì mọi việc có vẻ quá muộn. Hai viên trụ sinh không đủ khả năng làm Cha Vàng tỉnh lại. Vào đúng lúc cả hai chúng tôi đều cảm nhận được mùa Giáng Sinh đã trở lại thung lũng Xuân Phước qua tiếng chuông của một nhà thờ dường như ở cách chúng tôi xa lắm vọng về trong đêm lạnh giá và u tịch
.

Linh Mục Nguyễn Văn Vàng qua đời ngay trong xà lim số 6. Trước đó, dù yếu và bệnh, Ngài đã bàn với tôi là làm sao có được bánh thánh lúc ngài làm lễ nửa đêm trong Noel 1985 mà con chiên duy nhất trước Ngài lúc đó lại là một Phật tử như tôi. Nhưng mơ ước của Ngài không thành, kể cả việc lớn trước đó là lập lực lượng võ trang để mong lật ngược lại tình thế của một đất nước vừa chìm đắm trong luồng sóng đỏ. Nhưng dù Ngài đã mất đi, trong suy nghĩ của tôi cho đến bây giờ, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vẫn là một ngọn lửa, âm thầm cháy như con cúi vải ngày nào bỗng bùng lên soi sáng cái không gian tăm tối của tất cả những xà lim đang hiện diện trên đất nước Việt Nam.

  

Hồ Chí Minh Khóc Với Môn Thi Sử hiện nay :

Hồ Chí Minh Khóc Với Môn Thi Sử hiện nay :
Báo Tổ Quốc 2011/08/23

Ông Hồ chí Minh phải khóc với bài thi lịch sử trong kỳ thi vào đại học năm nay. Hàng ngàn thí sinh “ăn hột vịt lộn”, tức bị điểm không. Hơn 90% học sinh điểm sử dưới trung bình. Câu hỏi chánh và nhân vật chánh của bài thi lịch sử là nguyên nhân ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.

Đề thi của Bộ Giáo dục và Đào tạo muốn làm nổi bật “sự nghiệp” Ông Hồ chí Minh, nhưng bị đa số thí sinh trả lời trớt quớt nói theo dân Miền Nam
hay “bôi bác” nói theo dân Miền Bắc. Ô. Hồ chí Minh đi theo Mác Lê bên kia thế giới đại đồng CS biết được sẽ khóc ròng, quở mắng những cán bộ đảng viên tuyên huấn trong ngành giáo dục là thứ ăn hại, đái nát, ăn cơm của tao mà hại tui, đã “tạo điều kiện” cho đám nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò bôi tro trét trấu vào mặt ông.

Thực vậy, qua một số bài thi Ô Hồ chí Minh bị biến thành một thanh niên trái ngược tuyên truyền thần thánh hoá của Đảng Nhà Nước CS Hà nội như sau. Tin Đài Á châu Tự do, “Thạc sĩ Đinh Kim Phúc hiện công tác trường Đại học mở TPHCM và cũng là chuyên gia nghiên cứu Biển Đông cho biết kinh nghiệm của ông khi đích thân chấm thi môn lịch sử. “Tôi tham gia chấm thi kỳ tuyển sinh vừa qua về môn sử. Tôi không biết ông Bộ trưởng Giáo Dục Phạm Vũ Luận sẽ nghĩ như thế nào khi nghe một số bài luận văn như sau:

Với câu một, nguyên nhân ra đi tìm đường cứu nứơc của ông Nguyễn Tất Thành thì một em viết: “Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước chứ có phải đi ngao du đâu?

Một em khác viết “Nguyễn Tất Thành tìm đường cứu nước vì người đã vứt bỏ tình yêu thương với một thiếu nữ cùng quê!

Rồi một em khác nữa viết, “Người không muốn đi theo vết xe đổ của đại thi hào Nguyễn Du!…”

Nhưng có lẽ cái bài làm sau đây tôi thấy nó phản ảnh nhất vấn đề dạy và học lịch sử khi một thí sinh viết như thế này: “Nguyễn Tất Thành (tên khai sanh là Nguyễn Sinh Cung) thuở nhỏ tính tình rất ngổ ngáo, người thường xuyên trốn học đi biểu tình, bị thực dân Pháp bắt được, đuổi học! Từ đó người căm thù thực dân, đế quốc mà ra đi tìm đường cứu nước’.”

Tới đây người đọc ắt hẳn đã phải cười
- cười ra nước mắt về hậu quả của việc Đảng Nhà Nước CS Hà nội đã chánh trị hoá quá mức học đường, công tác truyên truyền “quá tải”, o ép, nhồi nhét quá đà giáo chức và học sinh. Đó là một cách hoàn toàn “duy ý chí”, bất cần sự thật, bất cần đối tượng và môi trường nên bị phản tác dụng một cách thê thảm như thế.

Tội lỗi này hoàn toàn thuộc Đảng Nhà Nước CS Hà nội mà Bộ Giáo Dục, Đào Tạo là cơ quan chủ quản của ngành giáo dục đối với xã hội và là cơ quan thi hành và chịu trách nhiệm trước Đảng. Giáo chức và học sinh chỉ là nạn nhân. Những gì thí sinh đại học trong kỳ thi vào đại học năm nay – chớ đâu phải sơ tiểu gì – viết như trên là phản ứng tự nhiên từ tiềm thức của gia đình, học đường và xã hội. Đó là những ẩn ức tất yếu nổi lên chống lại những sai trái, giả dối mà Đảng Nhà Nước CS Hà nội qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã vì lý do chánh trị, tuyên truyền đã nhồi nhét, o ép vào học sinh qua sách giáo khoa mà Bộ soạn và phát hành.

