28/8/11

Núi Vẫn Xanh

    
Tác giả/Nhân vật: Hà Kỳ Lam |10-05-2011|

Cả bốn tay súng của toán thám sát Biệt Cách Nhảy Dù vẫn bố trí lưng chừng đồi theo hình cánh cung để bảo vệ người toán trưởng và hiệu thính viên đằng sau lưng họ trên đỉnh đồi từ nãy giờ đang hướng mặt về phía đối diện để quan sát đám người lố nhố dưới kia, trong thung lũng trãi dài hai bên con suối ngoằn ngoèo như con rắn bạc lấp lánh dưới ánh nắng ban trưa chói chan của một ngày đẹp trời tháng tư. Hết quan sát những người xê dịch dưới thung lũng lại cúi nhìn đồng hồ, người trưởng toán có vẻ nôn nóng.
- Ít nhất là một tiểu đoàn. Có thể là K 25B công binh như tin tình báo cho hay. Mẹ kiếp, máy bay lên chậm thế này để chúng di chuyển hết thì hoài công.
- Không sao đâu, ông thầy. Bọn nầy có vẻ còn ở đây lâu đấy, vì nhiều tên còn đang tắm, thậm chí giặt giũ nữa kia.
Bỗng hiệu thính viên Thịnh đưa ống liên hợp cho thiếu úy Tuấn:
- Thằng L 19 đang lên vùng và cần gặp ông thầy.
Tuấn bóp chặt ống liên hợp, đưa lên miệng:
- Họa Mi đây Thạch Ðộ, trả lời.
Giọng miền Nam của viên phi công vang lên trong ống nghe:
- Thạch Ðộ đây Họa Mi, bạn điều chỉnh hướng bay khi bắt đầu thấy tôi để xác định vị trí bạn, trả lời.
- Họa Mi đây Thạch Ðộ. Tình thế khẩn cấp lắm, tôi sẽ nháy mắt để anh có thể thấy tôi nhanh hơn, trả lời.
- Tôi nhận bạn năm trên năm, và trực máy.
Tuấn đưa tay vẫy Tâm, một toán viên dưới lưng chừng đồi đang ngoái đầu nhìn lên anh. Khi người lính vừa bò đến gần Tuấn khẻ ra lệnh:
- Mày ra chỗ lúc nãy chờ, khi thấy thằng L 19 thì chiếu kiếng cho nó thấy mình.
Lần hành quân nào cũng vậy, Tuấn chỉ giao công tác chỉ điểm này cho Tâm. Không hẳn vì anh chàng làm công việc này giỏi hơn các toán viên khác – Tuấn có bao giờ sát hạch môn này cho cả toán đâu mà chấm điểm được – nhưng tình cờ một lần giao công việc này cho anh lính và thấy được việc nên Tuấn chẳng muốn “thay đổi nhân sự”.
Gài khẩu M 16 vào khoen leo núi móc gần vai bên phải, Tâm bò về phía mõm đồi cỏ tranh cách xa bên trái của Tuấn khoảng một trăm thước. Lúc mọi người vừa thoáng thấy chiếc máy bay quan sát màu trắng ở nẽo xa thì Tâm cũng vừa quỳ tại bải cỏ tranh ngập nắng, rút từ túi áo trên cái kiếng hình chữ nhật chỉ hơi lớn hơn chiếc hộp quẹt Zippo và nâng lên ngang mắt, nhìn từ phía sau kiếng qua lổ nhắm ở trung tâm kiếng để hướng cái chấm đỏ của tia mặt trời nằm thẳng hàng với phi cơ đang bay. Ðoạn anh ta khẻ lắc nhẹ để tạo sự nhấp nháy. Bỗng một tràng tiếng nổ dòn vang lên, cùng lúc Tâm bật ngữa ra sau rồi nằm bất động. Cả toán biết điều không lành đã đến với người đồng đội, ghìm súng ở tư thế đối đầu với mọi hướng. Thịnh nằm cạnh Tuấn khẻ nói:
- Ð.M. tụi nó ở đầy cả rừng rồi!
Tuấn chưa kịp đáp lời người lính mang máy truyền tin thì những quả đạn sơn pháo 75 ly, đạn cối 82 ly, và những loạt AK 47 thi nhau đổ về phía toán đang bố trí trên đồi. Cành cây, đất đá bắn tung tóe vào thầy trò Tuấn. Không cần lệnh của người toán trưởng, mỗi toán viên nằm thủ tại chỗ. Họ biết trong tình thế loại này tháo chạy hoặc co cụm lại với nhau chỉ tổ lãnh thêm thiệt hại. Tuấn nhìn qua các toán viên và thấy tất cả còn “nguyên”. Thịnh trao ống liên hợp cho Tuấn:
- L 19 gọi.
Tuấn chụp máy :
- Họa Mi đây Thạch Ðộ.
- Ðây Họa Mi, tôi vẫn chưa thấy bạn nhưng thấy nhiều cột khói và nhiều lằn chớp dưới đó.
- Ðang bị ném đá. Tôi đang ở hướng ba giờ của anh.
Sau hai lần “bẻ góc” nữa, chiếc máy bay quan sát từ xa gióng chính hướng ngọn đồi lướt tới. Tuấn cho viên phi công biết đang bay đúng hướng và sẽ báo cho anh ta biết khi nào máy bay vừa ngang qua đỉnh đồi. Súng địch vẫn nổ dòn, mưa đạn vẫn tới tấp đổ về ngọn đồi, khiến công việc điều không của anh càng khó khăn. Nằm dài trên mặt đồi để tránh tầm đạn đi, bên chiếc máy truyền tin, tay cầm ống nói áp sát một bên tai, mắt vẫn ngước lên dõi theo chiếc L 19 trên không đang tiến gần vị trí mình, rồi ngay lúc nó vừa ở trên đầu, Tuấn bóp ống liên hợp, nói như reo:
- Họa Mi, anh đang ở ngay trên đầu tôi, trả lời!
- Thạch độ đây Họa Mi. Nhận bạn rõ năm. Rất tốt.
- Họa Mi đây Thạch Ðộ. Cứ trực máy, tôi sẽ có việc cho anh.
Tuấn vừa trao ống liên hợp cho Thịnh tiếp tục liên lạc với máy bay để bò gần về phía bìa rừng quan sát trãng cỏ tranh, thì thình lình tiếng súng im bặt. Mấy giây sau cả rừng vang tiếng thét “xung phong”. Rồi trước mặt Tuấn, từ hướng mõm đồi cỏ tranh nơi Tâm quì chỉ điểm cho phi cơ vừa rồi, và từ hướng trước mặt toán lố nhố người cứ ùn ùn tiến tới. Hóa ra đợt bắn phá vừa rồi là trò đánh phủ đầu để bộ binh tiến sát. Bóng dáng những bộ quân phục kaki màu lá cây, nón tai bèo cứ xông lên bất kể những tràng đạn M 16 đốn ngã từng đợt người. Khoảng một trung đội địch tiến hàng ngang đã lên tới đỉnh đồi, cách bọn anh không đến mười thước, với tiểu liên AK kẹp nách bắn xối xả. Một tên địch gần Tuấn hơn ria một tràng đạn về phía anh, nhưng, như một phép lạ, anh vô sự. Thịnh nhanh tay siết cò súng hạ hắn đo đất. Nhiều tràng M 16 đáp lễ ngăn được chốc lát sự “tiếp cận” kia. Lúc này hai chiếc A 37 cũng vừa xuất hiện và bay cao hơn chiếc L 19. Trung sĩ Hiến báo cáo hai sự kiện dồn dập: Châu bị nguyên một tràng đạn AK vào ngực, chết ngay trên đồi, và địch bây giờ tràn lên đông hơn. Tuấn ra lệnh cả toán rút xuống triền dốc về phía thung lũng. Anh biết thung lũng đang có một đơn vị lớn của địch. Anh chỉ muốn bỏ ngọn đồi, men theo triền dốc, rồi xin phi pháo đánh ngay trên đồi để toán tiện bôn tẩu. Nhưng di chuyển một đoạn ngắn thì nhiều tràng AK từ dưới chân đồi khạc đạn xối xả về phía bọn anh. Không xong. Tứ bề thọ địch. Chỉ vỏn vẹn bốn tay súng mà tử thủ với biển người hay liều mạng phá vòng vây trùng trùng của địch thì phỏng ích lợi gì? Tuấn bấm ống liên hợp:
- Họa Mi đây Thạch độ.
- Họa Mi nghe. Bạn cho biết cần gì?
- Anh cho đánh ngay trên đầu chúng tôi.
- Không được! Bạn xác nhận lại, đánh ở đâu?
- Tôi, thẩm quyền Thạch Ðộ nhắc lại đánh ngay trên đầu chúng tôi và bất cứ chỗ nào có người. Ðịch tràn ngập rồi, không chần chờ gì nữa. Ðánh ngay đi. Dứt!
