26/8/10

Câu chuyện về người thương phế binh

Câu chuyện về người thương phế binh Phan Thế Duyệt 
Lời giới thiệu: Giao Chỉ.

Vào năm 2003 trong một chương trình giới thiệu hoạt động của hội “compassion” tại San Jose, California USA, ngay sau khi phát thanh lần thứ nhất, nhiều thính giả đã gọi vào thể hiện tâm tình họ dành cho câu chuyện thật đặc biệt, câu chuyện về một thương phế binh VNCH đang sống trong hoàng cảnh hết sức cô đơn tại một làng quê xa cách chốn phồn hoa đô hội… Câu chuyện có chút đau thương nhưng cũng lại có nhiều thơ mộng và đẹp của tình người.
Anh là một thiếu úy xuất thân từ trường Võ Bị QGVN và cũng đã từng mơ về một tương lai tươi sáng với những chiến công, những vòng hoa chiến thắng được choàng vào cổ từ tay của một nữ sinh sinh đẹp nào đó. Nhưng viên đạn AK47 ác nghiệp đã xuyên qua lưng anh ngay trong trận chiến đầu đời của một tân sĩ quan… Mọi giất mơ tan vỡ, tương lai trở nên mịt mù và anh đã phải trải qua biết bao nhiêu đau thương sau đó.
Vết thương chưa lành hẳn thì biến cố 30 tháng 4 úp xuống, anh bị đẩy ra khỏi Quân Y Viện khi viết thương còn rỉ máu, anh được cha mẹ gìa đưa về sống tại Tây Ninh, chẳng bao lâu sau đó anh đã phải cắt bỏ đôi chân vì ung thối để cứu mạng, thế rồi cha mẹ anh cũng lần lượt qua đời, còn lại một mình trong căn nhà nhỏ, anh đã sống 30 năm dài trong nỗi cô đơn tận cùng của kiếp người.
Đối với những người thương binh VNCH khác, hoàng cảnh của anh có lẽ chưa phải là tận cùng bằng số (?) Anh biết rõ điều này, nên không than vãng, chỉ vì buồn muốn viết thư đi khắp nơi để tìm người tâm sự và không kêu nài trợ giúp, lá thư gởi ra Hải Ngoại đi lang thang và được ai đó đưa lên internet, một cô gái ký tên “H” gởi về anh $50.00 Mỹ kim, anh viết thư cảm ơn…
Một người ở Paris đọc được lá thư anh gởi cho người con gái có tên “H” tưởng là bạn mình nên chuyển qua cho cô BS Hương (Liên Hương) thành viên của “Hội Huynh Đệ Chi Binh” cô BS cảm động vì lá thư lạ đã viết trả lời anh, lá thư cũng đầy tình cảm chan chứa, tường chừng như ở thời còn chinh chiến của một người em gái hậu phương gởi cho anh chiến sĩ nơi chiến trường, lá thư tỏ lòng ngưỡng mộ tuyệt đối dành cho một anh hùng. Anh chính là một “anh hùng” trong mắt cô Liên Hương ở Hoa Kỳ. Thư trao đổi giữa anh và cô BS trẻ với những lời chân tình đã làm nhiều người rơi lệ.
Giao Chỉ.

Tây Ninh ……………. 1999
Cô H. thân mến,
Khi cầm bút viết thư này tới cô, tôi rất cảm động vì lần đầu tiên nhận được 1 thiệp chúc Noel và 50 USD. Bao đêm nằm suy nghĩ moi óc tìm về quá khứ xem có quen ai là H. không. Rồi kết luận tôi và cô rất xa lạ chưa 1 lần đối diện. Thế nhưng giữa khoảng không gian xa cách nghìn trùng, giữa lúc bận rộn với cuộc sinh nhai nơi đất khách quê người, mà cô còn có thời giờ hướng về quê nhà, nơi đó có những người nghèo khổ, tàn tật, đang âm thầm trên giường bệnh như tôi. Ngoài ý nghĩa về vật chất, món quà của cô còn có 1giá trị tinh thần rất to lớn, nó an ủi tôi trong những ngày Đông giá để chuẩn bị đón Xuân về. Nghĩa cử cao đẹp của cô chắc chắn sẽ được Thượng Đế đền bù.
Đây là những ngày đầu Xuân. Sau vài ngày Tết tạm quên đi những âu lo phiền muộn thì bây giờ lại suy nghĩ, tính toán cho năm rộng tháng dài. Tôi đã bị loại ra khỏi vòng chiến vào một buổi chiều mây giăng tím ngắt cách nay gần 27 năm dài (bị liệt và cưa 2 chân!).
Trong vòng 27 năm đó, cuộc sống của tôi âm thầm như những đêm không trăng sao. Bốn mùa cứ lần lượt trôi qua, bao đứa trẻ thơ đã trưởng thành, còn tôi đã thấy thấp thoáng con đường tới nghĩa trang!!! Ngày ngày chỉ nằm trên giường ngắm mây bay qua khung cửa sổ, và chiều chiều nghe tiếng chuông giáo đường buồn bã. Rồi đôi khi âu lo khi số tiền trong túi cạn dần.
Chưa bao giờ tôi đủ can đảm ngắm mình qua gương. Tuổi trẻ, tình yêu đã vượt khỏi tầm tay. Đôi khi kỷ niệm hiện về hỗn độn, quay cuồng, tan vỡ như những mảnh thủy tinh sắc nhọn. Tủi thân, phiền muộn là căn bệnh trầm kha kéo dài từ ngày nầy đến ngày khác! Đầu năm chỉ duy nhất một mình trong căn nhà bầu bạn với chiếc tivi, dò hết đài nầy đến đài khác, rồi mệt mỏi lăn ra ngủ. Những lúc đau nặng, bao nguy cơ rình rập, chỉ biết phó mặt cho bàn tay Thượng Đế.
Đã lâu lắm rồi không có cơ hội viết thư nên trong hồi báo này từ đầu đến giờ lẩn thẩn quá phải không cô H? Nếu có gì sơ suất xin cô bỏ qua sự thiếu sót đó. Trước thềm năm mới, tôi chúc cô và gia đình hưởng một mùa Xuân vui vẻ, một năm mới An khang thịnh vượng.
Tôi xin dừng bút nơi đây. Chào cô.
Ký tên: Duyệt
P T D

San Jose ngày 1 tháng 8, 2003
Anh Duyệt thân mến,
Có lẽ anh sẽ ngạc nhiên lắm khi nhận được lá thư này. Do một sự tình cờ hay sắp xếp nào đó của Thượng Đế, nếu chúng ta còn tin có Thượng Đế hiện hữu trong cuộc đời này, lá thư của anh đã vượt ngàn dặm hải lý và thời gian phủ bụi mờ để đến tay tôi. Một người bạn của tôi ở Pháp, trong lúc đi sưu tầm trên những trang điện toán đã tìm thấy lá thư này, và chuyển đến tôi. Chỉ vì một sự trùng hợp ở vần tên với một cô gái nào đó mà anh đã viết thư cám ơn 3 năm trước đây.
Lá thư của anh không giống như bất cứ lá thư nào tôi đã đọc trong gần 10 năm qua. Tôi cũng chưa bao giờ trả lời riêng như tôi đang làm ngày hôm nay. Đây cũng là lần đầu tiên tôi dùng tên thật của mình để viết cho một người chưa biết mặt. Tôi viết như thế để anh hiểu cái ấn tượng sâu đậm, và một phần nào là nỗi xúc động lá thư của anh đã để lại trong tôi.
Trong tuần lễ qua, tôi đã gọi điện thoại về Việt Nam một vài lần theo số anh ghi trong thư, nhưng đáng tiếc vẫn không liên lạc được vì đường giây luôn luôn bận. Cũng có thể vì tôi gọi không đúng cách, một lần nữa lại cho anh biết rằng đây là 1 điều tôi không thường hay làm lắm đâu.
Lá thư của anh đã vô tình nhắc nhở cho tôi về quá khứ, những năm tháng chiến tranh điêu linh của đất nước mà tất cả chúng ta đều muốn quên. Anh không kể nhiều trong thư, nhưng tôi đoán anh chắc phải là 1 người đã có kiến thức của 1 vài năm Đại học, hay ít nhất cũng đã đỗ Tú Tài trước khi đăng lính vào quân đội. Bởi vì 1 người bình thường ít may mắn được đến trường hơn, đã không thể viết một lá thư vừa lắng đọng, vừa lãng mạn dạt dào tình cảm như vậy.

Sự gắn bó của tôi với những người lính cũ có lẽ bắt nguồn từ gia đình tôi vốn đã có rất nhiều người xuất thân từ quân đội miền Nam trước đây. Cha tôi ngày xưa là 1 bác sĩ quân y ở Chẩn Y Viện Trung Ương, và cậu tôi cũng đã từng là 1 bác sĩ giải phẫu chữa phỏng và chấn thương tại Tổng Y Viện Cộng Hòa, nơi tôi vẫn thường xuyên lui đến những ngày còn nhỏ vì căn bệnh riêng của mình. Hình ảnh của những nguời thương bệnh binh quấn khăn băng trắng thẫm máu đỏ hàng ngày được chở về từ mặt trận với tôi vì thế đã không xa lạ lắm. Một trong những người bạn thân nhất của tôi ở đây hôm nay là 1 cựu phi công từng đóng quân ở Phù Cát (Qui Nhơn)…
Tôi viết thư cho anh hôm nay, không phải như 1 người Việt kiều xa xứ được ưu đãi trong 1 đời sống an lành, và thoải mái hơn về vật chất lẫn tinh thần, đang nghiêng mình xuống viết cho 1 người đồng loại bất hạnh của mình. Nhưng tôi viết với tâm trạng của một cô gái nhỏ năm xưa đã lớn lên yên ổn giữa thành phố Saigon, nhìn tuổi thơ ấu của mình trôi qua dưới ánh hỏa châu và những tiếng bom đạn hàng đêm vẫn vọng về từ 1 chiến trường xa. Ở đó, bao nhiêu xương máu và nước mắt của cả 1 thế hệ tuổi trẻ đã đổ xuống để che chở cho những cô gái nhỏ như tôi được tiếp tục bình yên đến trường. Ở đó, vẫn có bao nhiêu người chiến sĩ như các anh còn ôm tay súng, chiến đấu đơn độc vào những giờ phút chót để gia đình chúng tôi có cơ hội xuống thuyền ra đi, tìm đến những quê hương hạnh phúc mới bên này bờ biển Thái Bình Dương.
Chính với tấm lòng tri ân và ngưỡng mộ đó mà hôm nay tôi thấy cần phải viết cho anh, cho các bạn của anh những lời các anh xứng đáng được nghe nhưng có lẽ đã chưa bao giờ được nghe từ gần 30 năm qua. Để các anh hiểu được rằng những hy sinh của mình đã không lãng phí, hay vô ích. Những tượng đài có thể bị đạp đổ, nhưng những hình ảnh thần tượng ghi khắc trong lòng sẽ chẳng bao giờ có thể bị xóa nhòa.
Chúng ta đã mất mát rất nhiều thứ, những người thương binh như các anh đã mất hết 1 phần thân thể, tình yêu và tuổi trẻ, còn những người Việt tỵ nạn như tôi cũng mất cả 1 nơi chốn dung thân để phải tha hương, lưu lạc khắp mọi phương trời. Có 1 điều ngày hôm nay, tôi mong chúng ta sẽ không đánh mất là tình người đến với nhau để khoảng không gian anh đang sống và hít thở bớt đi niềm lẻ loi, và cô độc. Tôi không là 1 bà tiên có đôi đũa thần nhiệm màu để có thể hóa phép trả lại anh thân thể nguyên vẹn. Nhưng tôi có thể trao tặng anh 1 tình bạn, và hy vọng những giòng chữ của mình có thể xoa dịu được những vết thương vẫn còn nhỏ máu trong tâm hồn anh từ 30 năm qua.
Khi nhận được lá thư này, xin anh gửi cho tôi hồ sơ + 1 tấm ảnh hồi đáp qua địa chỉ 1 người thân của tôi ở Saigon, để rồi sẽ có người đem thư về Mỹ lại cho tôi:
Nguyễn Liên Hương
c/o Phạm Thục Tuyết Xuân
tel:XXXXX
Tôi muốn biết địa chỉ chính xác của anh, để gửi đến anh 1 món quà nhỏ, mà tôi ước mong sẽ đem lại 1 vài tia nắng ấm trong gian nhà lạnh vắng, hiu quạnh của anh hôm nay.
Cũng xin anh đừng phổ biến tên tuổi hay địa chỉ của tôi, vì điều tế nhị thỉnh thoảng tôi vẫn còn trở về Việt Nam trong những công tác xã hội. Thêm nữa, tôi hiểu khả năng giới hạn của mình trong những điều có thể làm. Thật sự sẽ là một điều tàn nhẫn để gieo mầm cho những ảo tưởng, hy vọng không có cơ may được thành tựu.
Cuối cùng, dù tôi không thể gửi nguyên 1 bài hát về, cũng xin cho tôi được gửi tặng anh và những người bạn anh hùng không tên tuổi của anh lời tựa của bài hát, “You are my hero”. Bởi vì cuối cùng, trong cuộc đời này, không có điều gì anh hùng, và cao thượng hơn là hy sinh bản thân mình cho những người khác được quyền sống. Trong mắt tôi, mãi mãi không có những người phế binh thương tật mà chỉ có những người trai anh hùng một thời đã chọn cho mình con đường đi và sống đích thực có ý nghĩa nhất.
Thân ái chào anh, và cầu chúc anh những ngày tháng cuối an lành trong niềm vinh dự và tự hào.

Thương Người- Thương Mình.

Thương Người- Thương Mình. Trương Ngọc Bảo Xuân.