Và qua những giáo án gần như rập khuôn, các giáo chức phải soạn theo sách giáo khoa của Bô. Và giáo chức phải trình giáo án cho ban “giám hiệu” [hiệu trưởng và phó hiệu trưởng] đa số là đảng viên duyệt mới được dạy. Đảng còn muốn kiểm soát tư tưởng của giáo viên và học sinh khi buộc giáo chức soạn bài phải dự trù “đáp án” là câu trả lời của học sinh trong và sau khi giảng.

Trong chế độ CS từ việc đào tạo giáo chức, đến làm ra sách giáo khoa, dĩ chí làm ra chương trình và thời khoá biểu, tất cả Bộ nắm hết. Thử tưởng tượng thánh sống cũng không dạy nổi, học nổi chương trình lịch sử lớp 4 cấp tiểu học từ thời Văn Lang tức đời Vua Hùng đến Nhà Nguyễn – tức gần thời lập quốc qua ba lần Bắc thuộc, qua bao thời kỳ độc lập Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trẩn, Lê, và Nguyễn.

Cả mấy ngàn năm lịch sử mà chỉ dạy trong một năm học, mỗi tuần 1 giờ, cho một học sinh lớp 4 mới 9 tuổi trung bình thôi. Trời dạy cũng không nổi thánh cũng không nhớ hết, huống hồ giáo chức và học sinh 9 tuổi!

Đảng Nhà Nước lại còn dùng quyền chánh trị “hiếp dâm lịch sử” và bắt học sinh học những đứa con quái thai của lịch sử bị Đảng Nhà Nước vo tròn, bóp méo, làm ra như anh hùng Lê Văn Tám (phịa), Võ Thị Sáu (phịa), Kim Đồng (phịa), Nguyễn Văn Trỗi (phịa về hành động gài mìn, thực sự là đi ăn trộm bị rượt phải chui xuống cầu Công Lý).

Đại ý cái gì của CS là “ưu việt”, cái gì không phải của CS là phản động. Đảng Nhà Nước CS Hà nội chánh trị hoá học đường, chánh trị hoá môn học lịch sử. Họ biến môn khoa học trở thành môn chính trị giả dối để tuyên truyền, để minh hoạ cho đường lối chính sách của nhà nước chứ không phải cho một ngành khoa học. Họ dùng màu sắc chánh trị đảng phái, giai cấp đấu tranh, biện chứng pháp của chủ nghĩa CS lồng vào hay sơn lên các sự kiện lịch sử. Họ làm một cách gượng ép, khiên cưỡng, phi luận lý, bất cần thời gian tính, dân tộc tính, trái với kiến thức lưu truyền được chấp nhận như lý tính thành văn rồi.

Do vậy thầy hết muốn dạy vì trái với sự hiểu biết và lương tri và lương tâm mình. Trò hết muốn học vì không hợp lý, không chân lý, trái với kiến thức phổ thông mà gia đình và xã hội đã biết và thường nói ra.

Môn văn cũng không khác gì. Đảng Nhà Nước cũng biến hoc sinh thành những tên ngợm chánh trị. Bạn Trí Đỗ theo dõi “Học sinh Viết Văn” có đưa lên webs một vài đoạn văn của học sinh trung học trong nước, đọc cười ra nước mắt.

Bình luận luân lý về câu “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, có em viết “Câu tục ngữ nói lên sự dã man của bọn giặc cướp, khi đã tràn vào làng mạc, nhà cửa thì không cứ đàn ông, mà cả đàn bà, trẻ em chúng cũng đánh đập, hành hạ…”

Bình luận văn chương về nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du, có em viết “Thúy Kiều là 1 người con gái tài sắc vẹn toàn, song nàng đã bị chế độ phong kiến vùi vào đống bùn nhơ. Đến nỗi, chịu không nổi, nàng đã nhảy xuống sông Tiền giang tự vẫn. May thay lúc đó có một bà đảng viên đi công tác về, bà liền nhảy xuống sông cứu nàng. Sau đó, Kiều giác ngộ và đi theo con đường Cách Mạng.

Về phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua các tác phẩm đã học của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, ở lớp 9, có em viết: “Sự bất công của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến đó là: Họ không được tham dự bóng đá quốc tế, họ không được lái xe nhất là các loại xe con, xe gắn máy. Ngày nay, quyền giải phóng phụ nữ đã được củng cố. Hàng năm người ta lấy ngày 8/3 làm quốc khánh phụ nữ..

Bài học về các chiến sĩ dũng cảm trong chiến tranh chống Mỹ, cô giáo ra một số câu hỏi cho học sinh lớp 12 trong đó có câu: hãy gỉai nghĩa thế nào là "dũng cảm". Một nam học sinh đáp: "Dũng cảm là đéo sợ"

Đó là chưa nói cái kiểu CS Hà nội làm nghèo, làm tối, làm rối, làm tội tiếng Việt mà CS gọi là “làm tốt” bằng chữ Hán, chữ mới lạ dù tiếng Việt đã có từ lâu và quen dùng rồi. Như đại trà là quy mô; đảm bảo = bảo đảm; đăng ký= ghi danh, ghi tên; đồng tình= đồng ý; đột xuất= bất ngờ; hồ hởi= phấn khởi ; làm việc= thẩm vấn, điều tra; năng nổ= siêng năng, tháo vát; quán triệt= hiểu rõ; sơ tán= tản cư; sự cố= trục trặc; tờ rơi = truyền đơn: cưới vợ = tổ chức: bữa ăn thịnh soạn=bữa ăn có văn hóa....