Tuấn trả máy cho Thịnh trước vẻ mặt hốt hoảng của anh này. Không có thì giờ và cũng không cần giải thích về quyết định của mình với người lính truyền tin của toán, Tuấn nép sau một thân cây to để tránh các tràng tiểu liên AK từ dưới chân đồi vẫn không ngừng quạt lên. Trên đỉnh đồi bây giờ đã lố nhố người của đối phương. Bốn người thám sát Biệt Cách Dù chỉ còn biết tử thủ: Hiến và Sắc chĩa súng về hướng đỉnh đồi, còn Tuấn và Thịnh quay súng xuống chân đồi. Cả bốn tay súng chiến đấu trong một ô vuông mỗi cạnh khoảng mười thước. Họ bắn dè xẽn từng ba phát một nhưng rất hiệu quả, và nhờ vậy đã làm chậm bước tiến của địch. Trong khi đó chiếc L 19 vẫn chưa chịu thi hành điều Tuấn yêu cầu, cứ bay lòng vòng bên trên. Anh “thông cảm” cho người phi công, nhưng không khỏi tức giận vì cảnh dầu sôi lửa bỏng của mình. Anh ta phải xin lệnh từ Trung Tâm Không Trợ về điều yêu cầu “điên khùng” kia, và chắc đang chờ trả lời. Tuấn cũng lấy làm lạ lần này không có biệt đội trưởng hay một sĩ quan của Liên Ðoàn bay L 19 hay trực thăng C&C như mọi lần. Thình lình mọi người cùng nghe rõ âm thanh “chéo-éo-éo … đoành!”. Một cột khói trắng bốc cao và cuồn cuộn tỏa ra như một đám mây, vươn lên khỏi tàng cây rừng ngay đỉnh đồi mà toán thám sát vừa rời bỏ. Tuấn biết viên phi công quan sát vừa bắn một trái khói chỉ điểm mục tiêu oanh kích. Ðiều yêu cầu của anh đang được đáp ứng. Tuấn vẫn nếp sau thân cây. Rồi anh bỗng thấy hành động nấp sau thân cây rõ lẩm cẩm vì biết bom sẽ rơi hướng nào. Nhưng đành phó mặc cho may rũi, anh cứ ngồi bên gốc cây. Tuấn tưởng chừng như anh đang gồng mình lại, các bắp thịt toàn thân như rắn lại, chờ đợi sấm sét giết người từ trời cao … Chiếc oanh tạc cơ thứ nhất đâm bổ xuống ngay trên đầu Tuấn, rồi hẳn nhiên đã đạt tới một độ thấp vừa đủ, con chim sắt ấy lại vút lên cao vài giây trước khi hai trái bom từ dưới cánh đâm thẳng xuống quả đồi của anh. Tuấn không dám tiếp tục ngẩng nhìn lên trời. Anh nằm cúi mặt xuống, thân chịu trên hai cùi chỏ để tránh áp ngực với mặt đất. Anh thấy vài con kiến ung dung bò trên nền lá khô. Thốt nhiên Tuấn cảm nhận được cái mong manh của thân xác mình lúc này – khác gì những cái kiến kia! Chỉ có mỗi một khác biệt là anh đau khổ chờ đón cái chết chóc, cái hủy diệt, còn chúng thì không hay biết gì cả, vẫn thản nhiên, vẫn ung dung cho đến khi nào cái chết xảy ra là xong, không còn cảm giác nữa. Chúng hạnh phúc hơn anh trong lúc này. Từng khuôn mặt thân yêu trong gia đình diễn hành nhanh qua trí anh: mẹ anh, các em, và chị. Rồi anh nghĩ đến Trinh thật xa xăm và cũng thật gần. Anh có còn trở lại cổng trường Trưng Vương nữa không? Rồi bên tai anh nghe mơ hồ giọng một ca sĩ quen thuộc với “em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời mai mốt anh về…” Tuấn lại nghĩ đến tập thể tuổi trẻ Sài Gòn: không có anh trong đó! Và trong cái khoảnh khắc chờ đón một sự hủy diệt khủng khiếp sắp giáng xuống mọi người, một khoảnh khắc rất ngắn nhưng cũng rất thiên thu, giác quan anh đón nhận cả một trình tự ngoại vật lướt qua chóng vánh: âm thanh động cơ phản lực gầm thét qua đầu, tiếng bom xé gió, hàng loạt tia chớp lóe lên, từng tràng tiếng nổ kinh hồn, và mă? đất rung chuyển. Tuấn bị nhiều nguồn lực từ mọi hướng đẩy bật ngữa rồi xô tới trước hoặc xoay vòng; anh có cảm giác ngực bị ai đấm một quả rõ mạnh, tức đến khó thở. Ðất, sỏi ùn lên hắt vào người anh. Khói đen tỏa ra chung quanh, không khí khét lẹt mùi thuốc nổ. Tuấn biết một trái bom đã đáp cách anh không xa, đào một hố rõ to và làm dạt một mớ cây nhỏ bên trái anh, tung tóe đất lên quần áo anh. Riêng thân cây to vẫn đứng vững và hiển nhiên đã hứng hết những mãnh bom, đất đá và sức ép cho anh. Anh sờ khắp người để thấy mình vô sự. Trái bom khác rơi trên đỉnh đồi đã bật gốc một cây cổ thụ, tạo nên một âm thanh phụ nghe đánh ầm và làm trống hẳn một khoảng rừng.
Tuấn bò qua những cành cây gãy đổ ngổn ngang, tìm Thịnh nhưng không thấy hắn đâu cả. Trong mọi tình huống anh phải có máy bên cạnh mình. Nhưng chiếc A 37 lại đang đâm bổ xuống đầu Tuấn một lần nữa. Anh vội ngồi nấp sau một thân cây. Có lẽ đây là chiếc thứ hai, đang theo gót phi tuần trưởng của nó vừa rồi. Dù sao thì anh sắp hứng chịu một “trận đòn thù” nữa. Lại “ầm! ầm!” rồi mấy tiếng “ầm” phụ nổi lên. Tuấn lại bị lộn nhào một lần nữa, và anh giật bắn người khi thấy một cây cổ thụ vừa bật gốc ngã sóng soài cách anh không đầy một thước. Giá mà nó phang ngay anh thì còn gì nữa! Ngọn đồi bỗng “đổi mới”; cây ngã la liệt. Tuấn vẫn tìm Thịnh, tìm trung sĩ Hiến – người toán phó – và Sắc. Toán may ra thì còn được bốn mạng, kể cả anh. Tâm và Châu đã ra đi rồi! Nhưng sao thế này: im phăng phắc – địch đâu rồi, và ta đâu rồi? Bỗng lá cây lay động sột soạt sau lưng. Tuấn quay phắt lại, khẩu M 18 dưới nách chỉ thẳng vào bóng người từ trong bụi rậm vừa đứng lên.
- Sắc đây ông thầy.
Tuấn thở phào một cách dễ chịu. Anh khẻ nói:
- Mày không sao chứ?
Anh lính khẻ lắc đầu thay lời đáp. Tuấn biết mình vừa hỏi một câu không cần trả lời; nó chỉ có nghĩa của một câu xác định, “à, may quá còn có mày.” Anh đang lo cho số phận của các toán viên.
- Trung sĩ Hiến và Thịnh có sao không?
Sắc vừa nói vừa đưa tay chỉ về hướng hơi chếch đỉnh đồi:
- Ông Hiến bị thương nằm ở đằng kia. Ổng hỏi thăm ông thầy, và bảo em đi tìm.
Tuấn muốn đến gặp ngay trung sĩ Hiến xem tình trạng thương tích của ông ta ra sao, nhưng anh phải tìm Thịnh trước vì máy móc truyền tin là linh hồn của toán. Hai chiếc phản lực bây giờ đang ở tít trên mây; tiếng động cơ của chúng nghe nghe rất xa và đứt đoạn. Chiếc L 19 vẫn quầng trên đầu hai người. Có lẽ viên phi công đang gọi Thạch Ðộ khàn cả tiếng, Tuấn nghĩ thế. Quái, Thịnh biến đâu mất với chiếc máy truyền tin. Tuấn vẫn nhớ hắn chạy theo sau anh và nấp gần đây trước khi bom rơi. Tuấn bỗng nẩy ra ý nghĩ bới tìm trong mớ cây cối đổ ngổn ngang ngay cạnh hố bom. Và trong lúc hai thầy trò đang len lõi bò vào từng đống cây lá nằm bên trên hoặc bị vùi lấp dưới lớp đất mới thì phía trảng cỏ tranh một tiếng nổ phát ra và một cột khói trắng bốc cao. Anh biết viên phi công máy bay quan sát vừa bắn một trái chỉ điểm cho phản lực đánh bom xuống nơi anh ta vừa thấy địch ẩn núp đâu đó.
Trong tiếng rít của hai chiếc A 37 trên đầu, tiếng rền và chấn động liên hồi của bom, Tuấn chợt nghe giọng gọi đầy khích động của Sắc:
- Ông thầy ơi.