Thương Người- Thương Mình. Thương tới muốn khóc hay 32 năm Người Mỹ và Tôi.
Bài viết thắng giải chung kết Viết Về Nước Mỹ (VVNM) do Việt Báo tổ chức.  Đây là chuyện kể 32 năm của một cô dâu Việt, về một chàng trai Mỹ, người bắt Mẹ ký tên cho đi lính trước tuổi, khi anh mới có 17 để sang tận bên kia trái đất rồi “mang tui về trả nợ”, như tác giả Bảo Xuân Abbott nói đùa.
Nhân dịp Việt Báo tổ chức 10 năm Viết Về Nước Mỹ, Blog Mười Sáu hân hạnh được tuyển chọn bài viết độc đáo này mà mỗi lần đọc lại đều rưng rưng nước mắt, đầy cảm động, với những liên quan tới lịch sử, vận mệnh của dân tộc ở từng giai đoạn  từ 1968 cho tới nay.
Theo thông tin bên lề thì tất cả những tuyển tập Viết Về Nước Mỹ hàng năm do Việt Báo Nam California xuất bản bằng cách này cách khác đều được in ra bán vô tội vạ tại Việt Nam và được nồng nhiệt hoan nghênh, đón nhận  cuả độc giả quốc nội.  Tuy nhiên điều đáng nói ở đây là câu chuyên ” 32 năm người Mỹ và Tôi”  tác giả Trương Ngọc Bảo Xuân, bài viết thắng giải chung kết đầu tiên của VB. đã được họ cẩn thận lấy ra, không cho in…. điều thắc mắt này 16 xin dành quyền cho quý bạn đọc nhận xét.
*****
Hàng ngàn người. Có thể cả chục ngàn, trăm ngàn, rồi cả triệu không chừng. Những người Việt tan tác khắp nơi, chưa gặp, chưa quen… Lạ thay, khi không bỗng thấy nhau thân thiết. Thân tới mức mang cả chuyện nhà của mình ra kể cho nhau nghe. Toàn những chuyện khổ đau, oan ức, tang thương đã bao năm nuốt xuống. Giải Thưởng Việt BáoViết Về Nước Mỹ hàng ngày cho tôi cảm giác ấy. Khi viết, khi đọc, thấy thương người, thương mình. Thương tới muốn khóc.
Và bây giờ, bạn thân mến,
Đến phiên tôi kể chuyện nhà cho bạn nghe.
Viết về nước Mỹ, được rồi, đang sống ở Mỹ mà. Viết về người Mỹ, tìm đâu cho xa. Tôi muốn nói về người đi bên cạnh tôi 32 năm qua: David, chồng tôi.
Cuộc đời giống như cuốn sách dán hình kỷ niệm. Mấy chục năm gom vô vài trang giấy. Ngược giòng thời gian. Giở lại từng trang…
Tết 1968, hình gia đình cuối cùng, tháng Năm năm này Ba mất
*1968, Năm Mậu Thân
Ngày 28 tháng 5, cư xá Cảnh Sát Phú Lâm A đường Lục Tỉnh quận 6 Chợ Lớn.
Cộng sản tấn công Sài Gòn lần thứ hai, đặt bộ tư lịnh tại khu cư xá Phú Lâm A. Gia đình tôi cư trú tại đây. Ba tôi là Cảnh sát, tùng sự tại phòng Giảo Nghiệm, Tổng nha Cảnh Sát Quốc Gia ở đường Vỏ Tánh, Sài Gòn.
Ba tôi bị cộng quân chận bắt, bắn chết tại chổ. Một viên đứt yết hầu, một viên xuyên bao tử.  Hai chị em tôi chứng kiến cảnh Ba bị bắn chết. Tôi nâng đầu, máu nóng vọt ra. Ngọc Anh đở chân, máu nhểu dài xuống đất. Hai chị em lệt bệt, khiêng, rớt… khiêng, rớt… vừa khóc vừa khiêng thây Ba tôi về nhà. Em tôi mới 15 tuổi, mặt đầy nước mắt, hai bím tóc, bộ đồ trắng loang máu.  Khoảng đường gần 100 thước đó dài, nặng, đau đớn, uất ức, hận thù, khắc sâu vô tim, vô óc, vô suốt cuộc đời chúng tôi.
1969, Giã Từ Các Bạn
Một ngày tháng giêng anh rể tôi đem về giới thiệu người bạn vừa ra lính Hải quân, David. Mới 20 tuổi, mắt sáng, tóc đen xanh, ốm gọn, nhanh nhẹn, rất lịch sự, đàng hoàng. Tôi thấy cảm tình.
Những người bạn học đã vô lính. Mấy đứa bạn gái vừa có chồng, chồng chết trận, tay bồng con thơ; tôi làm việc lương tháng ngàn mấy không đủ may áo dài bận đi làm, lấy đâu giúp mẹ nuôi đám em?
Khi Ba chết, đám em tuổi từ 15,13,10,7,5 và đứa em út (Thúy Phương) chưa đầy 3 tuổi. Má tôi vợ công chức chỉ biết nội trợ. Người chồng tốt, người cha hiền đã bị bắn chết. Con không cha như nhà không nóc. Là chị lớn của lũ em, thân con gái, biết làm sao đây?
Tôi đã nguyện với lòng sẽ tìm đủ cách để đi khỏi nước Việt Nam, khỏi nơi đầy thù hận, đầy bất công, đầy tủi nhục. Và đó, David tới đúng lúc. Chính y sẽ đem tôi ra khỏi vùng u tối và nhờ đó tôi sẽ tìm cách đem gia đình đi luôn. Thôi, giã từ các bạn, tôi rẽ qua ngả khác từ đây.
Tôi nhận lời làm đám cưới với y.
Đang để tang ba. Đám tang với đám cưới, gần quá. Tôi chọn đúng ngày Ba bị bắn làm ngày cưới. 28 tháng 5. Cho trộn lẫn vô nhau, trong tim, trong óc.
Đâu phải lúc tiệc tùng. Tất cả tại nhà, giản dị trước bàn thờ tổ tiên. Không hột xoàn, không vàng bạc, chỉ có lời vái hương hồn Ba. Xin Ba phù hộ cho ước nguyện của con: đem được Má và mấy đứa em ra khỏi địa ngục nầy. Tôi tự hứa sẽ là người vợ tốt suốt đời.
Chúng tôi ở chung với gia đình, trên căn gác nhỏ. David làm việc cho một ông bầu chuyên đem những dàn nhạc hát cho lính Mỹ nghe.
* 1970, Lần Đầu Tới Mỹ
Tháng 3, tôi sanh đứa con trai đầu lòng, tuổi Tuất , tên Lawrence Long .
Tội nghiệp đứa con so, 7 tháng đã ra đời. Cân nặng có 1 kí 700 gram, nhà thương Đức Chính (đường Cao Thắng) giữ trong lồng kiếng 24 giờ. Giao lại tôi, cô y tá cho hay “bé không biết bú”. Trời đất ơi, tôi biết làm sao?
Má tôi dạy “con nặn sữa ra, lấy cái ống nhỏ thuốc, hút sữa lên rồi nhỏ từng giọt vô miệng nó. Thấy hông, cái miệng nó nhỏ hơn đầu vú, làm sao mà bú bình thường được.”
Nhờ kinh nghiệm và sáng kiến của Má, con tôi qua khỏi mấy tháng đầu hung hiểm.
Lúc đó David làm lương tháng khoảng 3, 4 trăm đô. Một hôm đi làm về, say nhừ, vừa khóc vừa kể:
- Bạn tôi mới bị quân khủng bố liệng lựu đạn, chết rồi. Sống ở đây lúc nầy nguy hiểm quá.
Tháng 11 vừa hết giao kèo y đòi trở về Mỹ.
Chúng tôi đi lo thủ tục đem đứa em trai duy nhứt của tôi theo mà không được. Bởi tôi còn ngây thơ, không biết là đút tiền thì tới đâu cũng tới. Đành cắn răng, gạt nước mắt, ôm con theo chồng. Tôi hẹn ngày trở về vì bổn phận đối với gia đình chưa tròn. Tôi phải tin bên kia đám mây đen vẫn là ánh mặt trời.
Tôi tới Mỹ lần đầu ngày 22 tháng 11 năm 1970, bụng mang thai 5 tháng
Mẹ chồng, chị chồng tên Elaine ra tận phi trường Portland thuộc tiểu bang Oregon đón. Bước xuống phi trường, đèn sáng trưng, rực rỡ. Không khí tưng bừng nhộn nhịp, tôi như con ngáo, thấy mình càng nhỏ bé. Rồi, phố lớn, nhà to, cây đầy trái, rụng đầy sân. Ngồi trong xe hơi rộng rãi tôi cứ lấy mắt mà ngó, mà ước thầm, “phải chi Má với mấy đứa nhỏ qua được!”
Con người ta chỉ một lần sống, tại sao dân Mỹ quá sung sướng , dân mình thì nghèo khổ chiến tranh?
Cầm chùm nho lên ăn, nhớ tới mấy đứa em mà ứa nước mắt !
Cô chồng đãi bữa ăn lễ Tạ Ơn lần đầu tiên. Thịt gà lôi sao mà ngon, ngọt.
Bên chồng thay phiên ẵm Lawrence. Suốt ngày tôi ở ngoài sân sau, hái quít hái bom, vừa hái vừa tiếc hùi hụi mấy trái rụng đầy dưới đất.
Nhà chồng thấy tôi nhỏ xíu, ai cũng thương.
Qua lễ, lái xe xuống thị trấn Coquille thăm người cô thứ nhì. (David có 5 người cô, 5 người chị và hai người chú). Trên đường đi, David ngừng lại thăm mộ của cha; kế bên là miếng đất má chồng đã mua sẵn, dành cho bà.
Ông bà dì dượng chồng cho ở tạm trong cái nhà xe một phòng khoảng hai tuần. Mỗi đêm, leo lên cái giường rộng, không có mùng, trống lốc, trùm liền cái mền điện. Cái ấm nhân tạo không đủ sức ngăn cái lạnh cắt da, cắt thịt.
Nửa đêm nhớ nhà quá, tôi khóc. David ngồi dậy, gởi con cho bà nội, chở tôi ra bờ biển. Biển nầy là biển gì tôi cũng không biết, nhớ nhà quá đâm ra ngu ngơ. Vậy mà y kiên nhẫn, không nói gì, chỉ đem tôi ra biển. Có lẽ y muốn tôi nhìn về hướng Đông?
Một hôm mỏ ác trên đầu con tôi tự dưng nổi phồng lên. Đem vô nhà thương, khi bác sĩ vừa cho biết phải thử nước trong tủy xương sống của nó để định bịnh, tôi ngã cái đùng bất tỉnh. Rốt cuộc cũng không biết bịnh gì. Có thể nó chịu lạnh không quen, cơ thể phản ứng tự nhiên, xương sọ phồng lên để bảo vệ bộ óc bên trong?. Báo hại mang cái nợ gần trăm bạc.
Người anh chồng kêu qua Tucson, tiểu bang Arizona, hứa sẽ giúp cho việc làm.
Nghe nói đó là xứ nóng, tụi tôi đi liền.
Gom va ly quần áo, thùng sách tiếng Việt, hình ảnh, mấy cái nón lá… gọn gàng trong chiếc xe Uhaul loại nhỏ nhứt, còn rộng rinh. Mùa đông trời lạnh thấu xương, quần áo không đủ ấm, ngầy ngật vì phải vặn máy sưởi suốt đoạn đường dài.
Bụng nặng nề, ngồi triền miên, phải để Lawrence nằm dưới sàn xe. Tội nghiệp con tôi, tới nơi mình mẩy nó nổi đầy phong đỏ.
* 1971, Sanh Con Tại Mỹ
Ở tạm nhà cháu Rea, David phải đi làm nghề đổ xăng, lau kiếng xe hết hai tuần rồi mới được vô làm trong hầm mỏ lộ thiên đào chất đồng đỏ, tên Anaconda Copper Mine.
Mỗi sáng đi làm, y vừa tra chìa khóa mở máy xe vừa khấn thầm “Nổ máy. Nổ máy. Nổ máy!” Trời còn tối mò, y mặc bộ đồ đồng phục màu xám đen, đầu đội nón sắt, tay xách hộp đồ ăn trưa, mặt mày còn sáng sủa. Buổi chiều về, sau một ngày trộn lẫn với bụi đất cùng mồ hôi, chồng tôi da trắng trở thành da đen!
Việc làm nầy cứ mỗi tuần là đổi ca sáng tối. Nhiều đêm y phải bận bộ đồ lót giữ nhiệt (thermal underwear) vậy mà vẫn còn lạnh run. Y lái xe đào và đổ đất, thứ xe có cả chục cái cần sang số, y giải thích, nhưng, ngôn ngữ bất đồng tôi cũng không hiểu gì mấy.
Lương một tuần 93 đô, mướn cái nhà hết 90 một tháng. Đây là nghe lời bà má chồng, tiền mướn nhà chỉ nên bằng một phần tư tiền lương tháng thì mới đủ sống.
Tôi đang mang thai, thèm cá kho tiêu, một chai nước mắm kiếm không ra, có khi chảy nước mắt
Chị chồng tên Pat đưa tôi đi thăm thai. Chị phải ẵm thằng lớn ngồi đợi ở ngoài, một mình tôi vô với cô y tá. Cô ta chỉ qua phòng restroom, nói một hơi một tràng. Tôi đoán mò, nghĩ là cổ hỏi mình có mắc đi tiểu hông, tôi liền lắc đầu. Cô ta không chịu, cứ vừa chỉ vừa nói, càng nói tôi càng không hiểu. Khớp quá, tiếng Mỹ văng đâu mất hết trơn. Sau cùng, cô ta chịu thua. Chừng về nhà, bà chị chồng vừa cười ngất vừa kể, David “dịch” lại, tôi mới hiểu ra. Thì ra cô y tá kêu tôi vô tiểu trong cái ly để sẵn, dán giâý lên rồi đề tên mình, đưa cho cổ đặng cổ thử. Quê một cục! Thôi, lần sau.
Thấy tôi gần ngày sanh, chị dặn David sáng trước khi đi làm, đem mẹ con tôi qua nhà, con gái chị, Linda sẽ nấu cho tụi tôi ăn luôn, vừa canh chừng, sợ tôi chuyển bụng bất tử.
Tháng 3 sanh đứa con trai thứ nhì, tuổi Hợi, đặt tên Tommy Phương.
Chỉ sanh thiếu một tháng mà nhà thương giữ nó lại hơn 30 ngày. Nuôi từ 5 pound 3 ounce cho tới đúng 6 pound mới cho về. Thiệt là khác biệt quá đáng giữa nước nghèo với nước giàu. Ở Saigòn mẹ nằm 1 tuần, trả tiền phòng, về là xong. Ở Mỹ, 2 ngày mẹ bị đuổi về, con giữ lại. Sanh xong mắc cái nợ hơn 4000 ngàn đô, trả góp gần 6 năm mới hết.
Được một chuyện hi hữu là hai anh em nó sanh cùng ngày cùng tháng, đứa lớn 11 giờ rưởi sáng, đứa nhỏ 9 giờ 45 sáng, cách nhau 1 năm. Sau nầy, năm nào làm sinh nhựt hai anh em chỉ tốn một cái bánh, đứa phân nửa .
Không biết có phải lúc mang bầu tôi quá buồn phiền, thèm ăn thèm uống, ảnh hưỡng tới bào thai hay không mà Tommy bụng dạ rất yếu. Cứ bú vô là ọc ra.
Má chồng tôi từ tiểu bang Nevada tới nuôi cho hai tuần. David làm lương ít, chỉ đủ sức mua loại tã bằng vải, xài xong bà má chồng tiếp giặt giũ. Bà cũng chỉ tôi mua loại sữa bột tự pha rẻ hơn.
Nhờ bà mà tôi học được cách làm bánh mì, mứt dâu mứt cam. Bà là người rất khéo nấu ăn.. Khi chồng chết (lúc David mới có 9 tuổi ) bà phải mở một quán ăn nhỏ để sinh sống. Bà dạy:
- Con cần nên học một nghề, nghề gì cũng được. Lỡ chồng có chết bất tử mình còn có thể đi làm nuôi thân và nuôi con. Đừng như má đây, chỉ biết nấu ăn cho nên phải làm nghề đứng nấu bếp, cực lắm.
Tôi thấy lời bà rất đúng vì phải khòm lưng ở cái lò nướng mà lưng bà còng hẳn đi.
* Dọn nhà
Khi Tommy được 4 tháng mấy, thấy chồng cực khổ quá sức, chịu không nổi, tôi bàn nên dọn qua thành phố Reno, tiểu bang Nevada. Thành phố cờ bạc, việc làm có lẽ đở cực hơn ở đây; vả lại, có mẹ có dì dầu sao cũng không đến đổi.
Trên đường đi, đồi non, đồi già, núi đồi đầy sỏi đá mà vương lên hằng hà sa số, ngàn trùng rừng xương rồng. Bông đủ màu trắng toát, đỏ tươi, vàng chói, tím ngát, đẹp quá trời là đẹp. Tôi lính quính kêu:
- Ngừng ngừng ngừng Ngừng cho tôi xuống đào một bụi đem theo.
- Cây của tiểu bang. Đào một cây là bị phạt 500 đô !
- Trời ơi, cây cả đồi mà hổng cho đào một cây. Vậy ngừng cho tôi hái một cái bông.