Nguồn: Báo Tổ Quốc

Mời xem tiếp "thành quả giáo dục" của các nhà" đỉnh cao trí tẹt" :D

Làng tỵ nạn Việt Nam tại biên giới Việt-Trung

Huỳnh Tâm

“..Đôi lúc tôi nhận được tiếng thở dài của La Minh và nói: ‘Khi chưa có chiến tranh ai cũng biết Tổ quốc mình ở đâu, còn hôm nay chúng tôi không biết mình là ai’. Vinh nói theo:
Giấc mơ lớn nhất của tôi, chỉ cần có được danh tính thân phận mình là ai’...”

Sau tám năm (19/2/1979 ─ 21/8/1987 ). Chiến tranh Việt Nam‒Trung c
ộng khởi sự từ đó cho đến thời điểm này vẫn còn tiếp diễn trên những cao điểm, tiếng súng qua lại giữa Việt Nam và Trung cộng không hề hứa hẹn thời gian đình chiến, bởi nhà nước Trung cộng lấy quyết định dùng giải pháp súng đạn làm tiêu chuẩn cho ân oán nợ chiến tranh.
Thượng lưu sông Kỳ Cùng, người dân Trung cộng gọi Sông Các ( Ảnh: GS. La Minh )
Trung cộng ở thời nào cũng thế, mỗi khi có chiến tranh thường đem dân làm mộc-nhân và dùng lính làm biển người, do đó đã có những làng tỵ nạn Việt Nam mọc lên tại biên giới phiá Nam thuộc tỉnh Vân Nam Trung cộng. Tuy chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung cộng chưa yên, thế mà chúng tôi mạo hiểm, lần đầu tiên đến địa điểm đã ước hẹn trước, sáng hôm ấy ngoài trời lành lạnh sương mù, đứng tại đầu lãnh thổ Việt Nam, năm xưa thuộc tỉnh Lạng Sơn của tổ quốc thân yêu. Cũng ở địa điểm quanh đây vào ngày 21/2/1979 xuýt nữa chúng tôi bỏ mạng, vùi thây dưới lòng sông Kỳ Cùng, bởi súng đạn của Trung cộng càn quét sâu 40km vào tận lãnh thổ Việt Nam. Gây ra biết bao cảnh điêu tàn, thảm khốc, không thể nào điểm danh từng xác chết của người dân bản làng và dân quân sống tại biên giới Việt Nam, họ chết nhiều kiểu cách khác nhau, nào là trong trong rừng, khe núi, dưới suối, trôi bồng bềnh trên dòng song Các, song Bình Nhi và đầu nguồn sông Hồng. Truyền thông Quốc tế gọi đây là cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 3.
Mảnh đất này, trước đây là của Việt Nam, ngày này thuộc về lãnh thổ của tỉnh Vân Nam, Trung cộng. Chúng tôi đứng trên núi cao cách làng tỵ nạn Việt Nam 7 cây số, nhìn về xứ sở, quê hương ẩn hiện qua xưng mù, ký ức hồi tưởng nơi chào đời mà lần đầu tiên tự miệng biết gọi hai tiếng Mẹ‒Cha. Tuy đứng trên đất tổ mà lại thuộc xứ người làm sao không khỏi bồi hồi, xót xa, lòng xao xuyến và tự hỏi: Quê hương mình đang suy nghĩ gì về phần đất đã bị mất vào tay Trung cộng hay có ý định nào trở mình không. Một câu hỏi trong ý thức hay vô tình sỉ nhục tôi, cũng có thể sỉ nhục lớn đối với chế độ đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đương thời!

Trên núi cao đèo Rắn thuộc tỉnh Vân Nam, nhìn về hướng đất nước tôi bên kia sông Bình Nhi (Ảnh: GS. La Minh)
Những năm trước 1987, nhà nước Trung cộng quảng cáo đã chiếm lĩnh được của Việt Nam những phần đất biên giới có tầm cở chiến lược quốc gia, bộ máy truyền thông của Trung cộng dồn dập lưu diễn tại Miến Điện, Kazakhstan, Nga, Mông Cổ và biên giới Trung- Bắc Hàn, họ đồng một luận giải theo ngôn ngữ đại Hán. "Chư hầu Việt Nam hiến dâng biên giới, Trung cộng không từ chối". Nay họ phối trí lại cơ sở hạ tần cấp Huyện, Xã tại biên giới hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây. Trung cộng làm một công trình hợp pháp về lãnh thổ biên giới, lúc ấy Việt Nam âm thầm không lên tiếng, mặc nhiên công nhận dâng hiến đất liền biên giới cho Trung cộng, cho nên Quốc tế không có lý do nào để chỉ trích Trung cộng hay can thiệp cho Việt Nam. Theo báo chí và truyền thông Quốc tế cũng loan tải "1979 Việt Nam hiến dâng phần đất liền biên giới, hàng ngàn dặm cho Trung cộng".

Trung cộng còn tuyên bố ngoại giao: "Đất liền biến giới phía Nam rộng thênh thang, có được hàng ngàn dặm nhờ Việt Nam mở rộng phong cách mới".