Tuấn nguớc nhìn theo ngón tay trỏ của người lính và thấy cách họ vài thước khúc cần ăng-ten của chiếc máy PRC 25 nhú ra khỏi mớ đất vàng tươi mới tinh khôi dưới mấy cành cây phủ lên. Anh lặng người mấy giây, cảm thấy đôi chân như không đứng vững nỗi. Giọng nói Tuấn nghe yếu ớt qua hơi thở:
- Moi đất ra.
Hai người hì hục lôi các cành cây bỏ sang một bên, dùng tay bới mớ đất bột lên. Chiếc máy truyền tin bị thủng, móp méo, vỡ nhiều chỗ, từ từ lộ ra, rồi màu áo rằn ri bày ra, dính đất và máu. Tuấn và Sắc cùng nâng người Thịnh đang nằm sấp lên. Xông pha trận mạc đã nhiều, đã trông thấy bao nhiêu xác chết của cả đôi bên, nhưng anh phải nhận chưa bao giờ thấy một xác người như thế này, nói chi xác ấy là đồng đội, là thuộc cấp của mình. Cả người Thịnh từ bụng lên vai bị mất tùng mãng thị lớn, và xương vai một bên bị gãy. Nhưng cái chân, ôi cái chân trái, anh không biết phải nói thế nào … đứt đến trên đầu gối, chỉ còn dính tòn teng với toàn thân bằng một mãnh da rộng bằng một bàn tay, và thịt chỗ hai đầu bị cắt lìa trở nên xám đen giống như vừa bị nướng trên lửa!
Sắc mở thử máy truyền tin. Chỉ là một cục kim khí im thin thít vô dụng. Chợt nhớ tới trung sĩ Hiến, hai người thận trọng di chuyển, và Sắc dẫn đường ngược lên đồi. Họ bước qua nhiều xác lính Bắc Việt nằm đủ vị thế – nghiêng, ngữa, sấp, hay cong queo. Tuấn cúi xuống bên người toán phó, xem xét vết thương ở bụng. Có vẻ một mãnh bom đã cứa một đường dài và sâu trước bụng. Anh thử xốc người thương binh lên nhưng anh ta nhăn nhó một cách đau đớn:
- Ối, ông thầy để tôi nằm đi.
- Trước khi bom nổ anh đã rút xuống triền dốc với toán mà sao lại ở đây?
Trên gương mặt tái xanh vì mất nhiều máu của Hiến Tuấn thấy một sự cố gắng dùng sức mới bật ra thành tiếng:
- Tôi chạy lên để.. kéo xác thằng Châu xuống.. kẻo bom dần nát mất nhưng..
Hiến ngưng nói, vẻ mệt nhọc, đưa lưỡi liếm quanh vành môi tái nhợt và khô khốc. Sắc mở nắp bi-đông, khẻ nâng đầu anh lên và kề miệng bình nước vào môi. Tuấn nhắc:
- Cho uống ít thôi để giữ cho máu bớt chảy.
Trong khi tháo cuộn băng cá nhân để băng cho trung sĩ Hiến, Tuấn vẫn thận trọng quan sát chung quanh. Anh thấy nhiều xác chết đối phương rãi rác khắp nơi. Xác Châu nằm cách trung sĩ Hiến khoảng năm thước, mắt còn nhìn lên trừng trừng. Anh rón rén bò đến bên người toán viên vẫn hay di chuyển hàng đầu trong các cuộc xâm nhập của toán, đoạn từ từ vuốt cho đôi mắt nhắm lại. Rừng im phăng phắt. Có lẽ chúng chỉ di tản những kẻ bị thương. Những người nằm kia đều “câm nín”. Sau khi đảo lại mấy vòng để bắn rocket và đại liên mười hai ly bảy xuống một điểm mới dưới thung lũng do phi cơ quan sát chỉ điểm, hai chiếc phản lực đã rời vùng. Chiếc L 19 vẫn còn lượn trên không phận hành quân. Tuấn vừa quay sang bảo Sắc lấy chiếc pa-nô tìm cách trãi để ra hiệu cho máy bay biết mình có mặt tại chỗ thì bỗng rừng núi lại rền vang từng tràng nổ. Tuấn nói:
- Mười hai ly bảy.
Chiếc L 19 vụt cất cao lên và mất hút vào khoảng không. Tuấn đề nghị khiêng trung sĩ Hiến men theo triền dốc về hướng Bắc cho xa vùng giao tranh được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Anh đoán địch sẽ chiếm lại đồi này. Bỗng dưng trung sĩ Hiến quàng một tay ôm chặt chân Tuấn và thều thào nói:
- Ông thầy đi đâu anh em cũng đi theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ
anh em …
Tuấn định thốt một lời an ũi, hay trấn an nhưng bàn tay trung sĩ Hiến đã buông rơi khỏi cổ chân anh, đầu ngoẹo sang một bên, mắt nhắm nghiền như đi vào một giấc ngủ. Anh lay mạnh vai Hiến:
- Anh Hiến! anh Hiến!
Chỉ có tiếng gió ngàn xào xạt đáp lại. Rừng chiều hửng nắng ở những đồi xa. Sắc bỗng vỗ vào cạnh sườn Tuấn và chỉ về hướng trãng cỏ tranh. Lố nhố một đoàn quân dàn hàng ngang đang tiến lên đồi của anh. Họ vận kaki xanh, nón tai bèo, súng kẹp nách, vai đeo ba lô. Hai thầy trò vội lom khom chạy về phía triền dốc, rồi di chuyển về hướng Bắc men theo sườn đồi.
Ði được một giờ, vượt qua vài con suối, mấy quả đồi thấp, Tuấn dừng lại xem bản đồ, đoạn bảo Sắc đổi hướng, đi về đông theo phương giác 1800. Năm giờ chiều. Ðêm rừng bao giờ cũng đến nhanh. Trong ánh sáng nhá nhem hai thầy trò kẻ trước người sau cứ tiếp tục luồn lách qua cây lá, bụi rậm. Rồi sực nhớ phải có một độ quan sát tối thiểu mới có thể chọn một vị trí ngủ đêm an toàn, Tuấn khẻ nói với người toán viên đồng hành:
- Ta lên đỉnh đồi trước mặt tìm chỗ nghỉ đêm.
Mới hơn bốn giờ sáng Tuấn đã thức giấc. Bao giờ người lính hành quân cũng thức giấc sớm, vì giấc ngủ đến vào khoảng bảy giờ chiều thay vì một hai giờ sáng ở những “đêm đô thị”. Trời còn tối mịt. Anh nằm nghe ngóng một lát, đoạn đưa tay sờ lưng võng của Sắc. Một giọng nói rất khẻ:
- Ông thầy thức rồi hả?
Rồi ánh sáng nhờ nhờ đổi dần sang trắng đục. Rồi mọi vật bỗng hiện rõ trước một ngày đang lên. Có vài tiếng chim hót. Có vài tiếng hú đâu đó bên một ngọn đồi khác, rồi không biết bao nhiêu tiếng hú cất lên vang cả một vùng đồi núi, cơ hồ như tiếng hú này lây sang tiếng hú khác, và cứ thế truyền đi khắp nơi. Tuấn đã quá quen với các tấu khúc bình minh của rừng núi. Hai người cuốn võng bỏ vào ba lô, dọn dẹp “sạch sẽ” chỗ đất dưới chân, lùa mớ lá cây chung quanh phủ lên, không để lại một dấu vết nào có thể tố cáo sự hiện diện của hai thầy trò. Sắc mở một bịch gạo sấy, rót nước từ bi-đông vào bao làm một bửa ăn sáng. Tuấn chẳng thấy đói, tuy suốt ngày hôm qua anh chỉ ăn có một gói cơm sấy vào buổi sáng. Tâm trí anh quay về với những gì đã xãy ra. Bị lộ, trận oanh kích, những xác đồng đội bị bỏ lại, và bây giờ hai nguời lạc lỏng giữa rừng không máy móc liên lạc để biệt đội biết tung tích. Anh có trách nhiệm gì với những thuộc cấp vừa ra đi vĩnh viễn kia? “Ông thầy đi đâu anh em cũng theo ông thầy. Bây giờ ông thầy bỏ anh em …” Tuấn thấy miệng đắng khi nuốt nước bọt. Anh thèm một điếu thuốc, và một ly cà phê. Anh nhìn Sắc đang ngồi ăn, nhìn xuống khẩu M 18 gác trên đùi mình, ngước nhìn bầu trời xanh biếc ban mai. Sắc vụt hỏi:
- Bây giờ tính sao, ông thầy?
- Không có máy móc, không biết ở nhà thế nào, còn ở nhà cũng chẳng biết mình sống chết ra sao. Cứ tiếp tục đi về hướng Ðông, được bao nhiêu hay bấy nhiêu, càng gần nhà càng tốt. Có trực thăng thì trãi pa-nô cho nó thấy mình. Thế nào biệt đội cũng cho máy bay đi tìm.