David tỉnh bơ.
- Bông cũng không được hái.
- Ở đây giữa sa mạc ai mà biết.
- Tôi biết, mình biết. Nhiều người cứ tưởng nhân viên kiểm lâm không thấy, chừng bị phạt rồi mới nói sao xui quá.
Anh chồng Mỹ biết tánh cô vợ Việt. Y đánh đòn tâm lý là tôi thua liền. Nghe giá 500 đô là tôi làm toán. (500 mua được nhiều thứ. Mua đồ cũ đầy đủ: tủ+giường, + chén bát, …..tội gì vì cái bông để bị chính phủ ăn.) Vậy là tôi im.
Thiệt xứ sở gì mà luật lệ quá gắt gao. Nhưng, phải đụng vô túi tiền thì thiên hạ mới sợ. Với lại, nếu ai cũng như tôi, thấy bông thì hái, thấy cây thì đào, rừng nào chịu thấu, lấy đâu để lại hậu thế chiêm ngưỡng?
Tới nơi, chúng tôi phải ở tạm dinh thự của nhà triệu phú, Mr. Hardy, nơi má chồng tôi đang làm quản gia cho ông. Ông là người hết sức tử tế. Ngày xưa ông là kỹ sư ngành hỏa xa. Trong phòng khách còn treo một chùm đèn bằng pha lê hình dạng giống như chùm đèn ở Tòa Bạch ốc nhưng kích thước nhỏ hơn, đã được ông cựu Tổng Tống Roosevelt trao tặng.
Đi xin việc làm, ngày nào về David cũng vừa lo lắng, vừa buồn vừa tức tối. Thời buổi đó, dân Mỹ đang cơn sôi động, chống chiến tranh, đòi chồng đòi con . Họ nhìn chúng tôi, một cựu quân nhân về từ Việt Nam và người đàn bà Việt đã chiếm chỗ một công dân của họ bằng những con mắt lãnh đạm. Sự thù hằn, ghét bỏ đó là chuyện thường tình của thế gian. Tôi thường khuyên chồng:
- Tôi hiểu người Mỹ lắm. Họ mất chồng, mất cha, mất con, mất người yêu, sự đau khổ ở nước nào cũng ngang nhau. Đừng nên để tâm. Cứ kiên nhẫn đi xin, thế nào cũng có việc làm.
Đúng như vậy, David được nhận làm người giữ an ninh cho casino tên Nevada Club .
Vài tháng sau tôi kiếm người giữ con, cũng đi làm trong casino The Nugget, nhiệm vụ đổi tiền cho khách. Nếu có sự hiểu biết như bây giờ, tôi đã không bỏ con đi làm như vậy. Tiền kiếm ra có giữ được đâu. Thời gian qua rồi là không trở lại. Các con lớn lên mình không gần gũi nhiều, tiếc thay!
Tuy cả hai cùng có công ăn việc làm, chúng tôi sống như chân không chấm đất. David thường hay uống rượu say sưa, tôi vô cùng buồn bã. Lúc đó, David coi tôi như… không khí, hổng cần giữ cũng chẳng  mất đi đâu. Trong vòng mười mấy tháng, dọn nhà mấy lần. Và cũng mấy lần, tôi muốn bồng con đi. Rồi tôi nhớ lời nguyền của tôi trước bàn thờ ngày cưới. Rồi tôi nhớ lời Má tôi hay nói:
- Ba năm là tình, ba chục năm là nghĩa.
- Đồng vợ đồng chồng, chuyện gì cũng xong.
Rồi tôi nhớ lời Ba tôi khi còn sống:
- Nhịn đi con ơi (Thôi được, nhịn một chút cho con có cha có mẹ)
Rồi tôi nhớ lời thầy tôi (soạn giả Lê Hoài Nở, dạy ở trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ , đường Nguyễn Du, Sàigòn). Thầy đã dạy:
Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười tủm tỉm……rằng anh giận gì ?…
Chồng bước tới, vợ bước lui,
Bước lui một bước, êm xuôi cả nhà.
Tôi tự nghĩ: “Không có trường dạy làm chồng, làm cha, làm vợ, làm mẹ. Ai cũng phải tự học cho nên cần một thời gian hơi…lâu”.
* 1973, Trở Lại Việt Nam
Tháng 2 năm đó, một buổi chiều đi làm về, David hớn hở hỏi:
- Muốn về Việt nam không?
- Muốn chớ, mà sao hỏi vậy?
- Hiệp định Paris. Việt Nam hóa chiến tranh. Không coi tin tức à?
- Tôi coi chương trình Seeseam Street. Đang học tiếng Mỹ mà. Tin hồi nào?
- Mới đây. Mình sửa soạn về Việt Nam.
Mượn tiền má chồng đủ mua ba vé máy bay rưỡi (phải đi trước khi Tommy hai tuổi vì trên hai tuổi phải mua nguyên vé).
Về lại Việt Nam, đọc báo, tôi biết đây là thời gian nhà báo văn nghệ sĩ “xuống đường”. Tôi không hiểu rỏ nghĩa “xuống đường” là gì. Đây cũng là lúc tôi đọc được những sách “Giải khăn sô cho Huế” của nhà văn Nhã Ca và cuốn “Mùa Hè Đỏ Lửa” của Phan Nhật Nam.
Theo lời con em Ngọc Anh, đang là thời gian thi hành hiệp định bốn bên: gồm Mỹ, Nam Việt Nam , Bắc Việt, Mặt Trận Giải Phóng. Mỹ đang từ từ giảm viện trợ, rút cố vấn, rút quân Mỹ, thu xếp trả tù binh.
Vì mừng quá, chúng tôi không cần biết gì về tin tức chiến tranh. Sống gần gia đình ngày nào hay ngày đó.
David được nhận làm cố vấn cho binh chủng Hải quân, ngành truyền tin, với tính cách công tra dân sự, đóng ở vịnh Cam Ranh. Tôi gởi hai đứa nhỏ cho mấy em, theo chồng kiếm nhà ở. Đi mà tôi đã quên một điều: gia đình tôi, chỉ là những người xa lạ đối với hai đứa nhỏ. Tommy vì nhớ cha nhớ mẹ, nó bịnh nặng, nằm thoi thóp, tưởng đâu tiêu rồi. Lúc đó má tôi theo mấy dì buôn bán quần áo con nít ở chợ Cầu Ông Lãnh. Buổi chiều về , má bồng nó đi bác sĩ liền, nó mới còn tới ngày nay. Thiệt tình, tôi làm mẹ quá dở.
Mới đầu, ở sau nhà đại úy Đương (chủ cây xăng gần cây số 9 ngoài cổng căn cứ Cam Ranh) Vài tháng sau dọn vô ở khu Đài Thu (Receiver Site) sát bãi biển, và cuối cùng ở Trung tâm Hải quân (Main Naval Base, Market Time).
Đây là thời gian vui nhứt của đại gia đình. Má với mấy đứa em thay phiên nhau lên chơi. Bãi biển Cam Ranh đẹp vô cùng. Có đảo Bình Ba có chợ Đá Bạc . Nhờ ở đây tôi mới biết và thấy những con rùa biển lớn bằng cái bàn (dân địa phương kêu là con Vích). Cam Ranh cũng là một trong ba chỗ trên trái đất giống rùa nầy lên đẻ trứng. Có một đêm theo mấy người lính rình coi . Nó đào lỗ, rặn một hơi cả trăm cái trứng, móp móp, ướt ướt, rồi dùng hai cái chân lấp đất, dấu xong, bò trở xuống biển. Mấy người lính đào lên đem về. Đôi khi, họ bắt luôn con rùa.
David hay nói :
- Sao người ta không chừa vài cái trứng. Ăn hết như vậy làm mất giống rùa !
Ngoài con rùa biển lớn còn có con kỳ nhông màu đỏ. Sau nầy về Mỹ tôi mới biết người Mỹ khám phá ra loại nầy dùng để chữa bịnh. (bịnh gì quên rồi )
Đám em tôi theo mấy người lính, nói thịt rùa đỏ tươi ăn như thịt bò, kỳ nhông cũng ăn thử, khen, như thịt gà!. Thiệt, mấy đứa em tôi ăn uống “dã man”. Tôi sợ, không dám ăn. Ở đây, nghe nói cũng là xứ nhiều cọp. Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận mà. Trong khu căn cứ còn có một cái hồ cọp thường xuống uống nước. Mỹ đặt tên là Tiger Lake.
Ngày 9 tháng 8 Tổng Thống Nixon từ chức.
Chúng tôi ngày nào cũng vùng vẫy dưới biển. Ăn món gì cũng ngon. Lúc đó David làm lương tháng chỉ trên 400 đô. Đâu có sao. Cha mẹ vui thì con cái cũng vui.
* 1974, Rút Hết Về Mỹ
Cuối năm, tháng 12, một ngày sửng sốt. David về, hối hả:
- Sửa soạn về Mỹ.
- Cái gì ? Sao vậy?
- Mỹ phải rút hết. Mình có nghe đài Hoa Kỳ không? Nó đệm bản nhạc White Christmas suốt ngày là hiệu báo Mỹ dân sự phải rút hết.
- Trời đất ơi, đi liền sao?
- Đi liền. Về Sài gòn làm thông hành cho con.
Thử thời vận lần thứ nhì, tôi ra Bộ Nội Vụ hỏi cách thức đem thằng em trai duy nhứt theo. Họ cho biết đem em không được, nhứt là con trai, nhưng, con riêng thì được.
Vậy là, tự nhiên tôi có hai đứa con gái riêng (xin chính phủ Mỹ tha thứ cho tôi).
Tin chiến sự cho hay quân Trung Cộng dùng đầu đạn hỏa tiễn (Guided Missle) bắn chìm một chiến hạm Mỹ viện trợ cho Việt Nam (chiếc Destroyer Escort), chỉ sống sót một quân nhân. Trung Cộng ỷ mạnh hiếp yếu chiếm đoạt đảo Hoàng Sa, một cái một!
Ngày 24 tháng 12 năm 1974 chúng tôi trở về Mỹ, tới Louisana ở tạm nhà bà chị.
* Thề thoát cảnh nghèo đói
David xin được việc làm, tài xế lái xe đào đất cho hãng thầu xây cất nhà cửa, loại nhà 25.000 đô một căn. Những tưởng cuộc sống tạm yên, nào ngờ, nền móng xây xong,  David bị layoff.
Tôi nhớ ngày đó, sự thất vọng và tức tối hiện rõ trên mặt, nước mắt muốn trào ra của y. Anh rể còn trong Hải quân, chị tôi theo chồng. Chúng tôi trơ trọi.
“Giải pháp Reno” là có nhiều hy vọng. Lại kêu gọi tới má chồng gởi xuống 500 đô.
Bạn hãy tưởng tượng hai người lớn, bốn đứa nhỏ cùng quần áo đồ đạc chen nhau trong chiếc xe nhỏ xíu, trong tay có khoảng 675 đô, vượt hơn 1,500 miles. Nửa chừng xe bị ãy nhíp ngừng sửa, tiêu hơn trăm rưởi. Dọc đường chỉ đậu ở chỗ bãi xe hàng , nghỉ đỡ 1, 2 tiếng. Ăn uống luôn trong xe, David lái một mạch 72 tiếng đồng hồ, xuyên qua mấy tiểu bang, giữa trời bảo tuyết!
Tới Reno 1 giờ trưa.
Đậu xe bên lề đường David đi bộ tới Casino để tìm việc. Ngồi lâu nóng ruột dặn hai đứa em coi chừng cháu , tôi cũng xuống xe đi lòng vòng coi có việc gì làm đại hay không. May mắn tôi được nhận liền chân bồi phòng ở nhà trọ tên Caravan.
Khi trở lại xe đã quá 3 giờ. David đi tới đi lui, tức tối:
- Đi đâu vậy? Tôi có việc làm, phải bắt đầu lúc 2 giờ, bây giờ trễ rồi, ai mà cho vô nữa.
- Không sao, tôi có việc, ngày mai bắt đầu.
Tìm chỗ ở. Motel Atlas, một phòng ngủ, có bếp nhỏ, tủ lạnh
Chiều hôm sau tôi đi làm về, David mặt mày một đống:
- Hôm nay tôi đi nộp đơn lãnh tiền thất nghiệp. Nó làm như mình đi xin vậy. Tôi không trở lại đó nữa đâu.
- Thì cũng phải ráng chớ sao. Lãnh tiền đó trong khi chờ kiếm việc. Chẳng lẽ để mấy đứa nhỏ đói?
Chúng tôi sống chật vật như vậy hết một lúc.
Bạn ơi, đây là thời gian khủng hoảng, xuống tinh thần nhứt. Lương tôi một tuần 63 đô, trả tiền phòng hết 60, còn lại bao nhiêu? Mỗi ngày dọn phòng, khách để lại cho mấy chục cents, một đô là mừng lắm.
Tôi bán đầu tiên cái kiềng trơn hơn một lượng vàng 24 kara chưa từng đeo, rồi cặp nhẫn vàng Má tôi cho trước khi đi với lời dặn “để dành chừng nào con đói bán lấy tiền cho con ăn”, rồi cặp nhẫn xoàn má chồng cho.
Mỗi tuần mua hai hộp cereal hiệu Captain Crunch loại hột tròn tròn có đậu phọng (thằng con lớn tới bây giờ vẫn còn nhớ mùi vị đó) 1 đô 10 ổ bánh mì, loại bánh mì gần ngày hết hạn , nhưng vì ăn trừ cơm cho nên mau hết, không sợ hư ! hai hộp mứt, hai keo đậu phọng nát, hai hộp cacao pha sữa, một bịch gạo hai cân (chỉ nấu cháo) nhiều bắp cải, có khi 1, 2 con gà là món ăn của 6 người. Cũng may, hai đứa em đi học , được ăn uống đầy đủ, mỗi ngày để dành đem về cho hai đứa cháu mấy trái cam trái bom, vài cái bánh !
Còn nhớ một ngày bà dì chồng mời ăn bữa tối. Thiệt là một bữa ăn nhớ đời, đang đói mà!
Chồng tôi, người Mỹ, sống trên đất Mỹ mà cũng trải qua thời gian đói khổ, cũng như quí vị sau tháng 4 năm 1975.
Tôi lại mắc thêm một lời thề nữa. Tôi thề sẽ không để con tôi đói khổ…
Từ đây, tôi tập nhìn đời bằng con mắt khôi hài, chuyện gì cũng thấy nhẹ bớt đi. Và rồi cái đói khổ không kéo dài lâu.
Tôi xin được việc làm trong một hãng may màn, tấm trải giường, áo gối, đồ làm bếp…
Có biết may vá gì đâu. Có lẽ họ nhận vì cái mặt Á Đông của tôi. Ngày đầu tập sự tôi hỏi việc cho chồng, gặp ông giám đốc tử tế, y đắn đo một hồi rồi nói:
- Thông thường chúng tôi không nhận vợ chồng làm việc chung, nhưng lần nầy tôi phá lệ. Việc gì cũng đủ người rồi nếu chồng you muốn thì vô làm việc sắp đặt máy may, dọn dẹp hãng.
- Thiệt là…. Đội ơn ông.
Mỗi ngày tôi ngồi vật lộn với cái máy. Máy gì chạy lẹ quá trời ! Vừa đặt miếng vải vô nó làm một cái rẹt níu không kịp.
Mỗi ngày nhìn anh chồng Mỹ cầm cây chổi quét hãng mà ứa nước mắt.
Sau một tháng đi làm khi trời còn tối, về nhà thì trời đã tối rồi!, hết việc dọn hãng.
David hỏi ông giám đốc :
- Trong hãng việc nào làm lương cao nhứt ?
- Trừ việc quản lý, chỉ còn việc làm sửa máy may là lương cao.
David nói:
- Tôi có kinh nghiệm sửa máy kéo tiền trong Casino. Ông cho tôi thử nghề sửa máy may trong hai tháng, nếu làm không xong tôi sẽ tự động xin thôi.
Từ nghề sửa máy, David được lên chức phụ tá quản lý.
Ông Harvy, người ân nhân đã mất năm 1977. Chúng tôi không bao giờ quên ơn ông. Ông biết nhìn người, ông đã khởi đầu, hướng dẫn nghề nghiệp, cho chồng tôi có cơ hội xử dụng khả năng, vượt qua cảnh nghèo.
* 1975, Thắt Ruột, Thắt Gan
Bắt đầu từ tháng ba Ngọc Anh gởi thơ với tin tức chiến sự, càng ngày càng sôi động. Miền Nam thật sự trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Qua tháng tư , mỗi ngày coi tin tức, thấy bản đồ chữ S bị màu đỏ nhuộm lần lần từ vĩ tuyến 17 xuống miền Nam, ngày nào ba chị em tôi cũng khóc. Sự lo sợ, nóng ruột nóng gan không còn nghi ngờ gì nữa, màu đỏ xuống tới Xuân Lộc, rồi Long Khánh, miền Nam lọt vô tay cộng sản là cái chắc.