Trước năm 1987 Trung cộng có những hành vi bất lương, như báo chí Trung cộng tung ra nhiều loạt các báo cáo chủ quyền về đường biên giới, lập danh sách đặt lại tên cho những dãy núi lớn, nhỏ không bỏ sót một quả đồi nào, lập danh sách địa danh mới và còn ghi rõ khí hậu biên giới. Họ tổ chức nhiều đơn vị biên phòng đi tuyên truyền cái nhân đạo của nhà nước Trung cộng, đôi khi còn đột nhập vào thành phố ở biên giới Việt Nam và những ngôi làng nhỏ khuyến dụ dân làng làm tình báo cho họ.

Chúng tôi đang ở "Dòng nhà làng" tại nhà Họa sĩ La Minh, đến ngày thứ tư La Minh rủ chúng tôi đi thăm Lê Văn Vinh một người bạn cùng thời thơ ấu, Lê Văn Vinh hiện ở tại ngôi làng tỵ nạn Việt Nam có tên "Âu nhà làng", lộ trình đường bộ khoảng 6km.

Lê Minh tay chỉ, miệng nói:

─ Âu nhà làng, lờ mờ bên núi xa xa, đó là làng của Vinh.

Thế mà chúng tôi phải trèo núi vượt suối gian nan mất hai giờ liền mới đến nơi, La Minh cho biết đi đường chim bay. Nếu đi đường Quan Công thì mất 4 giờ. "Âu nhà làng" nằm trong thung lũng của khe núi Âu, tôi đã đi qua hai làng tỵ nạn Việt Nam quan sát thấy có một đặt điểm chung, họ nói nhiều ngôn ngữ khác nhau như Việt, Hoa và các sắc tộc biên giới, tuy nhiên tiếng Việt là ngôn ngữ giao thiệp chính, tại làng này có 1476 người tỵ nạn, còn "Dòng nhà làng" dân số đến 2574 người. Chúng tôi gặp nhau trong hoàng cảnh xúc động, có ai biết trước sự hy hữu của con nguời. Trái đất này không phụ tình người, nếu có quyết định thì nơi nào cũng đến và đi đều được cả.

Sau buổi cơm trưa, chúng tôi hàn huyên trăm ngàn chuyện cũ từ Sài Gòn đến Chợ Lớn, điểm qua bạn bè, thân thuộc, gia đình và kẻ sống ở đâu, người chết nơi nào, có những lúc Minh và Vinh xúc động khóc như trẻ thơ, vì Minh, Vinh đồng nạn nhân của năm 1975, như mọi người dân miền Nam Việt Nam, nhưng không ai hiểu thấu Minh, Vinh trải qua trắng sạch sự nghiệp và biến đổi cuộc đời bần cùng vào ngày 19/2/1979 giữa chiến tranh Việt-Hoa tại biên giới.

Trước đây Lê Văn Vinh nguyên là Cử nhân Hóa, phụ giảng Đại học Khoa Học Sài Gòn, nay là bác nông phu tại "Âu nhà làng" cư ngụ hay tạm trú trong núi rừng heo quạnh, không còn dịp trở mình, tuy nhiên chỉ còn hy vọng, ngày mai con cháu sẽ hơn cha mẹ.

Còn về La Minh, trước 1975 nguyên Giáo Sư trường Mỹ Thuật Gia Định và Bác Ái, chủ của một nhà in rất lớn tại đường Hồng Bàng Chợ Lớn, tranh của La Minh thường triển lãm tại Chợ Lớn, Hồng Kông và Đài Loan. Gia phả của La Minh đã 7 đời không còn gốc ngọn người Hoa, tổ tiên của anh từ chối cháo với chao và một chữ Triều châu cũng không ngưởi ra mùi Hoa. La Minh có mặt tại "Dòng nhà làng" do tính nghệ sĩgiang hồ xúi giục, sau 1975 anh lấy quyết định bỏ quê hương đi tìm đất hội họaĐài Loan, mượn lục địa Trung cộng làm thuyền chở cả gia đình 7 miệng ăn và mang theo hết tài sản trên ba-lô.
Cuối cùng cả gia đình của Minh gặp phải nhiều bi kích, vợ, hai đứa con trai và một đứa con gái yêu quí nhất của Minh đều nằm xuống tại nghĩa trang. Minh xếp đặt cho con trai Cả bỏ làng đi Hồng Kông hơn một năm, còn lại hai đứa con trai nhỏ. Tôi cùng Minh ra nghĩa trang thắp hương cho chị Minh và các cháu. ( Chương sau chúng tôi nói đến Nghĩa trang và Bỏ làng )

Lúc này tinh thần Vinh đã bình tỉnh lại và cho biết:

─ Hai năm trước giới quân sự cho xây dựng một đường chiến lược tuần tra biên giới thông qua các làng bằng những đoạn giao thông hào rất kiên cố. Cũng như các quan chức tỉnh Vân Nam, thường đưa phóng viên vào làng này để săn tin, họ nói: "Cuối năm 1970 đã có người Việt Nam trốn thoát vào Trung cộng xin tỵ nạn, có vài người đã sống ở đây hơn 20 năm". Lê Văn Vinh nói tiếp: "Những người sống ở đây hơn 20 năm, thuộc vào diện "hỗ trợ" chính là viên chức Tình báo chiến lược của quân đội Trung cộng".

Họ trà trộn vào đời sống ở đây, sinh hoạt như người tỵ nạn Việt-Hoa, Hoa-Việt và người dân tộc biên giới, vốn đã phức tạp về ngôn ngữ và sinh hoạt theo tập tục văn hóa từng bộ tộc để phân biệt và tìm hiểu về họ, mình phải có ít nhiều lý thú đi sâu vào sinh hoạt trong môi trường làng tỵ nạn Việt Nam, có thế mới khám phá được những ý đồ của nhà chức trách Trung Hoa.