- Cha con nó bị thiệt hại nặng. Hai chiếc A 37 đánh hiệu quả thật. Sườn đồi bên kia và trãng cỏ tranh lãnh trọn mấy trái bom. Em thấy chung quanh chỗ ông Hiến nằm ít nhất cũng cả chục xác nằm la liệt. Ông thầy có để ý không? Ðợt bom đầu tiên chận đứng ngay cuộc tấn công. Em nghĩ có lẽ chúng kêu phòng không đến tiếp cứu sau này, vì suốt trong khi oanh kích đâu có khẩu mười hai ly bảy nào hoạt động đâu.
Tuấn đồng ý với phần lớn những lập luận của Sắc, nhưng anh chẳng thấy hứng thú bàn luận về chiến trận vừa qua. Tỷ số tử vong của chiến trường và tỷ số tử vong của lòng mình, cái nào làm nên chiến thắng? Ðợi cho người lính ăn xong và đào đất lấp mọi dấu vết, Tuấn đề nghị lên đường.
Sang đến ngày thứ ba hai người vẫn tiếp tục băng rừng, ngày đi đêm nghỉ. Còn khoảng hai chục cây số đường chim bay nữa mới về đến bộ chỉ huy của Liên Ðoàn. Cả hai đều thấy ngao ngán. Hai mươi cây số đường chim bay, điều đó có nghĩa là bốn, năm mươi cây số đường núi, mà tốc độ di chuyển băng rừng – chứ không phải theo theo đường mòn – có nhanh lắm cũng chỉ đạt tới bảy cây số một ngày. Nhưng điều bất ổn trong lòng họ không phải đường về dịu vợi, đầy đe dọa, bất trắc, lương thực cạn. Cái bất ổn là không trung vắng lặn. Từ cái buổi sáng đầu tiên sau khi bỏ ngọn đồi và đồng đội ở lại anh và Sắc không hề thấy thấp thoáng, dù xa, bóng dáng một chiếc máy bay. Lạ thật. Không một chiếc trực thăng, không một chiếc L 19, không một chiếc vận tãi, không một chiếc oanh tạc cơ phản lực, thậm chí không một chiếc máy bay dân sự, không có gì ráo trên bầu trời quang đảng. Chưa bao giờ như thế, ít ra từ ngày Tuấn vào lính; chưa bao giờ có một ngày không có một hoạt động nào của không quân. Anh ngồi nghỉ mệt trên một ngọn đồi, tựa lưng vào một thân cây, dựng súng bên cạnh. Sắc ngồi xếp bằng trên mặt đất, cạnh Tuấn. Người lính cảm thấy bồn chồn khi nhìn vẻ tư lự của người chỉ huy. Anh ta không dám hỏi bất cứ điều gì lúc này. Tại sao bầu trời vắng lặn thế này? Sao không nghe một tiếng đại bác, một tiếng bom nổ xa xa? và vân vân. Cuối cùng, không nén nỗi những băn khoăn trong lòng, Sắc lên tiếng:
- Em thật không hiểu nổi. Chắc có chuyện gì đây, chứ không thể nào Liên Ðoàn đem con bỏ chợ như thế này.
- Tao cũng chịu thua, không hiểu nổi. Ðành rằng mình không có phương tiện liên lạc, không biết tình hình ở nhà hay các đơn vị bạn ra sao, nhưng Liên Ðoàn vẫn có thể cho trực thăng đi tìm. Ðằng này bặt vô âm tín. Mà cái điều lạ lùng nhất là không có bóng dáng một chiếc máy bay nào cả, chứ đừng nói trực thăng C&C của biệt đội. Tao cũng nghĩ như mày: chắc có biến cố gì đây. Ðiều cần nhất bây giờ là bằng mọi cách phải gắng về tới bộ chỉ huy Liên Ðoàn. Mầy còn mấy gói gạo sấy?
- Dạ ba gói, và không tới nửa chai xì dầu.
- Tao còn năm gói. Tao sẽ đưa thêm cho mày một gói. Mỗi thằng như vậy có bốn gói.Tao ước tính từ đây về tới Liên Ðoàn có thể mất sáu, bảy ngày nữa. Bây giờ tao tạm ấn định kỷ luật dùng lương khô là mỗi thằng chỉ được ăn nửa gói một ngày. Cố gắng chịu đựng như vậy thì mới đủ sức mà lết về tới nhà. Tao nói sáu, bảy ngày là trong giả thuyết di chuyển vô sự, không đụng địch.
Ðiều Tuấn nói sau cùng nhắc lại sự bất an của hai người. Trong ba ngày qua thầy trò anh đã né tránh mấy đoàn quân dài dằng dặc. Trong đời nhảy toán của mình Tuấn chưa bao giờ thấy địch chuyển quân rầm rộ như thế. Một điều lạ lùng nữa là những đoàn người cứ nườm nượp hướng về Ðông, cùng chiều với anh và Sắc, chỉ khác là họ dùng đường mòn. Tuấn đứng dậy tháo ba lô đặt xuống đất, lôi một gói gạo sấy đưa cho Sắc, đoạn cả hai lên đường.
***
Tuấn nhìn đồng hồ tay: ba giờ chiều. Tuy gần cuối ngày, cái nắng như nung như đốt của tiết trời đầu tháng Năm vẫn chưa dịu đi chút nào. Ðưa bi đông lên miệng tu một ngụm nước xong, anh xoay xoay tấm bản đồ, nhìn thật kỷ những vòng cao độ nâu lẫn xanh nhạt, rồi ngước nhìn địa thế chung quanh. Cho chắc chắn, anh mở cái địa bàn, xoay cho hướng bắc của bản đồ trùng với hướng mũi tên của địa bàn, đoạn anh đối chiếu chi tiết bản đồ với địa thế một lần nữa. Anh hân hoan nói với Sắc:
- Tới vùng Tân Uyên rồi!
- Chắc không, ông thầy?
- Bảo đảm!
Hai thầy trò bỗng thấy khỏe khoắn trong người, mặc dù mới trước đó mấy phút họ cảm thấy gần kiệt sức sau sáu ngày băng rừng lội suối với những cơn đói triền miên làm bủn rủn chân tay, hoa cả mắt. Nhìn lại đoạn đường dài gian nan, hiểm nguy, Tuấn thấy thương hại Sắc. Hắn ta to con, ăn khỏe, nên trong mấy ngày qua quả thật là một chuỗi ngày khốn khổ “tận cùng bằng số” đối với hắn. Tuấn bảo:
- Bây giờ mày có thể ăn nốt nửa bịch gạo sấy cuối cùng cho đỡ đói. Còn vài cây số nữa là tới chi khu rồi, tha hồ mà gọi mì, phở, hủ tiếu…
- Lạ thật, không thấy thèm nữa ông thầy ơi. Thôi, mình đi lẹ tới chi khu đặng báo Liên Ðoàn đón.
Hai người lội qua một con suối, tiếp tục đi về Ðông. Họ bước đi vững vàng hơn những ngày còn lếch thếch giữa rừng. Sau khoảng một tiếng đồng hồ di chuyển, nhìn xuyên qua một khoảng rừng thưa, hai người thoáng thấy mấy nóc nhà lợp tôn của chi khu Tân Uyên ở tít đằng xa, bên kia sông. Cùng với bước tiến của Tuấn và Sắc, mọi vật rõ dần. Rồi lá cờ phấp phới trên trụ cờ tuy vẫn còn mờ mờ trong quãng xa nhưng đã đủ để thấy không phải lá cờ vàng ba sọc đỏ quen thuộc. Hai người không tin nổi mắt mình: làm thế nào mà lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao ở giữa lại ngang nhiên tung bay nơi này. Thầy trò nhìn nhau, nhưng mỗi người theo đuỗi những suy nghĩ riêng. Sắc bỗng vỗ vai Tuấn chỉ về phía con sông trước mặt, vẫn ở nẽo xa và chen vào giữa khoảng cách từ chỗ họ đến chi khu: vài chiếc ghe cũng treo loại cờ đó. Nhìn qua mấy mái nhà tranh gần bờ sông cũng lại thấy những lá cờ đó. Sắc khẻ nói:
- Chắc chúng chiếm vùng Tân Uyên rồi. Không khéo Biên Hòa cũng di tản chiến thuật nốt.
Tuấn nói, để tự trấn an hơn là làm yên lòng người thuộc cấp:
- Không thể có chuyện đó được.
Chợt nhìn bên trái, qua một khoảng rừng chồi lưa thưa, thấy có mấy người nông dân đang cuốc đất trong một thữa ruộng, anh chợt nẩy ra ý nghĩ đến tiếp xúc họ để dò hỏi tình hình. Tiến sát mãnh ruộng, để Sắc ngồi lại trong một bụi cây yểm trợ, Tuấn cầm khẩu M 18 trong tay phải, bước đến bên bốn người đang làm việc đồng áng. Họ ngừng tay, nhìn anh chằm chặp. Tuấn hỏi người lớn tuổi nhất trong nhóm người, một ông già khoảng năm mươi, xương xẩu nhưng còn nhanh nhẹn:
- Thưa Bác, hình như chi khu đã rút đi rồi, phải không ạ?