Ngồi may mà nước mắt tuôn ra, tới nổi cô bạn nhỏ người Hong Kong, tên Siu Woo, chịu không thấu. Sẵn máy sẵn vải dư, nó may liền một cái túi, đi vòng vòng hãng xin tiền đồng nghiệp cho tôi. Thiệt có gặp cảnh khổ mới thấy người có lòng, nhứt là người nghèo. Nó xin được hơn trăm bạc. Rồi bà má chồng và ông giám đốc tốt bụng, cho chúng tôi mượn tiền gởi chị tôi cùng chồng trở về Việt Nam tìm cách rước gia đình. Nhưng, máy bay chỉ hạ cánh ở Thái Lan vì đã được lịnh không thể đáp xuống Việt Nam. Vậy là hết đường !
Đài truyền hình loan báo chiến hạm Mỹ đang neo ngoài khơi, ai ra tới sẽ được vớt. Lộ trình di tản, người ta chết trên đường lộ, chết chưa ra khơi, chết từ trên không trung rớt xuống. Một máy bay di tản trẻ mồ côi bị Cộng quân bắn hạ, mấy trăm trẻ chết hết???.
Đau đớn biết bao cho những người lính Cộng hòa đã bị bỏ lại. Càng coi càng thắt ruột thắt gan.
Cuối tháng Tư, trong tình trạng vô cùng tuyệt vọng, kể như sẽ không còn nhìn thấy mẹ và mấy đứa em nữa. Thình lình, đêm 29, khoãng 2, 3 giờ sáng, má chồng tôi kêu, nói, có người nào từ phi trường Hawaii cho hay má và mấy em đã rời Việt Nam.
Thủy quân Lục Chiến Mỹ làm hàng rào nhân sự, cầu không vận giờ chót đã bốc gia đình tôi ra khỏi địa ngục. Mừng quính, David liên lạc được với phi trường, nghe tiếng thằng em tôi:
- Cả nhà đi đuợc, chưa biết chắc đi đâu, họ nói Wake gì đó, em hổng hiểu, sợ quá.
David nói :
- Rồi, nó đưa qua đảo Wake, căn cứ quân sự.
Mừng thôi là mừng. Sau cơn mưa, trời sáng sủa hơn..
Mấy ngày sau, biết chắc những người trong chuyến bay đó đang ở trại Pendleton, California. Chúng tôi đi rước về. Gia đình tôi ở trại chỉ có vài ngày.
Về Reno, đài truyền hình Eye Witness News và đài số 2 tới tận nhà phỏng vấn.
Qua ngày sau, má và ba đứa em tôi vô hãng may làm, đài truyền hình lại tới quay phim, báo chí đăng hình, viết bài chúc mừng, gia đình tị nạn đầu tiên. Thiệt đúng là báo có đăng đài có nói đàng hoàng.
David nói với tôi:
- Tôi không tin tôn giáo nhưng đây là lần đầu tôi đã cầu nguyện.
Lúc đó vì mừng quá, đem gia đình ra khỏi trại sớm quá, chúng tôi không hiểu gì về quyền lợi và sự giúp đở bước đầu mà chính phủ Mỹ dành cho dân tị nạn. Chúng tôi chỉ biết có một điều là qua được rồi thì đi làm nuôi thân và trả nợ. Tội nghiệp Ngọc Anh, Kim Loan và Tấn Long thằng em trai mới có 17 tuổi là tuổi có thể trở vô trường, phải đi làm. Chỉ có Kim Phượng, Hoàng Thư và Thúy Phương được tiếp tục đi học.
Dân chúng Mỹ, chồng con về rồi, lòng nhân đạo họ cũng mở ra.
Thời gian nầy là lúc người Việt tị nạn có đủ chuyện vui về việc tự dịch tiếng Mỹ. Hiểu sao dịch vậy, giản dị gọn gàng.
Đưa tay chỉ vợ, chàng giới thiệu với người Mỹ:
- This is my house (đây là nhà tôi)
Ai làm gì sai, lắc đầu, xí xóa:
- No star where (không sao đâu)
- The wind hit him (nó bị trúng gió)
Bạn còn nhớ hôn?
* 1976, Cái Nghèo Đeo Đuổi
Sanh đứa con gái út, tuổi Thìn, tên Elizabeth Xuân. Hơn hai thằng anh, con rồng nầy ở đủ tháng đủ ngày. Nó uốn éo, nó vùng vẫy, nó nhào lộn, nó cân nặng 6 pound 12 ounce, sanh 6 giờ sáng.
Được chuyện nầy mất chuyện kia. Sợ con đói khổ, sợ cái nghèo đeo đuổi, sanh mới hai tuần tôi mướn người giữ con, đi làm lại.
Hai đứa rồi, thêm đứa thứ ba, đứa con gái mà David từ lâu mong đợi, tôi cũng đã bỏ bê nó cho người giữ.
Có phải vì lý do đó mà sau nầy lớn lên có chuyện gì buồn nó chỉ tâm sự với bạn mà thôi. Bây giờ nghĩ lại tôi vô cùng hối tiếc.
Sang năm 1977, dọn qua California. David làm Giám đốc hãng Barth&Dreyfus.
1978, Làn Sóng Thuyền Nhân
Sang năm 1978, Việt Mỹ được thư từ qua lại.
Làn sóng thuyền nhân tràn ngập các đảo nước lân cận. Cuối năm, cả đại gia đình dọn xuống North Carolina mở thêm chi nhánh. Làm ra tiền mà chỗ ở quá buồn.
Cuối năm, dì Năm cho hay chính quyền giải toả nghĩa trang Phú Thọ Hòa, phải lấy cốt Ba. Má tôi dặn đem đốt rồi gởi vô chùa. Dì Năm cho đứa con trai vượt biên, qua đảo Bulabidong an toàn.
*1979, Trận Cuồng Phong David
Năm nầy, thơ dì Năm cho hay cha con tụi tôi sẽ gặp nhau. Đó chỉ là cách nói bóng gió cho biết dì sẽ mang theo tro cốt của ba tôi đi vượt biên. Chừng không nghe tin tức của dì mà chỉ nghe tin thời tiết về trận bão chúng tôi lo lắng vô cùng.
Trận cuồng phong (hurricane ) trớ trêu thay lại có tên là David, khủng khiếp, tàn phá, giết hơn 1,100 dân vùng duyên hải đảo Caribbean. Bão dữ sóng thành nhận chìm biết bao thuyền nhân.
David liên lạc với hội Hồng Thập Tự, họ cho biết tin dữ : chiếc tàu Minh Hải khởi từ Cà Mau đã không tới bến. Hơn 20 người bà con cùng dì Năm ôm bình tro cốt ba tôi, chìm sâu đáy biển. Ba tôi chết lần thứ hai! Một lần vì chiến tranh. Một lần vượt biên.
Nghe tin, không biết phải làm gì. Thấy tôi ngồi chết lặng cả buổi trong xó nhà, David ra xe lái đi. Y đi tìm chỗ làm thủ tục đứng tên bảo lãnh hai gia đình thuyền nhân Việt Nam.
Ở North Carolina, tôi đã gặp nhiều cựu quân nhân, thương phế binh Mỹ trở về từ Việt Nam. Một người da trắng, mặt mày bị cháy bởi bom Napaln, không còn hình dạng mắt, mũi nữa… Một người da đen, tay chống nạng, ông nói:
- Tôi để lại một chân bên xứ của cô.
Bạn nghe đau lòng không?
* 1984, dọn hẳn về California
David nhảy từ hãng nầy qua hãng nọ, chỗ vài tháng, không hài lòng với việc làm. Hùn hạp với một người Đại Hàn mở hãng in vải, lỗ vốn, đóng cửa .
Thất nghiệp. Y bỏ uống rượu. Nhất định không chịu xin tiền thất nghiệp. Năm nầy là năm thất thời thất chí của y. Ngồi trước TiVi, không đổi đài, hồn lạc đâu mất tiêu. Nhiều đêm, y ngồi dậy, lâu lắm, không nói gì. (Sau nầy nghe người ta nói cựu quân nhân Mỹ tại Việt Nam thường bị flashback, có nghĩa bị hình ảnh quá khứ ám ảnh, hổng biết dịch tiếng Việt là gì.)
Tôi cũng không khá hơn. Ở nhà lãnh tiền thất nghiệp. Vừa may em tôi, Thúy Phương, đem cuốn sách dạy về ngành Thẩm Mỹ cho tôi dịch mướn, kiếm thêm chút đỉnh!
* 1987, Má Chồng Mất
Việt kiều bắt đầu trở về Việt Nam thăm nhà.
David làm cho hãng Design Collection (DC) chuyên mua bán, xuất nhập cảng hàng vải. Tôi đậu bằng thẩm mỹ, ở lại dạy cho trường.
Giữa năm, má chồng tôi mất. Trước khi chết bà dặn không được mở nắp hòm.Bà muốn con cháu nhớ lúc bà còn sống chớ không nhớ tới cái xác vô hồn. Thôi rồi!
Bà đi trước khi được thấy sự nghiệp thành công của con trai. Cũng không kịp cho tôi nói lời cám ơn, thưa với bà là đứa con dâu Việt Nam của bà đã có nghề nghiệp chuyên môn, khỏi phải lo đứng bếp như lời bà từng dặn.
Còn đâu nữa những buổi ăn ngon lành thuần túy thức ăn Mỹ. Những ngày lễ lớn, nếu tụi tôi không đi thăm được, bà luôn luôn gởi thùng bánh trái tự tay làm cho con cháu. Tôi nhớ những lúc túng quẫn, bao giờ tụi tôi cũng kêu gọi tới bà. Lòng mẹ thương con dân tộc nào cũng như nhau.
Từ đây, bà đã nằm kế bên ngôi mộ người chồng yêu dấu.
* 1988 – 1990
David lao đầu vô việc làm. Mỗi tháng đi Nửu Ước hoặc South Carolina một tuần. Tôi cũng lo việc của tôi.
Hai đứa con trai tới tuổi vị thành niên, tuổi nguy hiểm. Bắt đầu nếm mùi lo buồn vì con cái. Lỗi chúng tôi phần nào vì đã không biết dạy dỗ tụi nó đúng cách.
1990. Bà chị thứ tư của David mất vì bịnh đứng tim.
1991, David Bị Kích Tim
David bị heart attack (kích tim) vô nhà thương mấy tuần. Hậu quả của gần 30 năm hút thuốc. Hút càng ngày càng nhiều. Việc làm càng khó khăn, căng thẳng, y càng cố gắng, càng cố gắng thì hút thuốc càng nhiều.
Chưa từng biết gì về computer nhưng với kinh nghiệm làm việc, y đã điều hành, kiểm chứng cho chuyên viên lập ra một chương trình để xử dụng trong hãng. Từ lúc hãng mới mở cửa năm 1986, việc ít, người ít, mọi sự đều làm bằng tay. Cơ sở phát triển lên hàng trăm nhân viên, phải điều hành bằng hệ thống điện toán.
Vì trách nhiệm, vì việc làm đòi hỏi sự quan tâm thường xuyên, y đã quên thân mình. Một ngày hai bình cà phê, ba gói thuốc thì thân nào chịu nổi. Bác sĩ cho biết nếu không tự săn sóc lấy mình thì y sẽ không sống tới ngày có cháu!
Sợ chết ,y bỏ hút thuốc. Một cái một. (y nói nhỏ không muốn bỏ tôi lại một mình)
Tôi thi đậu, làm giám khảo ngành thẩm mỹ.
Chiến tranh giữa Kuwai và Iraq bùng nổ.
Hai đứa con trai nói “khi quốc gia cần tụi con sẽ đi lính ” dù ba nó đã cho biết sự sai lầm của chính bản thân. Tôi quá lo sợ, sợ cho tới ngày Tổng Thống Bush rút quân về.
Con gái tôi bắt đầu cãi cha ghét mẹ. Khi buồn nó chỉ tâm sự với bạn mà thôi. Lỗi tại tôi, ham làm việc, ít gần gụi nó.
Diện con lai, gia đình HO bắt đầu qua Mỹ.
* 1992 – 1993
Lawrence vừa đi học vừa đi làm. Đứa con trưởng có tánh tự lập từ nhỏ. Có em sớm, nó cũng sớm biết nhường nhịn, thường ngồi chơi một mình.
Còn nhớ Tommy, lúc mới mấy tháng biết nhìn ai là mẹ rồi, tối nào tôi cũng phải ẵm nó từ 8 tới 9 giờ rồi bỏ vô giường thì nó mới chịu ngủ.
Vậy mà vù một cái, năm 1993, tôi cưới dâu trưởng, gốc Quảng Đông, tên Elaine.
* 1994 – 1996
Hãng DC chia ra chi nhánh lấy tên Division 92, David đươc một phần trong bốn phần hùn. Y vừa làm chủ hãng DIV 92, vừa làm phó giám đốc cho hãng chính DC.
Cuối 1994, Tommy vô hãng làm việc cho cha.
Sang năm 1995, con dâu có bầu. Đứa đầu không giữ được.
Tôi cứ suy nghĩ hoài. Có thể nào, vì Agent Orange (chất độc mầu da cam từng xài quanh các căn cứ Mỹ ở Việt Nam thời chiến) ảnh hưởng máu ông nội, qua tới đời cháu? Chẳng lẽ hậu quả của chiến tranh đeo đẵng theo phá hoại tới đời con cháu?
1996, Thêm Công Dân Hợp Chủng
Elaine có bầu lần thứ nhì. Lần nầy thì mẹ tròn con vuông. Chúng tôi có cháu nội gái tên Emily.
Vậy là, xứ sở có tên Hợp Chủng Quốc thêm một công dân hợp chủng. Emily có 3/4 máu Á Đông, máu Mỹ còn có 1 phần. Nếu theo cái đà nầy, vài thế hệ tới nước Mỹ sẽ không còn da trắng, đen, vàng, đỏ, nâu nữa mà sẽ có cùng chung một màu … lờ lợ. Với cháu nội, tôi muốn sửa lại những sai lầm, thiếu sót của tôi khi nuôi con, tất cả thì giờ rảnh tôi dành cho nó.
* 1997, xuống tàu, “ra riêng”
Elizabeth vô hãng làm phụ tá cho David.
Tụi tôi để nhà lại cho vợ chồng Lawrence. Mua chiếc tàu dài 28 feet, “ra riêng”, sống luôn trên tàu. Kể như chúng tôi ăn trái do mình trồng, bây giờ có dư chút đỉnh tiền, y dụ tôi mua chiếc tàu để thỉnh thoảng đi câu cá. Tôi chìu theo dù không biết lội.
Ai mà ngờ ngày ký tên nhận tàu, cũng là ngày tụi tôi ở luôn trên con tàu neo giữa Boat City tại Marina del Rey…. Không khí mát mẻ, tôi dứt chứng bịnh dị ứng mũi kinh niên. Từ ngày ở trên tàu không còn phải xài thuốc thông mũi nữa.
Sang năm 1998, con tim của David có vẻ chịu gió biển, không thấy lên cơn bất tử nữa. Công việc “xuôi chèo mát mái” y đòi đổi chiếc tàu 38 feet. Tôi lại phải gật. Sống trên mặt nước là ước muốn từ lâu của y. Có con tàu riêng đúng ý, David vui vẻ coi là “mộng đã thành.”
Nhìn y vui, tôi nhớ đủ thứ. Chẳng có giấc mộng nào tự nhiên mà thành. May mắn không đủ. Núi cao có núi cao hơn. Lúc nào chúng tôi cũng tự hỏi “Mình có làm đầy đủ nhiệm vụ chưa” để khỏi phụ công ơn của những người trên đường đời đã một lần nào đó, giúp mình.
* 1999, Vĩnh Biệt Elaine
Trước ngày lễ Tạ Ơn, nhận tin chị Elaine đang hấp hối. Tới nhà chị, tụi tôi quẩn quanh trong 4 ngày. Đây là lần thứ hai tôi chứng kiến mạng người chênh vênh giữa sự sống và chết.
Khi Ba tôi bị bắn, cái chết thời chiến đến thình lình, tức tưởi, tê dại. Chị Elaine chết trong cảnh an bình. Đứng lặng bên giường chị, tôi thấy sự hấp hối, lấy hơi lên, hớp từng hớp không khí mà không nghe hơi thở ra, cho tới hớp không khí cuối cùng. Thình lình, tim ngừng đập.
Chị mất, tuổi mới 53. Tro tàn chị dặn hãy đem rải trên ngọn núi Table Rock ở Medford, nơi chôn nhau cắt rún. Một cuộc đời, chỉ sống loanh quanh nơi thị trấn nghèo nàn, buồn thiu. Sống giản dị, chết cũng giản dị.
Còn nhớ mới ngày nào chị cùng má chồng ra sân bay rước tụi tôi, năm 1970. Tôi gặp chị vào lễ Tạ Ơn, nay chị xa tôi cũng vào dịp lễ nầy! Thoắt cái. Ba mươi năm. Thôi rồi, xong một đời người. Vĩnh biệt Elaine.