Trước 1975 ở biên giới Việt-Hoa chưa hình thành làng tỵ nạn Việt Nam, thế nhưng cũng đã có vài trăm người tỵ nạn mang nhãn hiệu "hỗ trợ". Họ xuất hiện bởi những tên gián điệp người Hoa, trước khia họ hoạt động tại miềm Bắc Việt Nam, sau khi nhà nước Hà Nội phát hiện họ bị trục xuất khỏi Việt Nam, kéo theo một hệ lụy từ chối công nhận người Hoa vào quốc tịch Việt Nam.

Người Hoa ở miền Bắc về lại Trung cộng hóa thành nghịch cảnh, dù có công hay không đối với nước Trung cộng hiện đại vẫn bị từ chối quyền công dân, nhà nước Trung cộng không công nhận những đứa con của Tổ quốc trở về, người Trung cộng chỉ thừa nhận họ là người tị nam Việt Nam dù đã sống ở Trung cộng 20 năm.

Một nghịch lý khác sau 1975, có hơn một triệu người Hoa sinh ra và lớn lên tại miền Nam Việt Nam, đã 9 kiếp tổ tiên là người Việt vẫn gọi ôm mớ là người Hoa. Thời chiến tranh Trung cộng dùng địch vận gọi mỹ danh "Hoa Kiều Việt Nam" khi Hoa Kiều Việt Nam trở về Trung cộng lập tức được công nhận "Người tị nhận Việt Nam" hai chữ "Hoa Kiều" hết giá trị, hiện nay trong làng nói tiếng Việt hơn 75%.

Đôi lúc tôi nhận được tiếng thở dài của La Minh và nói: " Khi chưa có chiến tranh ai cũng biết Tổ quốc mình ở đâu, còn hôm nay chúng tôi không biết mình là ai..".

Vinh nói theo:"Giấc mơ lớn nhất của tôi, chỉ cần có được danh tính thân phận mình là ai".

Chúng tôi hỏi Vinh:

─ Hiện nay bạn đang làm việc gì để sống và có những dự tính nào cho tương lai không?

─ Tôi vẫn lẩn quẩn công việc trang trại trong làng và lao động phụ cho công trường trồng cây Bồ Đề và Bạch Đàn, chỉ đủ nuôi cái miệng, còn đâu suy nghĩ tương lai, nếu có tiền tôi đã bỏ làng ra đi rồi, dù biết rằng không có chứng minh nhân dân cũng phải liều.

Lê Minh mặt trầm, đôi mắt hướng ra sân làng như đang thất vọng nói:

─ Tao và mày cũng như tất cả mọi người ở trong làng, không ai muốn ở đây, đi ra ngoài mới thấy không gian sống, nhưng không có chứng minh nhân dân ở đây như lao tù.

Qua một cơn mưa "Dòng nhà làng" ngập nước
Vinh cho biết:

─ Chính phủ Trung cộng chỉ công nhận họ là "người tỵ nạn Việt Nam", không công nhận họ là công dân Trung cộng. Do đó 214 làng dọc theo biên giới, vì không có quốc tịch Trung cộng, không có bản sắc, chúng tôi sống trong vòng tròn nhỏ của làng, sống trong sự cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Đối với những người tỵ nạn, muốn đi xa để làm việc, trước nhất mua một ID giả hoặc thẻ ID với giấy phép cư trú tạm thời của người khác nhằm đáp ứng việc kiểm tra an ninh. Nếu không phải người dân Trung cộng, chẳng có chứng minh thư, nhỡ đụng đến công an Trung cộng là xanh mặt.

Đề cập đến đời thường của người tỵ nạn, có vẻ Minh và Vinh xúc động và nhạy cảm, sau một lúc im lặng ngắn ngủi, mới bắt đầu nói chuyện, các bạn tôi thường hỏi tình hình thế giới bên ngoài, nhất là những câu hỏi về hôn nhân và đất nước Việt Nam hôm nay.

Con trai của Vinh cho biết:

─ Người ta nói rằng sẽ vào làng tuyển một số nữ trẻ đi làm việc xa nhà, nhưng không đi lâu dài. Tại sao không tuyển Nam mà lại Nữ, phải chăng người Trung cộng muốn Nữ giới ra khỏi làng bằng cách hôn nhân, nhưng người ta không biết luật pháp về quốc tịch, nó chỉ có giá trị cho thế hệ sau ( Mẹ vẫn tỵ nạn Việt Nam, đứa con mới là công dân của Trung cộng ) nói chung thế hệ này vẫn tỵ nạn muôn năm.

Chưa hết có một quân nhân biên phòng tại Huyện cho biết: "Quốc tịch con cái của họ còn tùy thuộc vào sở hữu của những người tỵ nạn. Kết quả cho thấy chính sách này ưu đãi một cô gái tỵ nạn kết hôn với người đàn ông Trung cộng và nếu các cô gái Trung cộng kết hôn với một người tỵ nạn, trẻ em của họ vẫn theo cha làm "người tỵ nạn". Đây mới chính là kịch trường làm người tỵ nạn, cô gái kết hôn với người bản xứ được đi ra ngoài làng và tất nhiên người trai như con không thể tìm thấy đối tượng.