Gương mặt thoáng bối rối, ông nhìn Tuấn từ đầu đến chân rồi nói rất khẻ:
- Chú là biệt kích 81 trong rừng mới ra hả?
- Dạ phải.
- Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng từ năm, sáu ngày nay rồi, từ hôm ba mươi tháng Tư. Ai nấy đều buông súng trở về nhà hết. Chính phủ Cách Mạng chẳng làm khó dễ gì cả. Anh em còn bao nhiêu người?
Tuấn chẳng còn nghe rõ ông già hỏi gì nữa. Anh cúi đầu rất lâu. Giòng ý thức của anh bỗng như ngừng lại – không hẳn là nó đặc quánh lại, cũng không hẳn nó trống rổng, chỉ biết nó tuồng như không còn khả năng suy nghĩ rõ ràng, mạch lạc nữa. Tuấn có cảm tưởng sau bao nhiêu suy đoán, thắc mắc, giờ đây được thực tế trả lời, trí não mình bỗng thấy “no” rồi, không đòi hỏi nữa, cũng không nhận dữ kiện nào từ ngoại giới nữa! Sắc từ trong bụi vội bước ra. Nhìn dáng điệu của người toán trưởng anh đã đoán tình hình hẳn là rất xấu. Trong ánh mắt ái ngại, ông cụ lặp lại cho người lính thứ hai nghe:
- Ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng hôm ba mươi tháng Tư rồi. Các chú nên bỏ súng ống đi, trở về gia đình thôi.

Ðến lược Sắc đứng đờ người ra. Lúc ngồi trong bụi anh đã đoán tình hình phải xấu, anh đã lờ mờ phát họa một vài viễn anh tệ hại, nhưng “xấu” như ông già này cho biết thì thật vượt quá xa dự tưởng của anh.
Ðột nhiên Tuấn ngước lên chào từ giã:
- Tụi cháu cám ơn Bác. Thôi, tụi cháu về.
Tuấn bước đi trước, và Sắc theo sau. Họ tiến về phía bờ sông. Hai người đứng nhìn giòng sông êm ả, trong vắt một hồi lâu. Rồi Tuấn nhìn Sắc, ngập ngừng vài giây, nói với một giọng hơi lạt đi, nhưng không kém dứt khoát:
- Qua bên kia sông, có thể đi bộ ra đến xa lộ, từ đó đón xe về Sài Gòn. Sắc, thôi thầy trò mình chia tay. Kể từ giờ phút này tao không còn là trưởng toán của mày nữa. Cứ tự do về với gia đình. Tao chỉ muốn nói một điều. Trong những ngày mày theo toán, nếu tao có làm những gì khiến mày buồn lòng, hoặc vì trách nhiệm, hoặc vì sai lầm, tao mong mày bỏ qua cho. Cầu chúc mày thật nhiều may mắn.
Sắc cố bậm môi để giữ cho miệng khỏi bị méo xệch. Anh ta muốn nói cả nghìn lời nhưng không thốt được một tiếng. Cúi gầm mặt xuống một lúc như cố đè cơn xúc động cứ chực bật ra thành tiếng nấc, cuối cùng anh ta hỏi:
- Còn ông thầy?
- Tao không thể bỏ toán còn nằm lại trong đó.
- Nhưng họ chết hết rồi mà.
- Chính vì vậy mà tao thấy mình không thể về nhà được. Lời nói sau cùng của trung sĩ Hiến rất đúng.
Tuấn ngập ngừng một lát, định nói thêm điều gì nữa nhưng lại thôi. Anh sẽ mang những đắng cay trong lòng mình vào rừng núi. Có lẽ anh chỉ cần nói điều đó với toán của anh vẫn còn lại trong rừng: người lính ở đâu cũng thế, chỉ là công cụ; thắng bại không phải do họ định đoạt, và vinh quang của chiến thắng cũng không thuộc về họ – có thuộc về họ chăng chỉ là những đau khổ của chiến bại và của hy sinh!
Tuấn quay lưng đi về hướng khi nãy hai thầy trò từ trong rừng ra. Trong một thoáng cõi lòng Sắc như hứng chịu bão táp tơi bời từ mọi hướng. Tìm về xa lộ sao ngập ngừng bước chân. Anh muốn rão bước theo sau người toán trưởng, nhưng hình ảnh những đường phố Sài Gòn thân thuộc giờ đây không xa lắm như níu chân anh, dù anh nghĩ nơi ấy chắc cũng đang phấp phới những lá cờ này. Rồi hình ảnh mẹ anh hiện ra thật rõ và bao trùm cả không gian. Sắc gọi:
- Ông thầy!
Tuấn quay lại. Sắc đứng ở thế nghiêm, đưa bàn tay phải lên ngang mày chào. Tuấn chào đáp lễ, đoạn quay gót tiến bước. Người lính đứng nhìn theo cái dáng gầy, phong sương xa dần rồi khuất sau ngàn lá. Anh ta lại nhìn những dãy núi xa xa ở chân trời. Núi ở chân trời bao giờ cũng xanh lơ. Chắc toán của anh đang nằm trên một trong những dãy núi đó. Chắc người trưởng toán lại trèo lên nơi ấy. Sắc không sao ngăn nổi mấy giọt nước mắt từ từ lăn xuống, quyện với mồ hôi làm lưỡi anh mặn chát.
Hà Kỳ Lam

Lữ đoàn 147 Thủy Quân lục chiến

Tác giả/Nhân vật: Phạm Văn Tiền |28-07-2011| 254 lần xem | |

Từ một cuộc di tản chiến thuật tháng ba 1975
Chúng ta đang bước vào những ngày lễ tưởng niệm Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19-6. Cuộc chiến đấu một mất một còn với chủ thuyết cộng sản toàn cầu đã chấm dứt hơn 34 năm về trước, nhưng niềm đau xót khôn nguôi luôn ám ảnh vào tâm khảm của mỗi chiến sĩ miền Nam Tự Do. Người lính Việt Nam Cộng Hoà bị buộc phải thua đau trong niềm tức tưởi nghẹn ngào. Còn kẻ chiến thắng thì bàng hoàng ngơ ngác, không biết từ đâu mà mình chiến thắng quá nhanh và dễ dàng như vậy. Niềm oan ức về một sự sụp đổ một thể chế Cộng Hòa suốt hơn 20 năm gầy dựng, ngày nay đã được minh oan bằng những chứng cớ lịch sử. Chính nghĩa của một chế độ đã được phục hồi cùng những chiến sĩ can trường bất khuất trong cuộc chiến đó. Những người lính VNCH đã nằm xuống trên mọi miền đất nước nay đã được vinh danh, cùng những Thương phế binh đã mất một phần thân xác mình cũng đã được phục hồi danh dự, bằng những buổi ca nhạc gây quỹ “Cám ơn Anh”với sự tham dự vài chục ngàn người. Cờ vàng chính nghĩa đã được công nhận trên rất nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, cùng rất nhiều đài tưởng niệm chiến sĩ Việt Mỹ đã được dựng lên, để tôn vinh và mãi mãi ghi nhớ công lao của những anh hùng đã nằm xuống, và máu xương đã đổ ra trong cuộc chiến đấu bảo quốc an dân đó.
Tôi vẫn nhớ mãi cái ngày mà đơn vị tôi đã phải tan hàng tại cửa biển Thuận An, Huế. Một cuộc bại trận không phải do những người lính chúng tôi không chịu chiến đấu, mà do từ lệnh trên của các cấp thẩm quyền, ngoài khả năng hiểu biết của anh em chúng tôi. Một cuộc lui binh chưa từng được viết ra trong binh pháp, và cũng chưa đơn vị nào đem ra áp dụng bao giờ. Ðó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong quân sử miền Nam VN.
Bài viết nầy xin dành tặng các chiến hữu TQLC của tôi, những người đã may mắn không hiện diện tại mặt trận phía Bắc Quảng Trị vào những ngày cuối tháng ba gãy súng. Các anh có lệnh xuôi Nam còn chúng tôi những Kình Ngư, Hắc Long, Mãnh Hổ, Sói Biển, Thần Tiễn còn ở lại. Những diễn biến có thật mà máu và nước mắt tưởng chừng như không đủ để nói lên những oan trái xót xa đã dành sẵn cho thân phận của một người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

oOo
Ðầu tháng 3 năm 1975, Cộng sản Bắc Việt dốc toàn lực lượng tấn công hầu cưỡng chiếm toàn bộ miền Nam.. Bình Long, An Lộc thất thủ. Thị xã Ban Mê Thuộc sau đó cũng bị bỏ ngõ hoàn toàn với sự rút quân ồ ạt như nước vỡ bờ của Quân Ðoàn 2 về Nha Trang và nhiều nơi khác. Trong khi đó phòng tuyến phòng thủ phía Bắc do SÐ/TQLC đảm trách vẫn còn là một vùng đất yên tĩnh trong sự cẩn thận, dè dặt chờ đợi lẫn nhau.