* 2000, Sau 32 Năm
Ngày 28 tháng 5 năm 2000, ngày giỗ Ba tôi.
Sau 32 năm, nhìn đám con nguyên vẹn 7 đứa (chị tôi đi xa không về kịp) cùng gia đình sum họp, có lẽ Má tôi, chen lẫn trong buồn nhớ là sự hài lòng. BMá đã không uổng công ở vậy nuôi con. Mấy chị em tôi, dù con cháu đầy đàn, vẫn luôn luôn quẩn quanh bên Má. Tôi không đủ chữ nghĩa để viết về người mẹ. Bà là người đã tạo cho tôi lòng tin và sự cứng rắn. Chính bà là chỗ dựa để tôi đứng lên vững hơn mỗi lần bị đời đạp xuống. Má tôi đã lên chức Bà Cố từ lâu.
Tháng 6, tôi có thêm đứa cháu nội gái tên Charlotte. Đứa lớn giống mẹ đứa nầy giống cha. Đứa cháu lớn nói tiếng Tàu thiệt là giỏi. Tiếng Mỹ khỏi học cũng biết. Tiếng Việt nói gì nó cũng hiểu, mà còn mắc cỡ miệng. Năm nay tôi cho nó 2 cuốn băng học tiếng Việt, má nó cùng học luôn thể. Mới 4 tuổi rưởi mà nó ma le lắm. Khi nào muốn tôi chơi với nó, nó sẽ giở giọng nhõng nhẽo ra ” bà nội, lại đây” bằng tiếng Việt có bỏ dấu đàng hoàng (giỏi hơn ông nội) lòng tôi mềm nhủn liền.
Khi nhận tin người anh rể chết bất thình lình, tôi nhớ ngày anh mang David về ngôi nhà cũ ở Phú Lâm giới thiệu. Anh chính là “ông mai” của chúng tôi. Tôi biết ơn anh.
Cho tới ngày nay, David cũng chỉ nói được vài tiếng Việt không bỏ dấu.
Tôi xào đồ ăn, y nhắc:
- Put alot of Cu Hanh ( để nhiều củ hành).
Mỗi lần ai hỏi về “Chuyện gì xảy ra ở “Nam’” y trả lời:
- Mình rút, mình thua. Vinh hạnh gì mà khai? Tôi thấy xấu hổ…
Tôi không nhìn người đàn ông đi bên tôi là người ngoại chủng, chỉ thấy một người chồng, người cha, lòng tốt lấp đi tật xấu. Y bắt buộc ba đứa con phải nói tiếng Việt để tỏ lòng kính trọng người mẹ Việt và gia đình bên ngoại.
Đó bạn, “chuyện nhà” chúng tôi, cũng ba chìm bảy nổi như bao câu chuyện khác.
Qua kinh nghiệm sống hơn ba chục năm, tôi thấy nước Mỹ chuộng người siêng năng, cầu tiến, cố gắng và biết chụp cơ hội. “Ngồi mà chờ thời, đời nào mà thành.”
Tôi hay chọc David :
- Nước Mỹ nợ nước Việt Nam, cho nên phải cưu mang người Việt. Má tôi hơn 75 tuổi còn sáng suốt, ăn uống đầy đủ, bịnh hoạn đã có bác sĩ, nhà thương lo. Các em tôi có công ăn việc làm đàng hoàng. Còn you, you nợ tôi, you tình nguyện vô lính lúc chưa tới 17 tuổi, bắt mẹ phải đi ký tên, đi tuốt qua bên kia trái đất, rước tôi về đây để trả nợ.
Y nịnh:
- Nợ tình. “I love you từ kiếp trước”. Nợ tiền trả lần lần cũng hết. Nợ tình thì anh trả suốt đời. Kiếp nầy không xong trả thêm kiếp sau.
Vậy là sau bao năm coi vợ như… không khí, y bắt đầu hiểu ra là không khí cũng có chút giá trị.
Vợ chồng, khi hiểu được điều nầy, thường đã…quá “đát”. David nay không còn ốm gọn, mà y như cái thùng phuy. Tôi cũng đã tròn như cái gối ôm, đâu còn nhỏ xíu, mỏng manh như khi đứng bên y trước bàn thờ Ba tôi năm nào.
Trong trận cuồng phong David năm 1979, mạng sống hàng ngàn người và thuyền nhân đã bị nhận chìm, trong đó có dì Năm và tro cốt Ba tôi. Tất cả chìm tan nhưng biển vẫn còn đó.
Hàng ngày, tôi đang là “tàu nhân” sống ngay trên biển.
Đứng bên David, người chồng Mỹ cùng tên với trận cuồng phong, nhìn biển, nghe tiếng sóng xô, lớp sau đùa lớp trước, tôi hiểu điều tôi khấn nguyện và tự hứa năm xưa vẫn được Ba tôi liên tiếp nhắc nhở và phù hộ.