Chúng tôi tự động bảo nhau, lùi sâu vào trong nhà và nói chuyện bằng tiếng Hoa, bởi từ xa có những cái đầu lú nhú ở dưới núi đi lên, đó là những bộ đội biên phòng địa phương, họ đi tuần tra biên giới, tôi và Minh hiểu ý của Vinh.

Vừa thấy những tên biên phòng đi qua nhà, họ ăn to nói lớn, đó là cá tính của người Hoa miền núi, tiếng Quan thoại ồn ào: "1979 nhà nước ta qui động trên 370.850 người tại các làng tỵ nạn Việt Nam, tham gia lập giao thông hào và bảo vệ chiến lũ, người tỵ nạn có động lực cao vì họ muốn hội nhập nhiều hơn vào thế giới bên ngoài làng, thậm chí họ còn ghi danh gia nhập bộ đội biên phòng, đó cũng là một lý lẽ phù hợp với "Luật Quốc tịch Trung cộng" thực ra các quy định này chưa trao cho người tỵ nạn Việt Nam".

Thời gian qua mau, nói chuyện ngày xưa chưa hết lời, đã 5 giờ chiều, tôi và La Minh xin chào tạm biệt Vinh, hẹn hôm nào gặp lại, Vinh nói:

─ Tao đề nghị 5 ngày nữa tập hợp bạn cũ tại nhà Minh, lấy cớ làm giỗ chị Minh, có thế thằng Tâm mới hội ngộ được thằng Đào, thằng Tùng, con Châu, con Ái, con Liên và chị Trang.

La Minh khẻ nói:

─ Vinh đề nghị quá hay, nhưng ai tiến hành đi loan tin.

Vinh không suy nghĩ liền nói:

─ Khi tao đề nghị thì phải thực hiện công tác này.

La Minh hỏi lại:

─ Năm ngày mà mày làm cách nào mời hết được bạn bè, hai nữa chúng nó ở rất xa.

Vinh khẳng định như đinh đóng cột :

─ Thì tao mời theo thuật bắng tên, hiện nay những làng tỵ nạn Việt Nam, tạm thời rải rác theo chiều dài và rộng 1350km đường biên giới do Trung cộng chiếm được của Việt Nam vào năm 1979. Từ biên giới của Vân Nam đến Quảng Tây giáp đối diện năm tỉnh Việt Nam gồm Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, không có khó đâu, hãy an tâm, tin tao.

Tôi cùng Minh chào Vinh, hẹn năm ngày sau tái ngộ. Chúng tôi đi theo triền núi về làng "Dòng nhà làng", trên đường đi Minh cho biết nhiều vấn đề của người Việt tỵ nạn tại Trung cộng, tôi chú ý nhất là chuyện Trung cộng tham nhũng tiền bảo trợ của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc phụ trách tỵ nạn (UNHCR) cho làng tỵ nạn Việt Nam:

─ Nhà chức trách Trung cộng dã tâm và lưu manh lấy hết tiền bảo trợ. Bộ Ngoại giao Trung cộng còn thành lập một nhóm dữ liệu báo cáo giả trước (UNHCR) đại khái nội dung: "Từ năm 1978, chính phủ Trung cộng trong tinh thần nhân đạo đã tiếp nhận 30 triệu người tỵ nạn Đông Dương vào Trung cộng. Con số lớn như vậy mà không thấy người. Riêng 214 làng tỵ nạn Việt Nam, dù cho đào mồ cuốc mả tính luôn cả người sống lẫn ngưới chết trên đầu núi, dưới lòng suối cũng chỉ có 1,6 triệu người.

Tôi tiếp tục lắng nghe, Minh nói một sự kiện khác:

─ Nhóm dữ liệu Trung cộng còn báo cáo hồ sơ giả tạo khác: "Hiện nay Trung cộng đang quan tâm đến làng sóng tỵ nạn, chủ yếu là năm 1978-1979, Trung cộng đang thúc đẩy Việt Nam chặn đứng người tỵ nạn từ Việt Nam tràn qua Trung cộng". Thực tế người Việt tràn ra biển Đông, chứ không bao giờ tràn qua Trung cộng, thà chết dưới chế độ tự do dân chủ đa nguyện còn hơn sống dưới chế độ cộng sản Trung cộng, chỉ có những hệ lụy và vâng lời Trung cộng đỏ mới ra thân danh vô Tổ Quốc. Trung cộng còn bịp bợm hơn, tuyên bố cho hồi hương người tỵ nạn Việt Nam về cố quốc. Mặt trái khác cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung cộng cư xử với Hoa kiều hay Việt kiều không công bằng, khi còn chiến tranh Hoa kiều là cái kho kinh tế, một ngân hàng lưu trữ tài chánh cho hai đảng cộng sản Việt-Hoa. Hết chiến tranh Hoa kiều hay Việt kiều trở thành thứ phế thải bỏ vào thùng rác không tái sinh!

Trung cộng và Việt Nam đang chơi một ván cờ, dùng người tỵ nạn Việt Nam trả giá quân cờ Hồi-hương theo chương trình của UNHCR, đây cũng là một cách chơi khăm của Trung cộng đối với Việt Nam, mà không mang tiếng với Quốc tế, nhân dịp biến lực lượng quân đội Trung cộng thành người tỵ nạn hồi hương, chủ yếu xâm nhập hợp pháp vào Việt Nam. Trung cộng đã chuẩn bị từ trước có cả danh sách địa chỉ định cư và họ khạc tên người tỵ nạn Việt Nam ra một bên, vĩnh viễn sống tại biên giới. Theo chiến lược của Trung cộng, họ đã bắt đầu cho bộ đội trẻ thay áo mới dân sự, mang nhãn hiệu người tỵ nạn Việt Nam, họ sẽ là người Việt Nam giấy nằm vùng trong lòng Việt Nam chờ thời cơ biến thành vũ khí của Trung cộng.
吕正操( Lu Zhengcao ) Lữ Chính Thao
Tôi nghe tin này khá lý thú liền hỏi:

─ Tin này có thực chứ và Minh lấy nguồn tin này ở đâu?