Sau sự phối hợp nhịp nhàng của 2 Sư Ðoàn tổng trừ bị thiện chiến nhất là Nhảy Dù và TQLC, với thế đánh gọng kìm liên tục từ 2 phía Ðông Tây, đã buộc địch phải tháo chạy với nhiều tổn thất nặng nề, bằng chiến thắng tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị ngày 14-9-72. SÐ Nhảy Dù được điều động về mật trận Ðức Dục, Quảng Nam. SÐ/TQLC ở lại chịu trách nhiệm trên một tuyến khá rộng trải dài từ bờ biển Ðông sang tận những mỏm núi tận cùng phía Tây thuộc dải Trường Sơn, qua các vùng Mỹ Thủy, Long Quang, Bích La, Triệu Phong, Nam sông Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, La Vang, Ðộng Ông Ðô, Barbara, Anne, Cổ Bi, Hiền Sĩ, Thanh Tân, Lồ Ô…
Liên đoàn 911 và các đại đội biệt lập ÐPQ tiểu khu Quảng Trị được đặt dưới quyền điều động của BTL/SÐ/TQLC hành quân trong việc phòng thủ này. Mặc dù là đơn vị được giao nhiệm vụ phòng thủ, nhưng SÐ/TQLC vẫn luôn chứng tỏ khả năng cơ động tấn cộng tận sào huyệt địch, như cuộc đổ bộ vượt sông Thạch Hãn của TÐ6/TQLC vào tháng 10 năm 72, cuộc hành quân thần tốc tái chiếm cửa Việt tháng 1 năm 1973 trước giờ ngưng bắn có hiệu lực của hiệp định Paris và đặc biệt Lữ Ðoàn 258 TQLC đã hạ một tàu vận tải lớn tiếp tế địch đang mon men ngoài khơi bờ biển Mỹ Thủy tháng 6 năm 1973.
Ngược lại, địch quân chưa có lần nào dám liều lĩnh tấn công vào các đơn vị TQLC. Có chăng chỉ là những hành động phá hoại lén lút, đặc công, giật mìn lẻ tẻ trên các trục lộ giao thông tiếp tế. Phải nói rằng đây là phòng tuyến phòng thủ vững chắc nhất, thừa sức ngăn chặn mọi cuộc xâm lăng từ phương Bắc xuống của CS Bắc Việt.
Do tình hình xáo trộn chung của đất nước và vì nhu cầu đòi hỏi cấp bách của chiến trường lúc này, bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đã quyết định điều động phân lớn các lực lượng TQLC về Nam gồm các LÐ-258, LÐ-369 và LÐ-486 vừa mới được thành lập. LÐ-147 do Ðại Tá Nguyễn Thế Lương chỉ huy gồm các Tiểu đoàn 3, 4, 5, TÐ Pháo binh, 2 đại đội Viễn Thám và Tiểu đoàn 7/TQLC thuộc Lực Lượng Ðặc Nhiệm Tango do Ðại Tá Tư Lệnh Phó trực tiếp chỉ huy đang nằm sẵn trên các tuyến. Thay vào lỗ hỏng to lớn trên là 2 Liên Ðoàn BÐQ với trang bị quân số thiếu hụt. Ðây là khởi điểm cho tất cả sự bỏ ngõ sau này ở mật trận Bắc Quảng Trị.
Mãi đến chiều tối ngày 7/3/1975, địch bắt đầu mở cuộc tấn công đầu tiên thật mãnh liệt vào một trung đội tiền đồn tại đồi 51 thuộc căn cứ Tư Tưởng, hướng Tây Quốc Lộ 1, cây số 23. Ðơn vị này được chỉ huy bởi Trung Úy Sáng ÐÐP/ÐÐ1 tiểu đoàn 4 TQLC đã chiến đấu thật can cường, đẩy lui nhiều đợt xung phong biển người của địch. Lần liên lạc sau cùng qua máy PRC-25 vào lúc 4 giờ sáng, anh đã yêu cầu pháo binh chụp thẳng trên đầu mình vì vị trí bị địch tràn ngập. Anh đã tử thương sau đó trong cuộc cận chiến bằng lựu đạn với kẻ thù. Sáng sớm ngày 9/3/75, Thiếu Tá Trần Ngọc Toàn TÐT/TÐ4/TQLC điều động toàn bộ lực lượng còn lại, nhờ có sự yểm trợ thật chính xác của các phi vụ A-37 thuộc không lực vùng I chiến thuật, ta đã hoàn toàn làm chủ tình hình. Xác địch nằm ngỗn ngang trong các bãi mìn của hàng rào phòng thủ, một số đồng bọn khác đang lẫn tránh trong các bụi rậm bị ta bắt sống. Cũng cùng trong đêm đó, tại một nơi khác, tiểu đoàn 121/ÐPQ Tiểu Khu Quảng Trị đã tóm nguyên trung đội địch khi chúng tìm cách tiến về hướng quận Hương Ðiền. Ngày 22/3/75, đoàn xe tiếp tế cuối cùng của đơn vị rời hậu trạm Măng Cá, Huế vào vùng hành quân. Chúng tôi được biết hầu hết dân chúng đã di tản vào Ðà Nẵng và hậu trạm cũng được Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn mang tất cả trang thiết bị về cửa biển Thuận An chờ lệnh.
Tôi chỉ thị cho các đại đội thu gọn lại các trang bị và phải gấp rút di tản các thương bệnh binh đi theo chuyến tiếp tế này. Ngày 23/3/75 vào lúc 3 giờ chiều, sau khi VC đồng loạt pháo kích dữ dội vào tất cả các vị trí, địch từ thượng lưu sông Bồ, xung phong tấn công vào các tuyến của ÐÐ2/TÐ5/TQLC, vì quá bất ngờ và thiếu cảnh giác nên 2 Trung đội tận cùng cánh trái của đại đội này bị bung tuyến. Tôi liên lạc với Ðại-úy Trần Văn Loan ÐÐT hãy cố gắng gom con cái lại và chỉnh đốn đội hình, đồng thời báo cáo tình hình này về BCH Lữ-đoàn. Ðại Tá Lữ đoàn trưởng ra lệnh là bằng bất cứ giá nào cũng phải chiếm lại vị trí vừa mất.
Chấp nhận mọi hy sinh thiệt hại, ÐÐ4 của Ðại-úy Nguyễn Văn Hai được tăng cường và đã hoàn tất nhiệm vụ vào lúc 6 giờ sáng ngày 24/3/75. Cũng trong thời gian này, hầu hết tất cả các đơn vị Biệt Ðộng Quân, Ðịa Phương Quân tự động rã ngũ bỏ tuyến phòng thủ Bắc Quảng Trị kéo về Huế thật hỗn độn. Thị xã Quảng Trị coi như bị bỏ ngõ hoàn toàn. Tiểu đoàn 4/TQLC được điều động về làm nút chặn tại phía Nam cầu An Lỗ. TÐ7/TQLC trấn dọc sông Mỹ Chánh từ cầu Vân Trình ra biển Ðông, phòng tuyến cao nhất phiá Bắc của miền Nam.
Khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, nhận dược lệnh về tham dự cuộc họp khẩn cấp tại BCH/LÐ. Ðại-tá Lương, LÐT cho chúng tôi biết rõ tình hình tổng quát và nhiệm vụ phải thi hành đêm nay là một cuộc di tản chiến thuật cho tất cả các lực lượng về cửa biển Thuận An, vùng đất từ Bắc đèo Hải Vân trở ra rồi sẽ lọt vào tay địch… Cũng như thành phố Quảng Trị bị vất bỏ một cách vô tội vào sáng hôm nay khi mới chỉ có một vài loại pháo kích lẻ tẻ đâu đó.
Thế là hết, còn gì đâu hào quang chiến thắng “Cờ bay, cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu vừa chiếm lại đêm qua bằng máu…” Máu của hàng vạn đồng bào, máu của hàng ngàn chiến hữu nằm xuống cho vùng đất hồi sinh và ngay bây giờ, từ tối nay Huế cũng sẽ chịu chung số phận. Cố Ðô đầy niềm kiêu hãnh tự hào dân tộc rồi sẽ bị nhuộm đỏ bởi lũ người khát máu CS. Hàng trăm nấm mồ chôn sống tập thể còn đó, máu xương mồ hôi nước mắt của bao chiến sĩ QLVNCH còn đây trong lời thề quyết tử bảo vệ cố đô Mậu Thân 1968. Còn đâu nữa những ngày tháng vàng son nhất của người lính chiến nơi tuyến đầu lửa đạn lúc nào cũng hùng dũng hiên ngang. Có nỗi đau nào hơn niềm tủi nhục của người lính bại trận!