TRƯƠNG NGỌC BẢO XUÂN

 

Ba Tôi

Ngọc Anh



Ở Việt Nam ngày trước năm 1975, chúng ta không có ngày lễ đặc biệt dành cho những người Cha như nước Mỹ. Qua đây sống , từ từ hội nhập dòng sống của người Mỹ, mỗi năm, những ngày lễ lớn như Lễ Tạ ơn, Giáng sinh, lễ cho Mẹ , lễ cho Cha, lễ cho Tình yêu… lần lượt thâm nhập vào từng gia đình người Việt sống trên đất Mỹ tạo thành một truyền thống tốt đẹp bên cạnh những tập tục cổ truyền của người mình như Tết , Vu lan mùa báo hiếu …
Năm nào mùa lễ Cha, tôi cũng đau lòng nhớ tới ba tôi , người đã quá cố từ hơn bốn mươi năm nay.
Ba tôi là một nhiếp ảnh gia, nói theo chữ nghĩa nhà nghề.
Thuở đó thập niên 50s, tôi còn nhỏ tí, chưa đi học. Gia đình tôi được cấp phát một căn nhà nhỏ trong khu cư xá Cảnh sát Quốc gia nằm trên đường Nguyễn Trung Trực, góc Lê Thánh Tôn sát nách chợ Bến Thành, Saigon. Sở làm của Ba thuộc ngành Cảnh sát Tư pháp.
Ba làm ở phòng Giảo nghiệm. Nhân viên ngành nầy tuy là Cảnh Sát , nhưng tôi thấy mấy bác cũng như ba tôi đều mặc thường phục áo sơ mi trắng quần tây màu đen khi đi làm. Tại sở, ba khoác thêm chiếc áo choàng màu trắng, như áo bác sĩ dài tới gối, lúc làm việc.
Ba tôi, giống như mấy bác đồng nghiệp của ba mà tôi biết, phải trực mỗi tháng một đêm ngủ luôn tại sở. Những ngày nầy tụi tôi thường được ba cho đi theo ba vô sở ngủ lại với ba.
Tụi tôi thích ghê lắm. Tôi vẫn còn nhớ tấm hình thằng em trai nằm trên cái ghế bố nhỏ, cầm tờ báo lên đọc giả bộ bắt chước y như ba, mà  ba chụp được, tờ báo đó em trai cầm ngược chiều vì nó có biết chữ đâu mà đọc.
Tôi thì thích theo ba vô phòng tối để coi ba rửa hình.
Ngộ ghê nghen, ba trực mà thấy ba cứ lui cui trong cái phòng tối om nầy suốt đêm.
Ngoài cửa phòng có gắn cái bóng đèn nhỏ xíu màu đỏ, được bật lên mỗi khi ba vô phòng tối để làm việc, là đèn hiệu phòng đang dùng để không có ai mở cửa vô , ánh sáng làm cho hình rửa bị hư , tôi nhớ ba nói vậy đó. Trong phòng tối thiệt, tối om, dơ bàn tay không thấy. Tôi sợ ma, bám dính theo ba.
Tôi nhớ, trong phòng tối cũng có gắn một bóng đèn rất nhỏ, màu đỏ, không đủ soi cái gì hết .
Ánh sáng có được, tôi nhớ, toát ra từ bộ phận máy rọi hình xuống tờ giấy Kodak màu trắng bóc. Sau đó thời gian mấy giây, nhớ ba canh chừng bằng cái đồng hồ đeo tay, ba nhúng tờ giấy đó vô thau đựng thuốc rửa hình, bằng cây kẹp, rồi lấy ra, ngâm vô thau kế bên.
Giai đoạn nầy thích thú nhất với tôi.
Tôi đứng bên ba, cái đầu chắc vừa đụng bàn thôi vì lúc nhỏ tôi nhỏ con lắm. Từ cạnh bàn, tôi trố hai mắt mà coi hình ảnh từ từ hiện lên trên tờ giấy trắng như là phép lạ.
Rồi tới khi hình đã rõ ràng sắc nét, ba tôi chăm chú kẹp tấm hình còn ướt lên, dùng mấy cái kẹp phơi quần áo mà kẹp tấm hình đen trắng đó lên sợi dây giăng ngang phiá trên cao.
Trên sợi dây nầy, tôi đã nhìn ngắm những tấm hình “thấy ghê” toàn là những hình ảnh xác chết . Những xác chết treo la liệt trong mấy tấm hình nầy như chết vì xe đụng, vì bị đâm chém, bị bắn, những vụ án mạng, treo cổ tự tử (cái nầy tôi sợ nhất). Có lần tôi thấy tấm hình người chết trôi trương phình lên sợ ghê lắm.
Trong sở làm nầy mấy bác thường kể chuyện cho má tôi nghe là có ma .
Ma hay đè mấy người ngủ đêm vì tới phiên trực.

Ngành Cảnh sát Tư Pháp ngày xưa còn có tên là “Cảnh Sát Khoa Học”: Người cảnh sát thuộc ngànhTư Pháp  luôn âm thầm đóng góp biết bao cho sự công bằng, điều tra, giải quyết những bất công, tệ nạn  xã hội.
Tôi nghĩ chắc ba cũng …sợ ma, cho nên ba mới đem lũ con nít theo ngủ trong sở với ba cho đỡ sợ .
Mấy đứa em tôi, tuổi chưa đi học, pha ùphách như quỉ có đứa nào biết sợ ma là gì đâu. Tôi thì sợ hình ảnh chớ không biết sợ ma nhiều. Được theo ba vô sở ngủ, được tự do đùa giởn mà ba ít khi nào rầy rà, là thích lắm. Má tôi nói ma là mấy hình tượng cụt đầu bằng đồng đen, những khuôn mặt phụ nữ, chưng bày trong sở đó. Mấy pho tượng cụt đầu nầy tôi nhớ rất đẹp, hình khuôn mặt tây phương, chắc do những người Pháp mang từ bên Pháp qua, chưng bày trong sở.
Tôi nhớ, Viện Giảo Nghiệm nầy xây theo kiểu người Pháp, rất đẹp. Sở làm có tầng lầu, cầu thang lên xuống có tay vịn bằng gỗ mun đen trơn bóng rất mịn đẹp, là chỗ tôi ưa tuột từ trên xuống dưới chơi như cầu tuột. Ban ngày thì ba lui cui trong phòng thí nghiệm, với những chai lọ kiểu dáng tròn tròn rất ngộ. Thỉnh thoảng ba đem về cho tôi vài cái chai nhỏ xíu nầy để tôi chơi.
Bạn biết, con nít mình thuở đó đâu có đồ chơi, nên mấy món như vậy thích lắm, tôi dùng để bỏ mấy con dế, con cuốn chiếu tôi bắt được. Tôi tuột cầu thang nổi tiếng tới nổi sau nầy khi tôi đã là thiếu nữ yểu điệu dịu dàng, học trường nữ trung học Gia Long, mỗi lần gặp lại mấy bác bạn của ba, mấy bác còn hỏi “cháu còn tuột cầu thang hông?” làm tôi mắc cở đỏ ửng mặt mày.
Tôi nhớ một lần ba về nhà, khoe với má là sở làm vừa có một máy sấy cho khô hình từ Nhựt gởi qua, ba đỡ phải treo hình lên dây nữa.
Không biết có phải vì méo mó nghề nghiệp hay không, mà ba tôi lúc nào cũng kè kè cái “súng Canon” bự tổ chảng, loại máy ảnh của phóng viên xài đó, bất kể lúc nào ba thấy cái gì hay hay, lạ lạ là ba túm lũ con vô bô hình của ba, cho nên tụi tôi rất ghét. Nhỏ em kế tôi còn kể, ghét nhứt hạng là mỗi đầu năm, ngày Tết, ba bắt từng đứa đứng kế bên cây bông mồng gà đỏ chói để ba bấm hình Tết. Ba thường cười mím mím nói “cười tươi chút đi con”. Nó nói nó ghét vì mình bị bắt chụp hình, chù ụ, đứng kế bông tươi rói, nên bông luôn đẹp hơn mình.
Bây giờ ngày tết, tôi luôn ao ước trong lòng, phải chi ba còn sống, ba bắt mình đứng đâu để ba chụp hình mình cũng ưng, mà cười thiệt tươi, tươi hơn cảnh và vật ở chung quanh. Nhờ ba thường hay chụp hình, mà bây giờ gia đình còn giữ lại nhiều hình ảnh rất quí giá như tấm hình thằng em trai ngồi ôm con khỉ của nó, con khỉ của chị em tôi, con khỉ mà tôi thương nhứt nhà. Trên bàn thờ của má tôi, có hình ông bà ngoại, ông nội, ông cố… Hình ông ngoại với bộ râu cá trốt thật đẹp, khuôn mặt khắc khổ mà tươi. Ông ngoại bận đồ lớn trong tấm hình nầy, coi chiến lắm, văn minh lắm, mà đầu ông ngoại thì bới củ hành.
Hỏi má, má cười cười nói:
-Ba mầy chụp ông ngoại lúc ông ngoại đang ngồi trên ghế ngoài sân, ông ngoại bận bà ba đó chớ. Trời nắng xiên xiên nên khi ba kêu ông ngoại ngước mặt lên cho ba chụp, ông ngoại nheo nheo con mắt mà hình lại thấy đẹp quá. Rồi ba mầy vẽ thêm cho ông ngoại cái áo lớn cho trịnh trọng, tô màu cho tươi  nữa.
Thì ra là ông ngoại bận bà ba chớ không phải bận áo lớn như trong hình.
Hình má thiệt đẹp, đầu bới cao, đôi chân mày do ba tự tay vẽ cho má.
Hình mấy chị em ngồi xếp hàng từ cao xuống thấp trên một bờ đê ở Phú Xuân Nhà Bè buổi đi chơi dã ngoại.
Từ ngày ba bị giết chết năm Mậu Thân, khoa học càng ngày càng tiến bộ. Tôi nhớ, ba tôi thích tất cả những kiến thức mới, những tiến bộ, những phát minh … Mỗi cái mới chạy nhựt trình là ba đọc cho cả nhà nghe, trong những bữa cơm gia đình.
Năm chiếc phi thuyền của Mỹ lên tới mặt trăng, mang về trái đất mấy mẫu đá ong lổ chỗ, người Mỹ mang đi khắp thế giới để khoe, ba cũng đưa mấy đứa con chen chúc nhau đi coi triển lãm cho biết.
Bây giờ, mỗi khi thấy những máy chụp hình ngày càng tinh vi, cho tới loại máy digital ra đời, vô cùng tiện lợi, hình ảnh đưa thẳng vào computer, sửa chữa thêm thắt dễ dàng bằng những software gài đặt sẳn, tôi lại ngậm ngùi nhớ tới ba tôi, ngày xưa đơn độc trong phòng tối để rửa từng tấm hình, rồi cắt bằng tay, hay ngồi còm lưng tỉ mỉ sửa chữa những đường nét trên hình bằng cây bút lông nhỏ tí teo chấm mực đen hay màu.
Nhiều khi ngồi nhìn lại những tấm hình xưa ba đã chụp, thấy mặt mày đứa nào cũng hỏng tươi, hỏng cười, vì hỏng thích làm người mẫu của ba, ba phải năn nỉ để chụp, thấy lòng dâng trào cảm xúc thưong ba, ước chi ba còn sống, mình sẽ luôn sẵn sàng để có những nụ cười tươi tắn nhứt, để dành cho ba mình.
Ngay cả những ngày lửa loạn ly về tận thành phố Saigon năm Mậu thân, mấy chị em ngồi trên mái nhà coi khói tỏa lan bầu trời, coi máy bay thả rocket, ba cũng chụp hình mấy chị em.
Sau đó mấy ngày thì ba mất! Ba rời cõi đời như một cơn gió thoảng qua.
Tôi nhớ những ngày đầu năm Mậu Thân, khi toán lính Thủy Quân Lục Chiến tiểu đoàn 2 Trâu Điên về trấn đóng trong cư xá Phú Lâm A, để vài hôm sau lại rút ra xa cảng ngăn chận bước tiến của cộng quân, ba tôi cũng đã chụp hình đoàn lính nầy và cho tôi tấm hình một người lính Trâu Điên kiêu dũng mà tôi giữ mãi cho tới ngày lưu lạc quê hương mới bị lạc mất. Nhờ câu chuyện về người lính Trâu Điên nầy mà tôi đã tìm ra vị Đại Đội trưởng chỉ huy Trâu Điên năm xưa, hiện đang sống tại quận Cam.
Thời gian nầy ba tôi thường ôm máy ảnh chạy theo Tướng N.N. Loan, Vị chỉ huy trưởng Tổng Nha CSQG can trường, xông xáo giữa lửa đạn, để chụp hình trận chiến khốc liệt đang diễn ra quanh khu vực Chợ Lớn, mặt trận Hàng Xanh, cầu Thị Nghè. Những công tác kề cận bên vị Tướng Tư lịnh CSQG oai hùng nầy tánh mệnh của ba cực kỳ nguy hiểm khi một chiếc áo giáp cũng không có, vủ khí trong tay chỉ là chiếc máy chụp hình. Cũng năm Mậu Thân tràn ngập khói lửa trong thành phố với mức độ khốc liệt, bạn bè của ba chết khá nhiều, ngày nào về ba cũng kể cho má nghe, rồi thì đến lượt ba tôi đã bị cộng sản giết chết trong khi đang thi hành nhiệm vụ.
Ba chết đi, cảnh sống thanh bần của gia đình tôi để lại ngôi nhà tan hoang trống lốc với má tôi, hãy còn rất trẻ, và bầy con tám đứa.
Má tôi, từ một bà nội trợ chân yếu tay mềm, đã phải xông xáo ra đường buôn bán nuôi bầy con, nay đã trở thành những Quốc Gia Nghĩa Tử.
Mấy bác đồng nghiệp của ba đã nói “ba cháu sanh nghề tử nghiệp”.
Bây giờ tôi cũng đam mê chụp hình, nhưng chỉ sắm cái compact gọn gàng để bóp, đi đâu cũng đem theo. Em trai tôi cũng sắm một dàn máy chụp hình có tầm cở mà mỗi tấm hình em trai chụp ra là một nghệ thuật tài hoa.
Mỗi khi nhà có đám tiệc họp mặt, có đầy đủ gia đình, tôi thường cầm máy chụp hình rà kiếm mấy đứa cháu xinh xắn dễ thương để năn nỉ, ỉ ôi hay nài ép chúng nó làm mẫu để tôi bấm vài kiểu. Có đứa thích được chụp hình thì ẹo qua ẹo lại làm dáng, đứa không thích chụp hình thì cái mặt chù ụ y chang tụi tôi hồi đó.
Một lần tôi chụp đứa em gái áp út, khi hình lên khung chuyển đi cho khắp mấy chị em, bà chị tôi cười quá trời vì con nhỏ nầy có cái trán in hệt ba tôi, vừa cao vừa rộng, đôi mắt thật lớn, miệng luôn mim mím, nhìn biết liền …con gái của ba. Em gái út thì khỏi nói, nó lấy hết nét đẹp của ba và má cộng hưởng. Tội nghiệp nhỏ em út nầy, không còn nhớ mặt ba, vì khi ba mất, nó mới lên 3 tuổi thôi.
Những tấm hình tôi chụp, luôn mang những nụ cười trẻ thơ, những kỷ niệm sinh nhật ngày Tết ngày lễ, và những hình ảnh tôi chộp bắt được trên đường đi làm, đâu đâu, tôi cũng đưa máy chụp hình lên nhắm, hình ảnh lung linh phía trước có khuôn mặt Ba, nụ cười mím chi rất đặc biệt luôn tươi tắn hiền lành, ba đẹp như Phan An, Tống Ngọc.
Ngày lễ Cha, tôi buồn nhiều lắm.
Từ năm Mậu Thân cho tới nay, đã qua 41 năm.
Má tôi đã trở thành một bà cụ già ốm nhom, cô đơn, tối ngày ngoài vườn chăm sóc mấy cây trái bông hoa . 41  năm, má tôi làm sương phụ nuôi dưỡng hình ảnh người chồng bạc mệnh thời chiến tranh.
Mơ ước như trẻ thơ, được một lần, đứng làm mẫu để ba chụp hình.
Nhất định là tôi sẽ cười, nụ cười đẹp nhất, để tươi hơn mấy nhánh bông mồng gà đỏ chói kia. Ước gì mình quay ngược được…thời gian.

Ngọc Anh.

Tống Lê Chân- Cuộc Bao Vây Dài Nhất

Trần Đỗ Cẩm
Trên đầu súng quê hương tổ quốc đã vươn mình….
Cố nhạc sĩ Anh Việt Thu – Youtube- Thúy Nga
2. Bài đọc suy gẫm nhân ngày Quân Lực VNCH:  Tống Lê Chân
    Tiền Đồn Quá Xa – Trần Đỗ Cẩm
Trong lịch sử chiến tranh cận đại, có nhiều trận đánh lớn quân số đôi bên lên tới nhiều sư đoàn, hoặc với tầm mức quan trọng “dứt điểm” như trận Normandie, Stalingrad, Okinawa, Iwo Jima v.v… Trong cuộc chiến tranh vừa qua tại Việt Nam, chúng ta cũng thường nghe nói tới những trận đụng độ ác liệt như trận Hạ Lào, An Lộc, Quảng Trị, Pleiku v.v… So với những cuộc hành quân nổi tiếng kể trên, trận đánh tại Tống Lê Chân giữa một Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân QLVNCH và quân Cộng Sản không những chỉ nhỏ bé về tầm vóc mà còn cả về mức độ quan trọng.
Trại Tống Lê Chân chẳng qua chỉ là một tiền đồn hẻo lánh gần biên giới Việt – Miên thuộc Vùng III Chiến Thuật có nhiệm vụ phát hiện sự xâm nhập của địch quân vào lãnh thổ VNCH. Tuy chỉ là một trận đánh nhỏ lại không mấy quan trọng, nhưng nếu kể về tinh thần chiến đấu can trường và sức chịu đựng phi thường của người lính chiến trong hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng, các chiến sĩ TÐ 92 BÐQ đã vượt trội và tạo nhiều thành tích có một không hai khiến trận đánh Tống Lê Chân trở thành có tầm vóc lịch sử, khác biệt và đáng chú ý hơn nhiều trận đánh lớn khác. Nhân dịp kỷ niệm ngày QLVNCH 19 tháng 6, chúng tôi tường thuật lại trận đánh oai hùng của TÐ 92 BÐQ tại Tống Lê Chân qua những tài liệu thâu thập được để tôn vinh các chiến sĩ Cọp Rừng Mũ Nâu. Ðây cũng là dịp tri ân toàn thể QLVNCH đã đổ nhiều xương máu bảo vệ quê hương.
Tống Lê Chân? Ðịa Danh Xa Lạ.
Cuộc chiến tranh dai dẳng tại Việt Nam ngoài mức độ khốc liệt, còn tạo ra những địa danh xa lạ. Nếu không có trận Tân Cảnh, Kon Tum, làm gì có những tên Charlie, Delta? Nếu không có trận Hạ Lào chắc cũng chẳng có LoLo, Sophia, BÐQ Bắc, BÐQ Nam v.v… Tống Lê Chân cũng là một tên rất lạ. Dân địa phương người Miên gọi vùng này là Tonlé Tchombe. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là sông, hồ, suối hoặc nơi nào có nước. Thí dụ như Biển Hồ có tên Miên là Tonlé Sap. Khi mới thành lập, trại này chưa có tên nên Thiếu tá Ðặng Hưng Long, vị chỉ huy trưỏng đầu tiên phiên âm tiếng Miên Tonlé Tchombe thành tiếng Việt Tống Lê Chân. Sau này, phần đông các quân nhân trong binh chủng BÐQ biên phòng gọi tắt là Tống Lệ để ám chỉ một căn cứ đầy máu và nước mắt, không có một ngày yên vui kể từ khi ra đời.
Tiền đồn Tống Lê Chân nguyên thủy là một trại Dân Sự Chiến Ðấu (DSCÐ) (Civilian Irregular Defense Group gọi tắt là CIDG) do Lực Lượng Ðặc Biệt Hoa Kỳ thành lập từ năm 1967 để phát hiện và ngăn chận sự xâm nhập của Cộng quân từ bên kia biên giới. Ðến năm 1970 trong chương trình cải biến Lực Lượng Dân Sự Chiến Ðấu thành Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, phần đông những binh sĩ của trại Tống Lê Chân thuộc sắc dân ngưởi thượng Stieng đều tình nguyện ở lại để trở thành Tiểu Ðoàn 92 BÐQ Biên Phòng, tổng cộng gồm 292 binh sĩ lúc khởi đầu, chưa kể một số sĩ quan QLVNCH giữ các chức vụ chỉ huy.