─ Trung cộng rất nhiều ma giáo, nhất là chính trị, trước khi tạm cư trong làng, người tỵ nạn Việt Nam phải viết một bản tự khai, không từ bỏ một ai, và Minh có dịp hiện diện tại chiến trường với nhiệm vụ vẽ những bản đồ tiến quân của Trung cộng, mỗi ngày tiếp cận với giới chức quân đội và dân sự. Đôi khi còn nghe tướng Lữ Chính Thao (Lu Zhengcao)tự hào về cuộc chiến tranh này.
Tôi và Minh về đến "Dòng nhà làng". Tiếp tục thấy cảnh chịu đựng khốn cùng của dân làng, tôi thấy những túp lều đã cũ, bao quanh bằng phên nứa, nay đã rò rỉ tồi tàn và ẩm ướt, bếp lửa lạnh khói, chỉ cần một cơn mưa là ngập "Dòng nhà làng". Trong nhà La Minh trên rách có treo vài tranh ảnh Sài Gòn và Chợ Lớn.

Như mội ngày, đến bửa cơm, tôi dùng từng bát cơm trộn với ngô luộc, hỏi ra mới biết cả làng ba bữa một ngày hầu hết mọi người như thế cả!

Làng tỵ nạn Việt Nam không có bệnh xá, khi dân làng đau nặng chỉ chờ chết, bệnh nhẹ lấy cây cỏ ngoài đồng ruộng hay rừng làm thuốc trị liệu. Ngoài nghĩa trang số cột bia mộ, tương đương với số dân trong làng.

Huỳnh Tâm

“Tù nhân” Ba Sương & “tội phạm” Văn Vương




Đất là thiêng liêng, là mồ hôi, là nước mắt và trộn cả máu. Thời hội nhập, đất càng giá trị. Nếu không hiểu triết lý đơn giản này và nhà cầm quyền không biết đối xử với đất thì tiếng khóc còn đau đớn và máu còn tiếp tục đổ.

“Tù nhân” Trần Ngọc Sương

Nhiều người biết bà Trần Ngọc Sương là Anh hùng lao động, con gái của Giám đốc tiền nhiệm Trần Ngọc Hoằng. Người cha đã một nắng hai sương với hàng chục ngàn nông dân nơi đây, đưa Sông Hậu thành nông trường anh hùng.
Bỗng dưng thành... tội phạm. Ảnh: internet
Ngày 19/11/2009, Tòa án nhân dân TP Cần Thơ đã đưa vụ án “Lập quỹ trái phép” tại Nông trường Sông Hậu ra xét xử phúc thẩm. Tại đây, HĐXX đã tuyên y án sơ thẩm 8 năm tù giam, buộc bồi thường hơn 4,3 tỷ đồng đối với bà Trần Ngọc Sương, nguyên Giám đốc Nông trường.

Không ai có thể biết động cơ đứng đằng sau vụ án này là gì. Chỉ biết rằng, hàng nghìn hecta đất của nông trường do mấy 16 ngàn nông dân đào đắp, khai phá từ 30 năm nay, bây giờ có thể thành miếng mồi ngon cho các nhà đầu tư.

Người ta ngạc nhiên về một người anh hùng, bị buộc tội dùng quĩ đen mấy tỷ đồng, mà cuối đời bà Sương không nhà, không cửa, ngủ trên một cái giường cá nhân với 8 năm tù đang đợi. Nghịch cảnh rơi nước mắt.

Vụ án tưởng đi vào quên lãng, nhưng mới đây thôi, người ta lại định đưa bà ra xử.
VTC News cho biết, số tiền “quỹ trái phép” tại Nông trường Sông Hậu đã có từ trước năm 1994, đến năm 2000 bà Sương mới làm Giám đốc, nên bà không phải là người “lập quỹ trái phép”.

Bà Sương đã viết đơn kêu oan gửi tứ phương và nói : “
Đối với tôi bây giờ, sức khỏe đã tàn tạ, danh dự bị các cơ quan tiến hành tố tụng ở Cần Thơ và huyện Cờ Đỏ cố tình bôi nhọ. Nếu họ cố tình xử tù tôi, vào tù thiếu thốn đủ thứ lại ốm đau bệnh tật cũng dễ chết sớm, đó là bước đường cùng mà Viện KSND TP Cần Thơ giao và Viện KSND huyện Cờ Đỏ muốn dồn tôi đến chỗ chết. Tôi nghĩ: thà rằng chết trước khi bị đưa ra xét xử còn được nén nhang của bà con cô bác, của hầu hết cán bộ, nhân viên Nông trường Sông Hậu vẫn hằng ngày quý mến và đòi chân lý cho tôi thắp cho hơn là chết ở trong tù trong nỗi oan ức triền miên và sự cô quạnh tột đỉnh”.