Việc cần thiết trước nhất là phải làm sao bảo đảm được đơn vị rút lui một cách trọn vẹn, an toàn hầu đủ sức chịu đựng một cuộc dạ hành trên đoạn đường dài gần 30 km. Thiếu-tá Ngô Thành Hữu, Tiểu đoàn phó và Ðại úy Gianh Văn Nhân, ban 3 đang chờ đợi tại BCH Tiều đoàn. Chúng tôi cùng đồng ý với nhau bằng một cuộc lui binh trong bí mật, bất ngờ. Tất cả vũ khí nặng, cồng kềnh như 90 ly, súng cối 81 ly, hỏa tiễn TOW chống chiến xa, đạn dược và những trang bị nặng nề được lệnh phá hủy tại chỗ hay ném xuống dòng sông. Ðại đội 1 của Ðại úy Hồ Văn Chạnh đóng chốt từ xa được di chuyển trước, chúng tôi không xử dụng đoạn đường quen thuộc hàng ngày, phải băng qua một xóm nhỏ để đến cây số 17 cầu An Lỗ mà là dọc con đường sắt suôi Nam, rồi sau đó sẽ đổi hướng vế quốc lộ 1 khi các đại đội đã bám sát được với nhau. Ðã có chừng cả trăm người lính đủ mọi binh chủng, không còn đơn vị đang tụ tập vây quanh 4 chiến xa M-48 nằm chơ vơ giữa lộ, nòng súng chỉa thẳng về hướng quân thù, bình thản cười nói vui vẻ như đang tham dự một cuộc dạ hành ngoài trời. Ðến trường trung học Hương Trà nằm sát lề Ðông quốc lộ, tiểu đoàn dừng lại để kiểm điểm quân số và củng cố lại đội hình. May mà trong tay chúng tôi còn 1 xe Jeep hành quân, cứ thế chạy lên, chạy xuống để “tha” những người lính bết bát, trễ nãi sau cùng. Ðiều tưởng như không ngờ, thế mà đã xảy ra một cách thật tội nghiệp cho trung đội Nghĩa Quân quận Hương Trà, tập họp và bị bỏ quên tại đây chờ lệnh thượng cấp từ mấy ngày nay. Người trung đội trường già đến xin tháp tùng cùng chúng tôi. Vài chiếc xe M41 nữa cũng bắt đầu nổ máy rầm rộ tiến giữa đoàn quân. Nhiều đám đông dân chúng hòa lẫn hoặc nối đuôi phía sau họ ra đi từ chợ Cạn, Hội Yên, Vân Trình, Hải Lăng, Mỹ Chánh… từ ngày hôm qua hay sớm hôm nay vì không còn gì để hy vọng vào sự bảo vệ của người lính chúng tôi.
Tiếng khóc than vang vọng thấu trời xanh, họ, những kẻ bất hạnh, còn lại sau cùng đang lê lết từng bước một lần mò tìm “tự do” vì một cuộc chủ nghĩa cộng sản bạo tàn. Vài cụ gìà chống gậy, các trẻ thơ vô tội kia rồi sẽ ra sao? Liệu có còn đủ súc hay phải kiệt hơi ngã qụy dọc đường.
Rời ngã ba An Hòa rẽ phải tiến về Huế, thành phố bỏ ngõ tối tăm rải rác còn lại vài bóng bên đường. Nhiều vết lửa tung tóe lên bầu trời u tối do những trái sáng dược ném từ các toán lính tan hàng mất đơn vị chẳng biết phải làm gì. Súng vẫn nổ lẹt đẹt đó đây hòa lẫn tiếng chó tru vọng ra từ các căn nhà vắng chủ. Phú Văn Lâu vẫn nằm đây bên bờ sông Hương, nhưng còn đâu bóng dáng các con đò quen thuộc hàng ngày. Tiều đoàn bắt đầu tiến quân qua chiếc cầu đúc mới xây bên dưới bến bờ Nam dòng sông, rồi từ đó quẹo trái về Ðông, hướng ra biển. Tôi cho xe dừng lại ở phía bên này cầu chờ đợi cho hết người lính sau cùng. Cảm thấy khá an tâm và một chút hãnh diện về những binh sĩ thuộc quyền, tất cả đều can đảm, hy sinh chịu đựng và luôn tuân lệnh cấp chỉ huy ngay trong những giờ phút nguy hiểm nhất như lúc này.
Tôi không nhớ là bao nhiêu lần mình đã nhân danh thẩm quyền để mà ra lệnh cho thuôc cấp xung phong vào chỗ chết. Với 12 năm trong cuộc đời binh nghiệp, con số này chắc không ít lắm đâu? Dĩ nhiên là cấp chỉ huy nhỏ, tôi cũng chỉ là kẻ truyền và kiểm soát lệnh và cá nhân mình cũng bị xoay quanh trong các vòng luẩn quẩn ấy! Vài con gió mạnh thổi từ mặt biển vào, cũng nơi đây cây cầu, dòng sông một thời kỷ niệm, tôi bỗng cảm thấy luyến tiếc thèm khát tìm gặp lại một vài nơi chốn quen thuộc lần cuối may ra hình ảnh cũ để nhớ người xưa! Cho tài xế lùi xe lại tiến về hướng đại lộ Trần Hưng Ðạo và dự định theo cầu Trường Tiền cũ qua sông. Ðường trống vắng chẳng có một chiếc xe nào lai vãng, xa xa trong bóng tối chập chờn, lác đác vài bóng người. Tôi bắt đầu cảm thấy ớn lạnh. Bây giờ ngoài đơn vị TQLC ra, các đơn vị khác chẳng còn gì nữa để mà phân biệt lẫn nhau, qủa thật chẳng còn tình nghĩa gì ràng buộc, nếu có ai đó nổi hứng “bóp cò”.
Có lệnh cho tôi tiến về phía trước để gặp Ðại Bàng Long Mỹ (Ðại tá LÐT), ông giao cho một xấp bản đồ và thay đổi lộ trình về phía phà Tân Mỹ, đoạn đường từ đầu thôn Vỹ Dạ về cửa biển Thuân An không thể nào nhúc nhích nổi, nhiều dòng người di tản cùng các đơn vị tan hàng đổ về đây với không biết bao nhiêu xe cộ. Thượng sĩ Thương, thường vụ tiểu đoàn, chẳng biết từ đâu mang về vài két bia 33, có lẽ từ khách sạn Hương Giang bỏ trống? Anh nói với tôi:
– Nhậu đi Ðại Bàng, đang buồn ngủ mà gặp chiếu manh.
– Thôi nhanh lên mà đi ông ơi! Non nước này mà còn nhậu với nhẹt!
Từ hướng quán cơm Âm Phủ, một người đàn ông già trạc 60 tuổi tìm đến phàn nàn về một số lính vào đập phá, lục lạo nhà của ông ta.
– Coi chừng Việt cộng đó Ðại Bàng.
Thử hỏi ai mà biết được ai trong thời buổi tranh tối, tranh sáng này, ngay cả toán lính đập phá kia – có điều tại sao trong hoàn cảnh như thế này mà ông ta là kẻ dửng dưng như vậy!
Qua khỏi cầu Ðập Ðá một quãng nữa, bắt đầu rẽ phải vào con đường đất, thôn Vỹ Dạ chìm đắm trong màn đêm u tịch, đó đây leo lét nhiều ngọn đèn dầu từ khắp các miếu thờ, vết tích vàng son của một thời vua chúa. Chó càng lúc càng sủa vang bên những khu vườn trống vắng, đoàn quân vẫn tiến đều. Ðến khúc lộ bị hư, đành phải vất bỏ xe lại dọc đường.
– Phá hủy xe đi ông thầy.
– Không cần, mình đang di chuyển, không nên gây tiếng nổ.
Lẩm bẩm trong miệng, Liên, tài xế mò vào túi quần lấy ra con dao, cắt hết tất cả dây trong đầu máy xe và quăng bình điện vào một bụi rậm gần đó. Anh cũng không quên hốt thật nhiều cát bỏ vào bình xăng và nói:
– Ai ngu để cho lũ ác ôn xử dụng, mình không dùng, phá hư luôn…  hì… hì…
Ðến tờ mờ sáng thì toàn thể đơn vị đã có mặt bên này phá Tam Giang mênh mông, nềm vui rạng rỡ trên mặt mọi người. Phải mất thêm 3 tiếng đồng hồ nữa mới đến được bờ bên kia sát biển bằng một số “ghe gọ” của dân còn lại ở xóm chài. Từ lâu mới có một ngày nắng đẹp như hôm nay, bầu trời trong xanh với nhiều tia nắng long lanh chiếu vào mặt biển. Gió vi vu vừa đủ để mơn trớn các con sóng vỗ ì ạch vào bờ. Không còn gì thích bằng ngồi đây, dưới bóng râm của hàng dương xanh thẩm, trên đồi cát, hướng mắt về đại dương bao la, nơi đó nhấp nhô nhiều con tàu như người tình mơn trớn hưá hẹn. Ăn vội ít cơm ở bao gạo sấy còn lại, trong chớp mắt chập chờn, tiếng la khóc, than van còn mãi ám ảnh trong trí tôi trên đường rút chạy sáng hôm nay.