Trại Tống Lê Chân thuộc Vùng III Chiến Thuật được thành lập vào đầu năm 1967 cùng với trại Prek Klok tại vùng Chiến Khu C của Việt Cộng. Vì chận ngay yết hầu nên ngay từ khi thành lập, các trại này đã bị địch quân đe dọa thường xuyên. Trong hệ thống LLÐB, trại Tống Lê Chân mang ám danh A-334 và được biến cải thành trại BÐQ Biên Phòng vào ngày 30 tháng 11 năm 1970. Toàn thể quân số trong trại lúc đó có 318 người (gồm 292 người nguyên thuộc DSCÐ và các sĩ quan cùng Hạ Sĩ Quan QLVNCH mới được bổ nhiệm tới để chỉ huy) trở thành TÐ 92 BÐQ Biên Phòng thuộc hệ thống chỉ huy của BÐQ/QLVNCH.
Trại Tống Lê Chân trấn giữ một địa điểm quan yếu, chận ngay đường vào khu Tam Giác Sắt và án ngữ vùng Mỏ Vẹt, Lưỡi Câu thuộc Cam Bốt. Ðây là những an toàn khu và cũng là đại bản doanh Cục R của Việt Cộng như hai mũi dao nhọn chĩa vào cạnh sườn Quân Khu III. Trong các trận hành quân vượt biên của Quân Ðoàn III do Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí chỉ huy vào năm 1970, trại Tống Lê Chân đã đóng một vai trò quan trọng trong nhiệm vụ phát hiện và diệt địch. Căn cứ được thiết lập trên một ngọn đồi cao chừng 50 thước, trông xuống hai con suối nhỏ dân địa phương gọi là Takon và Neron. Ðây là những lạch nước khởi nguồn của sông Sài Gòn chảy qua Dầu Tiếng, Bến Súc, Phú Cường v.v…. Tống Lê Chân, như trên đã nói là một trong chuỗi trại Dân Sự Chiến Ðấu do LLÐB thiết lập dọc theo biên giới Miên – Việt thuộc lãnh thổ Quân Khu III.
Về vị trí, trại Tống Lê Chân nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, cách An Lộc chừng 15 cây số về hướng Tây Nam và mũi nhọn của chiếc Mỏ Vẹt chứng 13 cây số về hướng Ðông Nam. Dưới chân căn cứ là con đường 246 nối liền Chiến Khu C và Chiến Khu D của Việt Cộng. Ðây cũng là trục giao liên Nam – Bắc huyết mạch nối liền bản doanh của Cục R bên Cam Bốt và vùng Dầu Tiếng với Khu Tam Giác Sắt của Cộng Quân.
Với vị trí chiến lược vô cùng quan trọng có thể kiểm soát được các trục giao liên Nam – Bắc và Ðông – Tây của Cộng Quân tại vùng biên giới, lại trấn giữ sườn Tây cho thị trấn An Lộc, Tống Lê Chân như chiếc gai nhọn cần phải nhổ bằng mọi giá trên sa bàn trận liệt của địch. Vào mùa hè năm 1972, cùng với các trận cường tập có pháo binh và chiến xa nặng của Công quân vào vùng Lộc Ninh, Chơn Thành và An Lộc, các căn cứ biên phòng lân cận Tống Lê Chân như Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập đã phải di tản. Tống Lê Chân chơ vơ còn lại như một hải đảo cô đơn giữa biển người cộng quân trùng điệp.
Tứ Bề Thọ Ðịch
Nhằm mục đích mở rộng đường giao liên cũng như giữ bí mật các cuộc chuyển quân xâm nhập từ biên giới Miên – Việt vào lãnh thổ Quân Khu III, ngày 10 tháng 5 năm 1972, Cộng quân dồn lực lượng đánh biển người vào căn cứ Tống Lê Chân quyết nhổ cái gai trước mắt. Quyết san bằng căn cứ, địch quân dùng đại pháo 130 ly cùng với đủ loại súng cối, sơn pháo bắn phủ đầu như mưa vào căn cứ theo đúng chiến thuật lấy thịt đè người “tiền pháo hậu xung”. Trận pháo kích khốc liệt này chính thức mở đầu cho gần hai năm trời vây hãm. Sau loại pháo vòng cầu, nhiều đợt pháo cấp tập bắn thẳng vào Tống Lê Chân như muốn san bẳng căn cứ nhỏ bé nằm lẻ loi trên ngọn đồi. Trong khi đó, một rừng phòng không từ thượng liên đến cao xạ 37 ly, 57 ly và cả hỏa tiễn tầm nhiệt thuộc sư đoàn Pháo Phòng Không tân lập 377 khoá kín không phận khiến các phi cơ không thể nào tới gần để yểm trợ. Sau những đợt pháo kích dữ dội, Tiểu Ðoàn độc lập 200 của Việt Cộng lãnh nhiệm vụ tấn công vào Tống Lê Chân với sự yểm trợc của các đơn vị bộ binh thuộc hai Công Trường 7 và 9.
Tuy bị bao vây và cô lập, các chiến sĩ Mũ Nâu thiện chiến của TÐ 92 BÐQ đã bình tĩnh bố trí trong các giao thông hào đào sâu trong lòng đất chờ địch ngay khi các quả đạn pháo kích đầu tiên rơi vào căn cứ. Một đơn vị đặc công địch theo sát những trái pháo mở đường đã xâm nhập được vòng đai phòng thủ bên ngoài. Những chiến xa hạng nặng T-54 của Cộng quân yểm trợ cũng nã đạn như mưa rất chính xác khiền tình hình có vẻ nguy kịch. Nhưng quân trú phòngvẫn không nao núng vì rất tin tưởng vào hệ thống bố phòng vững chãi và nhất là bãi mìn dầy đặc bao quanh căn cứ. Dưới sự chỉ huy đầy kinh nghiện của Thiếu Tá TÐT Lê Văn Ngôn, các chiến sĩ BÐQ vẫn chưa khai hỏa. Họ chờ bộ binh chủ lực địch xung phong mới bắt đầu nổ súng. Quả nhiên, khi thấy không bị bắn trả, Cộng quân bắt đầu tràn vào căn cứ vì tưởng quân trú phòng đã bị chết hết hay mất tinh thần vì các đợt pháo kích ác kiệt cũng như vì chiến xa với đại bác 100 ly trực xạ. Ðúng lúc đó, các chiến sĩ Mũ Nâu mới đồng loạt khai hỏa. Từng đợt “biển người” của Cộng quân bị bất ngờ nhưng vì đã tiến tới quá gần không kịp tìm nơi ẩn trú nên bị đốn ngã như rạ. Sau đợt tấn công đầu tiên bị thiệt hại nặng, địch lui ra để pháo binh tiếp tục nã vào căn cứ, sau đó bộ binh lại tấn công. Sau nhiều đợt xung phong vô hiệu quả, cuối cùng Cộng quân phải rút lui, bỏ lại hàng trăm xác chết phơi thây trên hàng rào phòng thủ.
Cũng trong thời gian này, các mặt trận lớn khác tại vùng Hỏa Tuyến, Tây Nguyên, An Lộc … bùng lên dữ dội với những cuộc đụng độ đẫm máu của một Mùa Hè Ðỏ Lửa, trận đánh tại Tống Lê Chân tuy là một chiến thắng lớn của các chiến sĩ BÐQ nhưng không được nhiều người biết tới. Nhưng từ khi cuộc “thử lửa” ban đầu bị thất bại nặng nề, Cộng quân biết rằng không thể dễ dàng nuốt chửng Tống Lê Chân nên chúng chủ trương dùng chiến thuật tiêu hao, bao vây chặt chẽ và pháo kích thường xuyên với đặc công xâm nhập quấy phá. Chúng tin rằng chiến trường An Lộc lân cận có tầm mức quan trọng hơn và nếu đạt được chiến thắng, Tống Lê Chân không cần phải đánh cũng sẽ tự tan rã. Cuộc bao vây dài nhất trong quân sử bắt đầu …
Cứ như vậy, tiền đồn Tống Lê Chân bị Cộng quân vây chặt. Ðịch pháo kích thường xuyên vào căn cứ, trong khi màng lưới phòng không dầy đặc cắt đứt nguồn tải thương và tiếp vận duy nhất bằng phi cơ. Thoạt tiên, các phi cơ vận tải C-130 của Không Quân Việt Nam đã phải bay rất cao để thả dù tiếp tế khiến nhiều kiện hàng bay lạc ra ngoài, rơi vào tay Cộng quân. Theo lời kể lại của một hồi chánh viên, vào khoảng tháng 6-1973, Cộng quân đã tổ chức một đại đội có nhiệm vụ chuyên đi “lượm dù” để lấy đồ tiếp tế. Vì vậy, đã có dư luận từ các nguồi tin ngoại quốc cho rằng đôi bên đã ngầm thỏa thuận để các vận tải cơ được tự do thả dù mà không bị phòng không bắn lên, miễn là quân trú phòng không bắn vào toán Cộng quân lượm dù bên ngoài. Sau này, khi rút tỉa kinh ngiệm, KQVN đã hoàn chỉnh được kỹ thuật thả dù tiếp tế nên số lượng đồ tiếp vận thất thoát không còn dáng kể.
Riêng các phi cơ trực thăng, phương tiện duy nhất để tản thương hay chở quân tăng viện không thể nào bay lọt lưới phòng không dầy đặc của địch. Nhiều toán trực thăng đã liều lĩnh bay vào Tống Lê Chân chẳng những không đạt được nhiều thành công, lại bị thiệt hại khá nặng. Trong khoảng thời gian từ tháng 10-73 đến cuối tháng 1-74, có khoảng 20 phi vụ trực thăng nhằm tản thương và tiếp tế cho Tống Lê Chân, nhưng chỉ có 6 trực thăng hạ cánh được, trong số này có 3 chiếc bị bắn hư hại trên bãi đáp. Cuối tháng 12-73, một trực thăng Chinook CH-47 cũng bị bắn rơi khi hạ cánh. Ðây là chiếc trực thăng thứ 13 bị trúng đạn phòng không địch chỉ nội trong tháng 12/73. Thiệt hại về phía KQVN gồm 9 chết, 36 bị thương. Tới tháng 1-1974 tức là một năm sau khi ký kết hiệp định ngưng bắn, vẫn còn có 12 chiến sĩ BÐQ bị thương nặng vẫn chưa được tản thương khỏi căn cứ.
Ngưng Chiến Kiểu Việt Cộng
Tuy căn cứ Tống Lê Chân bị Cộng quân khởi sự tấn công vào tháng 5 năm 1972, nhưng bị vây hãm và tấn công dữ dội nhất vào lúc thỏa ước nhưng bắn được thi hành tại Việt Nam theo khuôn khổ hiệp định Paris. Ðây cũng là một điểm đặc biệt có một không hai trong cuộc chiến tại Việt Nam cũng như trong lịch sử chiến tranh thế giới: môt hiệp ước ngưng bắn bị vi phạm ngay sau khi vừa ký kết! Cộng quân, có lẽ đang cay cú vì thất bại chua cay không chiếm được An Lôc, nay cố chiếm một mảnh đất khỉ ho cò gáy gần biên giới Việt – Miên để có một chỗ cho Cục R ra mắt. Trong lúc toàn thể thế giới thở phài nhẹ nhỏm vì ngòi lửa chiến tranh tại Việt Nam có thể đưa đến hiểm họa chiến tranh giữa hai khối Tư Bản và Cộng Sản không còn nữa, thì tại Tống Lê Chân, TÐ 92 BÐQ vẫn đơn độc ngày ngày hứng pháo và dành dựt với Cộng Quân từng thước đất để sống còn.
Tuy Cộng Quân trắng trợn và công khai vi phạm thỏa ước ngưng bắn, nhưng ngưới bạn đồng minh Hoa Kỳ của VNCH vẫn dửng dưng không hề có một lời phản đối dù lấy lệ, dường như còn say men rượu mừng vì đã tìm thấy “ánh sáng ở cuối đường hầm”. Dĩ nhiên họ cũng chẳng có một phản ứng hay hành động tích cực nào thuận lợi cho VNCH. Ngay cả Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Ðình Chiến cũng không can thiệp. Vì vậy, trước những vi phạm trắng trợn và lộ liễu của Cộng quân tại Tống Lê Chân, trong phiên họp ngày 17-3-73, trưởng phái đoàn VNCH là tướng Dư Quốc Ðống đã phải đặt vấn đề Tống Lê Chân lên bàn hội nghị với ba giải pháp như sau:
1. Cử một tổ Liên Hợp Quân Sự bốn bên đến Tống Lê Chân để điều tra tại chỗ các sự vi phạm.
2. Nếu phe CS phản đối, sẽ yêu cầu UB Kiểm Soát Ðình Chiến can thiệp.
3. Yêu cầu các đơn vị Cộng quân quanh Tống Lê Chân không được bắn lên phi cơ của UBQT.
Dĩ nhiên đề nghị hợp lý của phái đoàn VNCH bị phe Cộng Sản phản đối vì chính chúng là kẻ vi phạm. Trần Văn Trà, trung tướng trưởng phái đoàn MTGPMN cố ý vắng mặt để tên đạt tá Ðặng Văn Thu thay thế. Tên Thu một mặt vu khống chính VNCH mới là phe vi phạm ngưng bắn, một mặt tự coi là không đủ thẩm quyền quyết định nên yêu cầu mở một cuộc họp khác để bàn về Tống Lê Chân với sự hiện diện của Trần Văn Trà. Về các đề nghị thứ hai và thứ ba của phái đoàn VNCH, phe Cộng sản cũng “nhất trí” phản đối, ngoài ra còn dọa dẫm các thành viên trong UHQT rằng tình hình tại Tống Lê Chân “chưa rõ rệt” nên họ không bảo đảm an ninh cho phái đaòn cũng như phi cơ của Ủy Hội.
Tóm lại, cả phe Cộng sản trong UBLH và UHQT đều đồng thanh tránh né việc điều tra vi phạm ngưng bắn tại Tống Lê Chân, lúc thì chờ chỉ thượng cấp quyết định, khi lại không bảo đảm an ninh.
Ðến ngày 23-3-73 tức là chỉ còn 4 hôm nữa là hết hạn 60 ngày làm việc của UBLH bốn bên, phái đoàn Hoa Kỳ mới yêu cầu chiếu lệ Gia Nã Ðại là chủ tịch UBQT điều tra về vụ Tống Lê Chân. Phía Việt Cộng đưa tên đại tá một mắt Võ Ðông Giang ra thảo luận với đại tá Lomis của Gia Nã Ðại và thỏa thuận cử sĩ quan liên lạc của MTGPMN theo UHQT tới Tống Lê Chân vào ngày 24-3-73. Nhưng đó cũng chỉ là mánh lới tiểu xảo cố hữu của Cộng Sản: tới ngày hẹn, viên sĩ quan liên lạc này đã “trễ trực thăng” nên máy bay của UHQT không đi Tống Lê Chân được!
Như vậy, với sự tráo trở và lọc lừa cố ý của Cộng sản, việc điều tra tại Tống Lê Chân đã không bao giờ được thực hiện. Số phận của Tống Lê Chân đành phó thác cho định mệnh và TÐ 92 BÐQ phải tự chiến đấu một mình để sống còn.
Vòng Vây Xiết Chặt
Suốt năm 1973 kể từ ngày ngưng bắn, trong lúc Việt Cộng giở thủ đoạn hèn hạ tại bàn hội nghị, Tống Lê Chân bị bao vây chặt chẽ và bị tấn công hàng chục lần nhưng vị trí vẫn đứng vững như một khúc xương khó nuốt. Nhả ra không được vì bị Tống Lê Chân chận nghẹn ngay yết hầu, nuốt vào thì không xong vì các chiến sĩ Mũ Nâu rất kiên cường không chịu nhượng bộ một tấc đất, Cộng Quân chỉ còn cách bao vây “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Tuy phòng không địch dầy đặc bao quanh căn cứ nhưng phi cơ VNCH đôi khi vẫn liều lĩnh bay lọt qua màng lưới của tử thần để tản thương và tiếp tế. Việc tiếp tế cho Tống Lê Chân bằng dù khá hiệu quả, nhưng vì chu vi phòng thủ quá hẹp nên có một số đồ tiếp liệu bị lọt vào tay địch.
Qua năm 1974, trong khi các phái đoàn “Kiểm Soát” tranh luận dằng co, tình hình tại Tống Lê Chân ngày càng nguy ngập sau cả năm trời bị bao vây. Thời gian càng trôi qua, phần bất lợi càng nghiêng về phía quân trú phòng. Bị cả sư doàn địch quân phong tỏa chặt chẽ và bị tấn công thường xuyên, quân số BÐQ ngày càng hao hụt không được bổ xung. Lúc này, TÐ 92 BÐQ chỉ còn lại 255 người, trong số đó có nhiều thương binh. Việc tiếp tế lại không được đầy đủ vì phi cơ thả dù bị phòng không chận bắn. Về mặt tinh thần cũng sa sút phần nào vì bị vây hãm quá lâu ngày và áp lực liên miên . Tuy vậy, Tống Lê Chân vẫn còn đứng vững như một biểu tượng hùng hồn cho lòng quả cảm và sức chiến đấu kiên cường của các chiến sĩ BÐQ.
Nhưng để giữ vững Tống Lê Chân, QLVNCH tính ra đã phải trả một giá quá đắt: sự thiệt hại về nhân mạng mỗi ngày một cao, việc dùng phi cơ để yểm trợ và thả dù tiếp tế đã trở thành một gánh quá nặng cho KQVN lúc đó phương tiện không còn được dồi dào như lúc Hoa Kỳ còn tham chiến. Hơn nữa, tuy Tống Lê Chân chiếm giữ một vị trí khá qun trọng nhưng vẫn chỉ là một tiền đồn nên giá trị quân sự không thể so sánh với các căn cứ chính cần phải bảo vệ khác, do đó không nhất thiết phải giữ bằng mọi giá. Vì không thể chia bớt lực lượng để yểm trợ Tống Lê Chân, đã đến lúc BTL/QÐ III phải có một quyết định dứt khoát để giải quyết vấn đề Tống Lê Chân để chấm dứt tình trạng bất lợi.
Do đó, vào ngày 23-3-73, tướng Phạm Quốc Thuần, Tư Lệnh QÐ III đề nghị với Bộ TTM/QLVNCH chọn một trongba giải pháp sau đây:
1. Mở một cuộc hành quân cấp sư đoàn từ An Lộc để giải tỏa áp lực, tăng cường, thay thế hay di tản TÐ 92 BÐQ tại Tống Lê Chân.
2. Cho phép thương lượng với Cộng quân, giao Tống Lê Chân cho chúng để đổi lấy sự di tản an toàn của các chiến sĩ Mũ Nâu trú phòng.
3. Cho lệnh TÐ 92 BÐQ được di tản khỏi căn cứ bằng những toán nhỏ để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn.
Về giải pháp một, theo tình hình lúc đó, toàn bộ vùng Lai Khê, An Lộc chỉ có đơn độc một sư đoàn 5 chống giữ, hiện đang phải đương đầu với các Công Trường 5, 7 và 9 của Cộng quân. Vì vậy, ngay cả việc giữ an ninh trục lộ huyết mạch 13 cũng còn khó khăn, chưa đủ quân số, nói chi đến việc mở đường tới tận Tống Lê Chân để tăng viện? Hơn nữa, dù một sư đoàn có thể đảm đương trọng trách tiếp viện, nhưng kiếm đâu ra sư đoàn này trong lúc các đại đơn vị QLVNCH tuy đã phải phân tán rất mỏng nhưng cũng vẫn chưa đủ để trám vào những vùng quan trọng Hoa Kỳ vừa rút quân để lại?
Như vậy, giải pháp 1 coi như không thể thực hiện được. Nhưng nếu giải pháp 1 bất thành vì lý do quân sự thì giải pháp 2 cũng thiếu thực tế vì lý do chính trị. Nếu “bàn giao” Tống Lê Chân cho Cộng quân, hậu quả tai hại về chính trị sẽ không thể lường được. Quân và dân Miền Nam sẽ vô cùng hoang mang. Tổng Thống Thiệu sẽ rất khó ăn khó nói vì mới hô hào “dành dân chiếm đất” trước đây không lâu. Vả lại, nếu giao Tống Lê Chân cho Cộng Quân, việc này có thể sẽ trở thành tiền lệ đưa tới nhiều cuộc bàn giao kiểu Tống Lê Chân khác.
Do đó, tuy đề nghị ba giải pháp, nhưng tướng Thuần biết rỏ chỉ còn một con đường khả trợ duy nhất: đó là cho phép TÐ 92 BÐQ rút khỏi Tống Chân. Nhưng quyết định rút bỏ này không phải là không có hậu quả nghiêm trọng về quân sự cũng như chính trị. Hơn nữa, việc rút quân qua vòng vây trùng điệp của Cộng Quân cũng không phải là điều dễ dàng. Chính vì những lý do này mà BTL/QÐ III phải hội ý trước với Bộ TTM. Rất có thể, ngay Bộ TTM cũng không quyết định được, mà việc rút quân phải do chính Tổng Thống cho phép.
Trong khi chờ đợi quyết định dứt khoát từ trung ương, tình hình tại Tống Lê Chân trở nên hết sức căng thẳng và sôi động từng giờ, từ trầm trọng đến nguy kịch. Bị bao vây cả năm trời, thiếu lương thực, thiếu đạn dược, quân số hao hụt, thương binh ngày càng nhiều không được di tản, bị pháo liên miên, đặc công đánh phá ngày đêm … khiến TÐ 92 BÐQ ngày càng suy yếu. Tuy nhiên, các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn kiên cường giữ vững căn cứ bằng mọi giá. Và cuộc bao vây dài nhất trong quân sử vẫn tiếp tục.
Tử Thủ Ðến Cùng
Ðể giảm bớt phần nào áp lực vô cùng nặng nề của khoảng 3 Sư Ðoàn địch quanh Tống Lê Chân, vào ngày 23/7/74, phi cơ của Không Quân VNCH bay trên 30 phi vụ dội bom vào các vị trí Cộng Quân trên trận địa. Nhưng phòng không địch rất dầy đặc nên phi cơ qanh tạc không mấy hiệu quả. Ngoài ra, lực lượng địch quá đông nên chúng vẫn không chịu rút lui để tránh thiệt hại mà ngược lại còn gia tăng cường độ tấn công để sớm thanh toán mục tiêu.
Trong khoảng thời gian liên tiếp 3 ngày từ 22 đến 24/3/74, Cộng Quân dùng đủ loại đại pháo 130 ly, hỏa tiễn 122 ly, súng cối 82 ly v.v… nã hơn 1,000 quả đạn vào tiền đồn Tống Lê Chân nhỏ bé, nơi có khoảng 300 chiến sĩ TÐ 92 BÐQ đang bị vây hãm. Tuy phi cơ được gọi đến oanh kích và thả trái sáng yểm trợ, nhưng hỏa lực phòng không vô cùng dữ dội của Sư Ðoàn Phòng Không 377 địch với các loại hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, đại bác 57 ly, 37 ly và thượng liên đã đan một màn lưới lửa đầy đặc quanh Tống Lê Chân khiến mọi hoạt động của phi cơ đều vô hìệu. Bên trong trại, các chiến sĩ Mũ Nâu chỉ còn cách co mình chịu pháo. Nhiều công sự phòng thủ cũng như vị trí chiến đấu bị hư hại vì cơn mưa pháo. Tuy nhiên, Trung Tá Lê Văn Ngôn, vị Tiểu Ðoàn Trưỏng, tuy mới có 25 tuổi nhưng dầy dạn kinh nhiệm chiến trường vẫn bình tĩnh đôn đốc và ra lệnh cho binh sĩ trực thuộc chuẩn bị phản công sau mỗi đợt pháo kích. Quả nhiên, liên tiếp trong 2 đêm 21 và 22/3/74, sau khi “tiền pháo”, khoảng một trung đoàn bộ binh địch “hậu xung” dữ dội cả bốn phía định san bằng tiền đốn nhỏ bé bị vây hãm đã lâu ngày. Nhưng TÐ 92 BÐQ bắn trả dữ dội, tuy đạn dược khan hiếm nhưng họ tác xạ rất chính xác, đẩy lui nhiều đợt tấn công biển người. Có lúc vì Cộng Quân quá đông, các chiến sĩ Mũ Nâu bắn không xuể nên một số đã lọt vào lớp hàng rào phòng thủ. Nhiều trận cận chiến bằng lựu đạn diễn ra ác liệt. Quân trú phòng được lợi thế vì trú ẩn trong các hầm hố kiên cố nên đã gây thiệt hại nặng cho địch quân. Cuối cùng, trước tinh thần chiến đấu dũng mãnh và can trường của TÐ 92 BÐQ, địch đành ôm hận rút rui để lại nhiều xác đồng bọn và đủ loại vũ khí.
Tuy vẫn giữ vững được vị trí nhưng tình trạng bên trong căn cứ vô cùng bi đát. Thương binh mỗi lúc một nhiều thêm vì không được tản thương. Ðạn dược gần cạn vì các trận đánh liên tục, lương thực thiếu thốn vì không được tiếp tế đã nhiều ngày, ngay cả đên nước uống cũng khan hiếm. Hơn nữa, sau mỗi đợt tấn công bị thất bại, Cộng Quân lại điên cuồng pháo kích dữ dội hơn.