“Tội phạm” Đoàn Văn Vươn

Anh Đoàn Văn Vươn không nổi tiếng như bà Ba Sương. Cha của anh là đảng viên trung thành tuyệt đối, anh Vươn từng đi bộ đội, một nông dân hiền lành chất phác, chí thú làm ăn, bỏ đại học để chinh phục biển, nhưng bỗng anh trở thành tội phạm chống nhà cầm quyền.

Cách đây hơn một năm (22-7-2010) báo Pháp luật và Đời sống đã đăng về một người được gọi là “
Kỳ tài đất Tiên Lãng và cuộc chinh phục lời nguyền của biển”.

Tấn công nhà anh Vươn. Ảnh: internet
Đó là phóng sự về anh Vươn biến vùng đất khỉ ho cỏ gáy ven biển, không ai thèm để ý, thành một khu đầm nuôi trồng thủy sản rộng hàng trăm hecta. Họ được thuê đất 20 năm, kể từ năm 1993, nhưng nay mới là 2012 thì đã tiến hành thu hồi.

Theo báo CAND,
một số người dân trên địa bàn cho rằng, việc thu hồi đầm nuôi trồng thủy sản của UBND huyện Tiên Lãng có điều chưa minh bạch, chủ trương chia lại đất trong quy hoạch phát triển sân bay vừa không đúng với chủ trương giao đất nông nghiệp lâu dài, ổn định đã khiến cho gia đình anh Vươn và một số chủ đầm khác phản ứng tiêu cực.

Trước khi tiến hành cưỡng chế, một số chủ đầm đã gửi “
tối hậu thư” đến cấp lãnh đạo huyện với nội dung
nếu cuộc cưỡng chế xẩy ra, sẽ có đổ máu.

Mấy ngày qua, anh Vươn được lên mặt báo là do vụ đấu súng với nhà cầm quyền, làm sáu công an bị thương. Dân Hải Phòng không dọa suông, máu đã đổ thực sự.

Đất – mồ hôi, nước mắt và máu

Từ ngàn đời, để tạo nên những vùng đất phì nhiêu, nuôi sống con người, bao nước mắt và mồ hôi đã đổ xuống. Để bảo vệ đất có cả máu.

Vụ án bà Ba Sương và nay là vụ đổ máu tại Hải Phòng đều liên quan đến đất. Và còn nhiều vụ khác nữa mà truyền thông chưa có dịp được nói.

Người nông dân chất phác đổ mồ hôi, sôi nước mắt, biến một vùng khỉ ho cò gáy thành bờ xôi, ruộng mật, thì bỗng có kẻ dòm ngó. Chuyện còn lại là làm việc với người có “thẩm quyền”.

Đất ở ta là sở hữu toàn dân, nhưng quyết định dùng như thế nào lại nằm trong tay “
đầy tớ của nhân dân”.

Phản ứng khi bị thu hồi đất, có người đi biểu tình, rồi khóc và dọa tự tử như bà Ba Sương. Nhưng có người thề chết như anh Vươn.

Câu hỏi ở đây là ai đã biến những anh hùng, người lính, đảng viên và cả những người nông dân hiền lành thành tội đồ một cách dễ dàng đến thế.

Khi tìm ra được nguyên nhân và giải pháp, chắc chắn không còn những anh hùng Ba Sương – tù nhân và người lính Văn Vươn - tội phạm.

Vĩ thanh

Tôi chợt nhớ
bài diễn văn của ông trùm da đỏ Seattle. Sau khi tạo nên khu vực bang Washington năm 1853, chính phủ Mỹ đã đề nghị người da đỏ ký các hiệp định để mua đất của họ. Người da đỏ biết là không thể nào từ chối được. Ông Seattle (1786-1866), trùm da đỏ, đã đọc một bài diễn văn thống thiết trước thống đốc Isaac Stevens. Diễnvăn này được coi là một tài sản văn hoá vô giá để đời và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng.
Trích đoạn “Làm sao các người có thể mua bán khung trời và hơi ấm của đất? Ý nghĩ đó đối với chúng tôi thật kỳ lạ. Thế nếu chúng tôi không sở hữu cái mát mẻ của không khí và cái lung linh của mặt nước, thì các người làm sao mà mua? Mỗi mẩu đất này đều thiêng liêng cho dân tộc chúng tôi.

Linh hồn những người da trắng đã quên xứ mình sinh ra khi đi vào giữa các vì sao. Linh hồn những người chết chúng tôi không bao giờ quên trái đất tuyệt vời này, vì trái đất là mẹ của người da đỏ.

Các ông (người da trắng) phải dạy cho con cháu là đất chúng bước lên được tạo bởi tàn hương của tổ tiên. Dạy cho chúng biết tôn trọng đất, bảo chúng là đất được giầu có bởi đời sống của dòng dõi. Dạy cho con cái các ông những điều mà chúng tôi dạy cho con cái chúng tôi, là đất là người mẹ. Cái gì xẩy đến cho đất sẽ xẩy đến cho con cái của đất. Ai khạc nhổ lên đất là khạc nhổ lên chính mình
.”

Triết lý “
sống trong đất, chết vùi trong đất” của người da đỏ là thế.

Bà Ba Sương và 16 ngàn công nhân nông trường Sông Hậu, rồi hàng chục vạn nông dân “
bỗng nhiên mất đất”, kể cả những chủ trại nuôi tôm ở Tiên Lãng (Hải Phòng), cũng yêu đất không khác ông Seattle cách đây 150 năm.

Nhưng liệu rằng, nhà cầm quyền có biết trên đời này có “tình yêu đất” như thế hay không?

H. M.