Trước tình thế nguy ngập như chỉ mành treo chuông, Trung Tá Ngôn biết rõ nếu không được tản thương, tăng viện, yểm trợ và tiếp tế hữu hiệu ngay tức khắc, việc giữ Tống Lê Chân hầu như không thể làm nổi. Trong lúc đó, biết được tình trạng cực kỳ bi đát của quân trú phòng, Cộng Quân chung quanh đồn dùng loa phóng thanh uy hiếp tinh thần và kêu gọi TÐ 92 BÐQ đầu hàng. Nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không rối trí. Một mặt ông ra lệnh cho các binh sĩ bố phòng chặt chẽ để nhất định đánh tới người cuối cùng. Mặt khác, ông gửi công điện khẩn cấp cho Ðại Tá Nguyễn Thành Chuẩn, CHT Liên Ðoàn 3 BÐQ tại An Lộc yêu cầu thả dù tiếp tế gấp khí giới, đạn dược và lương thực cho quân trú phòng. Trung Tá Ngôn cũng yêu cầu gửi quân tiếp viện và gia tăng sự yểm trợ của phi cơ. Nhưng các phi cơ dù liều lĩnh cũng không thể nào bay qua được hàng rào phòng không và quân tiếp viện cũng chẳng bao giờ tới. Tuy nhiên, dù trong tình trạng tuyệt vọng, các chiến sĩ anh dũng của TÐ 92 BÐQ vẫn nhất quyết không hàng địch. Trung Tá Ngôn còn cho biết nếu bị địch tràn ngập, ông sẽ yêu cầu dội bom phá hủy Tống Lê Chân để cùng chết với địch quân.
Nhận được công điện cầu cứu của TÐ 92 BÐQ, Ðại Tá Chuẩn lập tức chuyển lời yêu cầu tiếp viện lên BTL/QÐ II. Nhưng Tướng Thuần cho biết vẫn chưa nhận được chỉ thị nào của Bộ TTM về đề nghị tăng viện hay di tản căn cứ! Trong lúc Tống Lê Chân như ngọn đèn leo lét trước trận cuồng phong, có thể bị tràn ngập bất cứ lúc nào, nhưng lệnh trên vẫn là “chờ”!
Cho tới giờ phút này, quân số tại Tống Lê Chân gồm có 254 BÐQ, 4 binh sĩ Pháo Binh, 12 lao công chiến trường và 7 nhân viên phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi. Tuy tổng cộng gần 300 nhân mạng nhưng thật sự hầu hết trong số này đã bị thương ít nhất một lần. Hơn nữa, bị vây hãm lâu ngày trong tình trạng thiếu thốn nên khả năng chiến đấu đã bị yếu đi rất nhiều.
Về phía Cộng Quân, tuy đã bị thiệt hại rất nặng nhưng lại được tăng viện và bổ xung nhanh chóng từ các an toàn khu bên Cam Bốt nên sức mạnh coi như không suy giảm. Trong lúc chỉnh đốn hàng ngũ, địch ngơi tấn công nhưng vẫn pháo kích dữ dội. Rút kinh nghiệm những trận tấn công trước đã bị thất bại chua cay, Cộng quân biết tuy TÐ 92 BÐQ sẽ chiến đấu cho đến phút chót nhưng như cá nằm trong rọ nên chúng thong thả nghỉ ngơi dưỡng quân, cố ý để quân trú phòng kiệt quệ tới mức tối đa mới tấn công dứt điểm để đỡ bị thiệt hại. Và chuyện phải đến đã đến!
Những Ðợt Cường Tập Liên Tiếp
Ròng rã trong các đêm 24, 25 và 26/3/74, Cộng quân sau khi bổ xung đầy đủ đã lìên tiếp mở những đợt xung phong biển người ồ ạt quyết san bằng Tống Lê Chân. Tuy đã gần kiệt sức, các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn cắn răng chờ địch trong những giao thông hào đổ nát vì đạn pháo kích. Trung tá Ngôn và các cấp chỉ huy cũng sát cánh trong các công sự phòng thủ với thuộc cấp, ra lệnh phải tiết kiệm từng viên đạn, chỉ được bắn khi thật “chắc ăn”. Giá của mỗi viên đạn phải là một quân thù. Rồi hàng hàng lớp lớp Cộng Quân tràn tới giữa tiếng hò la man đại “hàng sống, chống chết”! Ðúng lúc này, các chiến sĩ BÐQ mới cắn răng xiết chặt cò súng. Ðịch đã xâm nhập hàng rào kẽm gai phòng thủ ngoài cùng, nhưng lập tức bị khựng lại vì gắp phải bức tường lửa từ trong bắn ra rất chính xác. Xác địch chồng chất trên trận địa hay vất vưởng trên hàng rào kẽm gai. Nhưng địch quá đông, nhất định “dứt điểm” nên chúng vẫn liều lĩnh xung phong. Chẳng bao lâu, chúng tràn tới hàng rào thứ hai. Lúc này một loạt mìn “Claymore” nổ tung khiến nhiều xác giặc tan thành mảnh vụn. Tiếng súng nổ, tiếng la hét cùng với mùi thịt, mùi máu, mùi thuốc súng tạo nên một khung cảnh khủng khiếp. Nhiều chiến sĩ BÐQ quá mệt mỏi và căng thẳng gần như ngất xỉu vì những trận tấn công liên tiếp đêm này qua đêm khác nhưng vẫn không rời tay súng.
Ðịch quân quá đông, lớp này chết, lớp khác đạp lên xác đồng bạn tiến tới. Trong đêm tối, phi cơ không thể yểm trợ hỏa lực; dù có ban ngày đi nữa cũng khó bay qua màng lưới phòng không. Trên bầu trời đen kịt, chỉ có vài đóm hỏa châu do phi cơ bay thật cao thả xuống, không đủ soi sánh trận địa, trông leo lét và mong manh như số phận của gần 300 chiến sĩ đang tử chiến với quân thù. Ðịch đã tràn gần tới hàng rào phòng thủ sau cùng, đôi bên giáp mặt. Các chiến sĩ Mũ Nâu buông những cây súng đỏ nòng, với tay tìm lựu đạn. Nhiều tiếng nổ chát chúa giúp hàng loạt những con thiêu thân thực hiện lời thề “sinh Bắc tử Nam”. Lại một loạt lựu đạn thứ hai tung ra giết hết những tên địch còn sống sót trong đợt xung phong này. Bên ngoài hàng rào, không còn những bóng người đầu đội nón cối, chân đi dép râu di động như trước. Sau đó, mặt trận bỗng nhiên im bặt không còn những tiếng la hét hô xung phong man dại. Những tên địch ngoài xa may mắn còn sống sót biết không thể xâm nhập căn cứ nên vội vã lẩn vào bóng đêm. Ðợt xung phong cuối cùng của địch đã bị chận đứng tuy chúng đã lọt được gần tới hàng rào phòng thủ sau cùng.
Một lần nữa, Cộng Quân tuy đông hơn nhưng lại bị thất bại chua cay trước sự quả cảm và tinh thần chiến đấu gan dạ vô song của các chiến sĩ TÐ 92 BÐQ. Cùng với lời nguyền “Thà chết không hàng giặc”, căn cứ Tống Lê Chân tuy tan nát như TÐ 92 đang tan nát, nhưng vẫn đứng vững như một phép lạ. Vỏn vẹn một Tiểu Ðoàn QLVNCH vẫn giữ vững được vị trí sau khi bị bao vây hàng năm trời với nhiều đột tấn công của hàng Sư Ðoàn địch? Các “cố vấn” Hoa Kỳ còn sót lại tại BTL/QÐ III đã vô cùng kinh ngạc. Trước đây họ đã cho rằng số phận của Tống Lê Chân coi như đã “xong”, vì theo ước tính của những người lạc quan nhất, ngay cả quân đội Hoa Kỳ với hỏa lực khủng khiếp của thảm bom “Arc Light” B-52 và đại pháo 175 cũng khó lòng giữ nổi Tống Lê Chân trong vòng vài ba tuần. Phía Công quân lại càng sững sờ vì chúng tưởng sẽ ăn tươi miếng mồi béo bở nhưng lại gặp phải cục xương khó nuốt. Sau nhiều cuộc tấn công thất bại và bị thiệt hại nặng nề, chúng đành ôm hận, lập lại sa bàn trận địa, bổ sung quân số, rút ưu khuyết điểm chờ ngày rửa hận.
Trong những ngày kế tiếp và suốt tuần lễ đầu tiên của tháng 4/74,Cộng Quân không giám tấn công mạnh vào Tống Lê Chân. Chúng chỉ dùng đặc công quấy rối nhưng mức độ pháo kích vẫn không giảm. Nhưng “mãnh hổ nan địch quần hồ”, các chiến sĩ Mũ Nâu đã không còn sức chiến đấu. Ðến lúc này, thượng cấp vẫn chưa có quyết định dứt khoát về việc tăng viện hay rút bỏ Tống Lê Chân. Cả Phủ Tổng Thống, Bộ TTM lẫn BTL/QÐ III đều lâm vào thế “tiến thối lưỡng nan” không có cách nào giải quyết vấn đề. Sau 17 tháng trời ròng rã bị vây hãm, pháo kích và tấn công liên miên TÐ 92 BÐQ hầu như không còn phương cách nào để thoát khỏi viễn ảnh bị tiêu diệt.
Trận Ðánh Sau Cùng Của TÐ 92 BÐQ
Nhưng tình trạng tạm thời sống lây lất không còn kéo dài được bao lâu. Tống Lê Chân như một con cá phơi mình trên thớt không còn phương cách tự vệ, nằm chờ lưỡi dao chém xuống. Và lưỡi dao đã rơi …
Ngày 11/4/74, sau khi tái điều nghiên, bổ xung lực lượng, Cộng quân mở những cuộc tấn công ác liệt quyết đạt được chiến thắng bằng mọi giá. Trong ngày chúng pháo kích mù mịt không dưới 1,000 quả đạn vào căn cứ đã tan nát trong các cuộc tấn công trước. TÐ 92 BÐQ lúc này đã kiệt lực, hết đạn, một số lớn binh sĩ lại bị thương nên không còn sức chống trả những đột tấn công mãnh liệt của đối phương. Nhưng dù tình thế đã đến lúc tuyệt vọng nhưng Trung Tá Ngôn vẫn không ra lệnh rời bỏ căn cứ khi chưa có lệnh của thượng cấp. Trước những loạt đạn pháo kích chính xác và các đợt tấn công biển người, vị TÐT anh hùng biết chắc không thể nào phòng thủ được nữa nên khẩn cấp yêu cầu thượng cấp cho lệnh di tản trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Trung Tướng Thuần, Tư Lệnh QD III – không rõ có tham khảo ý kiến của Bộ TTM hay Phủ Tổng Thống hay không – ra lệnh cho Trung Tá Ngôn phải “tử thủ bằng mọi giá”!
Nhưng TÐ 92 BÐQ sau hơn một năm trời bị vây hãm, bị pháo kích và tấn công liên miên bởi một lực lương địch quân đầy đủ vũ khí và đông hơn nhiều lần, lại thiếu đạn dược, lương thực, quân số hao hụt không được bổ xung nên đã chẳng còn giá nào để trả! Các chiến sĩ Mũ Nâu không còn nhiều chọn lựa: ở lại căn cứ chắc chắn sẽ bị chết hay bị bắt hết vì không còn cách nào ngăn chận địch quân hoặc đầu hàng để tìm con đường sống. Nhưng theo truyền thống hào hùng của binh chủng Mũ Nâu, dù trong lúc thập tử nhất sinh cũng vẫn không hàng địch. Trung Tá Ngôn đã đưa ra một quyết định vô cùng táo bạo: dùng toàn lực phá vòng vây, rời bỏ căn cứ, tuy có thể bị chết hết nhưng may ra sẽ đưa đơn vị tới một nơi an toàn.
Sau khi quyết định xong, vào khoảng nửa đêm 11/4, căn cứ Tống Lê Chân báo cáo nguy cơ sắp bị địch quân tràn ngập. Sau đó, mọi giấy tờ, tài liệu quan trọng đã được thiêu hủy đúng theo kế hoạch di tản để không bị lọt vào tay địch. Lúc dó, chỉ có phi cơ bay thật cao thả hỏa châu yểm trợ. TÐ 92 BÐQ yêu cầu phi cơ ngưng thả trái sáng để đơn vị nương theo bóng tối rời bỏ căn cứ. Dưới sự chỉ huy gan dạ của vị TÐTtrẻ tuổi vả tinh thần kỷ luật của toàn thể binh sĩ, TÐ 92 BÐQ đã di tản trong vòng trật tự, mang theo tất cả những thương binh. Liên lạc vô tuyến với BTL/QÐ III bị gián đoạn ngay sau đó.
Mãi tới 9 giờ sáng ngày hôm sau 12/4, BTL/QÐ III mới bắt được liên lạc với TÐ 92 BÐQ trên tần số hành quân lúc đó đã rời khỏi Tống Lê Chân đang trên đường di chuyển về hướng An Lộc, khoảng trên 15 cây số về hướng Ðông Bắc. Cuộc hành trình xuyên qua rừng rậm dưới sự rình rập của Cộng Quân, lại phải mang theo nhiều thương binh nên vô cùng gian nan vất vả. Suốt đêm, Tiểu Ðoàn 92 BÐQ phải kịch chiến với địch, vừa đánh vừa tìm đường rút lui khiến thêm 14 binh sĩ tử thương, 34 người nữa bị thương. Cuối cùng, may mắn như một phép lạ, TÐ 92 BÐQ tới được An Lộc tương đối an toàn, chỉ có thêm 4 chiến sĩ can đảm ở lại chận đường truy kích của địch quân để thành phần chủ lực rút lui anh dũng hy sinh. Tất cả các thương binh, kể cả xác chết của những người bị thiệt mạng đề được mang về.
Biệt Ðộng Quân: Sát!
Nhìn chung, Tống Lê Chân chỉ là một tiền đồn nơi đèo heo hút gió gần biên giới Việt – Miên không được nhiều người biết đến. TÐ 92 BÐQ lại là một đơn vị tương đối trẻ trung mới được thành lập từ năm 1970. Vị TÐT, Trung Tá Lê Văn Ngôn, con Cọp đầu đàn của TÐ 92 BÐQ cũng là một sĩ quan rất trẻ mới 25 tuổi, xuất thân khóa 21 Võ Bị Ðà Lạt. Trận đánh tại Tống Lê Chân cũng không phải là một cuộc đụng độ lớn. Cuối cùng, Tống Lê Chân lại rơi vào tay địch.
Như vậy, về mặt quân sự, rõ ràng trận đánh tại Tống Lê Chân cũng chỉ “tầm thường” như những trận đánh cùng tầm cỡ khác, kết thúc bằng việc quân trú phòng phải di tản. Tuy nhiên, về phương diện tinh thần chiến đấu và sức chịu đựng phi thường của các chiến sĩ Mũ Nâu, Tống Lê Chân đã vượt xa những trận đánh lớn nhỏ khác trong quân sử với nhiều điểm rất đặc biệt. Ðây là cuộc bao vây lâu dài nhất trong quân sử, một trận dánh trong chiến cuộc Việt Nam mà lực lượng đôi bên chênh lệch nhất và sau cùng, một cuộc lui binh thần tình nhất do một vị TÐT trẻ tuổi nhất, can trường nhất chỉ huy.
Cuộc Bao Vây Dài Nhất Trong Quân Sử
Kể từ khi trại Tống Lê Chân bị Cộng Quân khởi sự uy hiếp vào năm 1972 cho tới khi TÐ 92 BÐQ phải di tản vào tháng 4 năm 1974, căn cứ đã bị bao vậy ròng rã 17 tháng trời! Vòng vây của địch vô cùng chặt chẽ khiến “Nôi bất xuất, ngoại bất nhập”, kể cả đường hàng không. Chẳng những việc gửi quân tăng viện, tản thương và tiếp đạn dược, lương thực v.v… đều bị giới hạn nhỏ giọt mà ngay cả đến cặp lon Trung Tá thăng cấp đặc cách ngoài mặt trận của TÐT Lê Văn Ngôn cũng phải thả dù vào trong trại, không có người gắn lon và việc “rửa lon” truyền thống của nhà binh có lẽ đã được thực hiện bằng máu của Cộng quân. Ðiều này làm chúng ta liên tưởng đến chiếc lon thăng cấp của Ðại Tá De Castries, người hùng cùa đoàn quân viễn chinh Pháp tại Ðiện Biên Phủ vào năm 1954 cũng đã được thả dù vào khu lòng chảo. Nhưng De Castries trước kia đã không quá cô đơn và bị bao vây ngột ngạt như Lê Văn Ngôn tại Tống Lê Chân vì ít ra cũng có một số quân nhẩy dù tăng viện. Ngoài ra, De Castries cò có những “nàng hầu” thân yêu như Béatrice, Éliane, Huguette, Dominique để … tâm sự. Còn Lê Văn Ngôn và TÐ 92 BÐQ chỉ có độc nhất một quả đồi trơ trụi với vòng cao độ không quá 50 thước trên bản đồ UTM, một vị trí vuông vức mỗi bề không quá 300 thước để sống chết ôm ấp ròng rã gần một năm rưỡi trời! Cuộc bao vây ngặt nghèo tới nỗi vào những ngày tháng chót, cả đến việc thả dù tiếp tế cũng bị gián đoạn, còn nói gì đến việc tản thương hay tiếp viện bằng trực thăng.
Về các cuộc bao vây nổi tiếng khác trong chiến sử, Ðiện Biên trước kia cũng chỉ kéo dài 57 ngày. Ðịa ngục Khe Sanh, niềm tự hào của Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ cũng chỉ bị bao vây dăm ba tháng, nhưng với thảm bom dầy đặc đêm ngày của B-52, và lúc nào cũng có ba tầng phi cơ chiến thuật chờ sẵn trên không để dội bom, binh sĩ trú phòng coi như được đi nghỉ mát dưỡng quân theo tiêu chuẩn lính Việt Nam, vì họ không thiếu một thứ gì, kể cả nuớc đá để uống giải khát! Trong kỳ đệ nhị thế chiến, Stalingrad lừng danh cũng chỉ bị quân Ðức bao vây gần ba tháng. Tobruk của người Anh cũng chỉ cần tử thủ hơn 8 tháng. Còn Tống Lê Chân? Suốt 17 tháng truờng ròng rã trong những điều kiện tăng viện và tiếp vận khó khăn nhất. Như vậy, sức chịu đựng của người lính VNCH phải được coi là bền bỉ siêu đẳng vô địch.
Lực Lượng Chênh Lệch Một Trời Một Vực
Về tương quan lực lượng đôi bên, khi xảy ra trận đánh tại Tống Lê Chân, phía Cộng quân có các Sư Ðoàn 5, 7 và 9 cùng Sư Ðoàn Pháo Phòng Không 377 tân lập, cộng thêm dăm ba Tiểu Ðoàn địa phương và đặc công “lẻ tẻ”. Tuy Công Trường 5 đã bị thiệt hại khá nặng trong những cuộc hành quân vượt biên đánh sang vùng Lưỡi câu – Mỏ Vẹt trước đây của QLVNCH, nhưng đã được tăng viện nhanh chóng và thường lẩn quất tại vùng biên giới để uy hiếp các trại BÐQ Biên Phòng. Ngoài ra, Công Trường 7 cùng với Tiểu Ðoàn Pháo 22 và Tiểu Ðoàn Ðặc Công 28, sau khi tràn ngập các căn cứ Chí Linh nẳn trên Liên Tỉnh Lộ 13 giữa Chơn Thành và Ðôn Luân, cũng đè nặng áp lực trên quãng đường bộ từ Lai Khê đến An Lộc Riêng Công Trường 9 của Cộng Quân với 3 Trung Ðoàn còn đầy đủ quân số vừa từ Cam Bốt xâm nhập được dùng làm mũi dùi tiến công chính đánh Tống Lê Chân, sau khi đã buộc các trại BÐQ Biên Phòng khác như Thiện Ngôn, Katum, Bù Gia Mập phải di tản.
Tống Lê Chân là căn cứ biên phòng duy nhất còn lại trong vùng vì tất cả binh sĩ đều tình nguyện ở lại giữ trại. TÐ 92 BÐQ với quân số vỏn vẹn khoảng 300 người, đã bị hàng sư đoàn địch quân thay nhau tấn công và vây hãm hàng năm trời không được tăng viện. Thế mà các chiến sĩ Mũ Nâu vẫn anh dũng bền gan chiến đấu, nhất định không hàng địch! Ðây quả là một thành tích phi thường ngoài sức tưởng tượng!
Cuộc Lui Binh Thần Tình
Sau gần một năn rưỡi trời giữa vòng vây trùng điệp, lại bị tấn công liên miên, đương nhiên TÐ 92 BÐQ phải kiệt sức. Cho tới khi tình trạng tuyệt vọng, đơn vị chỉ còn đường rút lui để bảo toàn lực lượng nhưng cũng không quên dùng chất nổ phá hủy doanh trại, không để lọt vào tay Công Quân. Sau đó, tuy bị truy kích, nhưng các con Cọp Rừng Mũ Nâu đã về được tới An Lộc với tổn thất nhẹ không ngờ: trong số 277 binh sĩ gồm nhiều thương binh, một số lớn đã về được An Lộc. Ðây là một thành quả quá sức mong đợi cho một cuộc hành quân lui binh sâu trong lòng địch. Với tài chỉ huy khôn khéo, tinh thần kỷ luật và sức chiến đấu bền bỉ gan dạ, các chiến TÐ 92 BÐQ đã làm nhiều người ngạc nhiên và thán phục khi rút quân thành công trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, bi đát.
Cuộc lui quân thành công ngoài sức tưởng tượng này đã khiến dư luận phía Hoa Kỳ nghi ngờ rằng TÐ 92 BÐQ đã “thương lượng” với Cộng Quân, bằng lòng bàn giao căn cứ Tống Lê Chân để đổi lấy việc rút lui an toàn. Quả thật, việc TÐ 92 BÐQ phá được vòng vây về được đến An Lộc phải coi như một phép lạ nên “dư luận” thương thuyết không phải là không có lý. Vả lại, đây cũng là một trong ba giải pháp mà BTL/QÐ III đã đề nghị lên thượng cấp cách đó không lâu. Ngoài ra, rất có thể những lời đồn đại nói trên là do Cộng Quân tung ra để đỡ bị mất mặt vì TÐ 92 BÐQ đã vượt khỏi vòng vây như chỗ không người.
Thật sự, TÐ 92 BÐQ đã chỉ giết giặc chứ không bao giờ thương lượng với chúng và cuộc rút lui thành công vì tinh thần kỷ luật cũng như khả năng chiến đấu tuyệt vời của các chiến sĩ Mũ Nâu. Bằng cớ xác thực nhất là chính những tài liệu bắt được sau đó tại mặt trận cùng những lời khai của tù hàng binh Cộng Quân đã cho thấy không hề có chuyện “thương lượng”. Một hồi chánh viên tham dự trận đánh sau cùng vào đêm 12/4 tại Tống Lê Chân đã thuật lại khá chi tiết về biến cố này. Sau trận pháo kích dữ dội, bộ binh địch có chiến xa yểm trợ đã mở các cuộc tấn công mạnh. TÐ 92 BÐQ không còn đạn dược và nhất là không có vũ khí chống chiến xa nên bắt buộc phải rời bỏ vị trí. Tống Lê Chân bị bỏ ngỏ từ đêm 12/4 nhưng vì hàng rào phòng thủ quá kiên cố, lại có nhiều bãi mìn, hơn nữa Cộng quân sợ TÐ 92 BÐQ còn tử thủ sẽ gây cho chúng nhiều thiệt hại như những lần trước nên mãi tới ngày 13/4 chúng mới vào được trại. Lúc đó, các chiến sĩ Mũ Nâu đã rời xa căn cứ trên đường về An Lộc. Tống Lê Chân đã bị đặt chất nổ phá hủy. Ðịch chỉ tìm thấy xác của 2 BÐQ và bắt sống một người khác.
Một bằng chứng rõ ràng khác là bản báo cáo của Cộng quân bị QLVNCVH tịch thu. Tài liệu này tiết lộ một đơn vị Cộng Quân có nhiệm vụ chặn đường rút lui của TÐ 92 BÐQ đã bất tuân thượng lệnh, không bố trí quân tại những vị trí đã ấn định vì sợ bị phi pháo VNCH tiêu diệt. Cuối cùng, bản báo cáo còn đưa ra nhận xét rằng trong trận đánh tại Tống Lê Chân, tinh thần binh sĩ TÐ 92 BÐQ rất cao, còn cao hơn cả nhiều đơn vị chính qui của Cộng Quân có nhiệm vụ tấn công.
Ðường Vào Lịch Sử
Trận đánh tại Tống Lê Chân chính thức chấm dứt vào ngày 15 tháng 4 năm 1974 khi binh sĩ cuối cùng của TÐ 92 BÐQ về tới An Lộc. Trước đó, vào ngày 13/4, phi cơ của Không Quân VNCH đã bay 19 phi vụ thả bom đánh vào lực lượng Cộng Quân tại Tống Lê Chân. Tuy trận đánh đã chấm dứt từ lâu, nhưng qua cuộc bao vây dài nhất trong quân sử và cuộc lui binh thành công mỹ mãn, huyền thoại của TÐ 92 BÐQ tại Tống Lê Chân vẫn sống mãi. Các chiến sĩ Mũ Nâu dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Lê Văn Ngôn đã tô đậm một nét son cho truyền thống hào hùng của binh chủng Biệt Ðộng Quân và viết một trang sử huy hoàng trong pho quân sử QLVNCH.
Trần Ðỗ Cẩm