Cuộc đời khổ đến thế là cùng! Tỉnh giấc khi có lệnh cho đơn vị chuẩn bị ra bãi bốc để lên tàu. Ðó là khoảng 2 giờ ngày 25/3/75. Cả Lữ Ðoàn tập họp trên bãi cát trắng xóa theo thứ tự sẵn sàng như một cuộc hành quân đổ bộ ngày nào. Ðâu phải chỉ việc sắp hàng chờ lệnh lên tàu là xong, địch đã rượt theo ta đêm hôm qua, đã mò sát đít chúng tôi sáng hôm nay, địch đã có mặt bên kia bờ phà, địch đã trà trộn trong đòan quân. Theo lệnh của mặt trời Papazulu nào đó (Tướng Lâm Quang Thi, TLP/QÐ1!!!), chiếc HQ-801 dành riêng cho TQLC đã chực sẵn cách bờ khoảng 50m. Nhưng đâu phải chỉ có chúng tôi cần sống, còn dân chúng, những người lính mất đơn vị hỗn độn kia, họ cũng cần cứu vớt như chúng tôi, mà chẳng ai có kế hoạch gì riêng để giúp đỡ họ.
Trong cơn quẫn bách này, không ai cần nghĩ đến ai, chà đạp tranh giành nhau mà sống, mạnh được yếu thua, khi con rắn đã mất đầu chỉ còn lại cái đuôi tha hồ mà ngóc nguẩy. Như sức bật của chiếc lò xo, tất cả ùa nhau tràn ra tàu, người không biết lội ôm sát người biết bơi, ngụp lặn với tử thần trong sóng nước, vài chiếc xe M-113 lội nước ủi tới đè lên, tiếng rên la gào thét. Một sơn sóng nhồi lên, hai cơn sóng đập xuống, những cái đầu lô nhô, nhiều thân hình chìm lịm, mất hút trong khi con tàu vẫn nổ máy đợi chờ. Ðịch đã vượt phá Tân Mỹ, đã có mặt ở cái miếu trên đồi cát đầu làng. Ðịch đã bắt sống một số lính phía sau, địch bắt đầu pháo rải rác khắp nơi trên mặt biển.
Bãi bốc đã không còn an ninh mà trật tự cũng chẳng có. Con tàu đành bất lực rời bến. Ðể được an toàn hơn, Lữ Ðoàn quyết định dời bãi bốc về hướng Nam và bằng đủ mọi cách phải tách rời đám đông hỗn loạn kia hầu dễ dàng đối phó với tình hình mới. Dọc theo mé nước đầy rẫy xác người, những bộ mặt nhợt nhạt, bất động, ngừng thở theo cơn sóng biển dập vùi, có lạ, có quen. Người dễ nhận ra nhất là Ðại úy Ân, ÐÐT/ÐPQ Tiểu khu Quảng Trị.
Chúng tôi đã di tản chiến thuật bằng con đường máu ở mặt trận Hạ Lào 1971, đã rời bỏ Ðông Hà, Quảng Trị dọc đại lộ kinh hoàng mùa hè đỏ lửa năm 1972. Với sự nguy hiểm cùng cực nhưng tinh thần đâu có quá tuyệt vọng như bây giờ vì dù sao cũng còn chút gì để hy vọng ở đoàn quân tiếp tế phiá sau. Còn ở đây rơi vào tình thế vô cùng tuyệt vọng. Cả nguyên Lữ đoàn có hơn 3000 quân, tiến thoái lưỡng nan trong cái túi càn khôn chỉ vỏn vẹn 4 km 2, đang gìơ lưng chịu trận. Tàu chiến Hải Quân QLVNCH vẫn trương cờ lảng vảng ngoài khơi, nhưng các khẩu đại bác đâu rồi?! Niềm hy vọng mong manh còn nhen nhóm là sẽ được tàu vào đón, nhưng sẽ ưu tiên theo thứ tự nào? Ðơn vị nào sẽ phải nằm lại chịu trận và làm vật hy sinh sau cùng? Bóng chiều bắt đầu trải dài trên bãi cát trắng xóa mênh mông để báo hiệu màn đêm buông xuống. Lữ Ðoàn quyết định rải quân phòng thủ. TÐ4 và 7 phụ trách mặt trận Tây, TÐ3 phía Nam, TÐ5 chúng tôi phía Bắc. Ðại uý Tô Thanh Chiêu, ÐÐT/ÐÐ2 và Thiếu tá Nguyễn Trí Nam TÐP/TÐ4/TQLC đã hy sinh trong giờ phút thứ 25 này cùng một loạt đạn của tên du kích hèn nhát bắn lén trong khi làm nhiệm vụ điều động quân rải tuyến. Ðiều đáng thương tâm nhất là hai người vừa mới lập gia đình và cả hai bà vợ đang mang thai. Cái chết thật quái ác, tình cờ bởi bàn tay oan nghiệt của tạo hóa, định mệnh!
Tin từ BCH/LÐ cho biết là tàu sẽ vào đón đêm nay hay trễ nhất là sáng sớm ngày mai theo thứ tự như sau: BCH/LÐ, TÐ2PB, TÐ4, TÐ3, TÐ5, TÐ7… Ðúng theo sự suy nghĩ dự đoán của chúng tôi, lẽ dĩ nhiên các đơn vị tan hàng hay bị sứt mẻ không còn khả năng chiến đấu thì ưu tiên mang họ đi càng sớm càng tốt để không làm vướng bận các đơn vị còn lại. Nhưng cả BCH/LÐ đi hết thì ai sẽ là người chỉ huy chúng tôi. Ðiều này thật cần thiết và quan trọng nhất. Cái thứ tự di chuyển mà không một binh thư nào viết ra hoặc chúng tôi chưa hề áp dụng trước đây.
Qua ánh trăng mờ ảo, dòng người bị bỏ lại ban chiều đang ồ ạt kéo về tuyến phòng thủ. Không còn cách gì hơn là phải chận họ lại nằm sát phòng tuyến trong tầm bảo vệ hỏa lực để khỏi làm xáo trộn cho sự điều động chỉ huy của quân bạn bên trong. Súng vẫn nổ đều khắp nơi và chẳng có con tàu nào cập bến. Trăng vẫn lên cao, khuya dần. Cùng lúc, vài tốp người xé lẻ, hèn nhát tách bến rã ngũ ra khơi.
Rạng sáng ngày 26/3/75, khi ánh bình minh vừa ló dạng ở phương Ðông thì con tàu cùng thủy thủ đoàn cũng bắt đầu tiếp tục nhiệm vụ, ủi thẳng vào bờ theo sự điều động của BCH. Ðã có chuẩn bị sắp xếp từ trước, nên việc di chuyển lần này tương đối trật tự hơn. Ưu tiên vẫn là BCH/LÐ và các thương phế binh từ các đơn vị mang đến. Ðịch thừa thắng xông lên cố ra sức đánh vào đầu chúng tôi những đòn thù chí tử. Ðây là điều nghiệt ngã nhất của chiến tranh, có vay có trả. Chúng tôi đã diệt gọn nguyên trung đoàn 48 địch một cách không thương tiếc khi quét sạch chúng ra khỏi hang cuối cùng tại cổ thành Quảng Trị. Những vòng sắt oan nghiệt của đoàn chiến xa M48 và M41 đã nghiền nát vô số lính cộng sản Bắc Việt, sinh Bắc tử Nam, qua các dãy địa đạo ngầm trong hầm khi tấn công tiến vào cửa Việt.
Pháo địch cùng lúc càng mãnh liệt hơn và chiếc tàu nằm chình ình giữa biển khơi vẫn là mục tiêu tốt nhất để chúng điều chỉnh tác xạ ngắn, dài… Một cục lửa, hai cục lửa, rồi quá nhiều cục lửa của loại hỏa tiễn tầm nhiệt AT3 rải rác đó đây. Có cái rớt ngay dòng người di tản ngụp lặn theo sóng nước. Có cái trúng thẳng vào thân tàu. Con tàu chòng trành nhổ neo tách bến.
Ðể bớt căng thẳng, tôi chui ra khỏi hố trú ẩn làm một vòng quanh tuyến. Những vệt sáng của lằn đạn đạo thẳng cùng nhiều quả đạn pháo kích đan chéo nhau vi vút trong gió biển. Các khẩu súng cối 60 ly và phóng lựu M79 của ta đáp lễ cầm chừng, không khả năng nhiều lắm nhưng cũng để chứng minh rằng “bên em vẫn đang có ta đây!” Dọc theo mé nước sát biển, thầy trò Thiếu tá Võ Ðằng Phương, TÐT/TÐ2/PB/TQLC, Ðại uý Lê Tự Hào cùng một vài người lính đang gấp rút xử dụng các mũ sắt của mình để cào cào moi hố. Họ là những người sau cùng bị sót lại khi hầu hết đơn vị mình đã được lên tàu.
– 207 đây 416 gọi. Anh ở lại take care con cái.
– Vâng! Nhận rõ.
416!207 là biệt hiệu của Thiếu tá Phạm Cang TÐT/TÐ7/TQLC, người thâm niên và giỏi nhất trong đoàn bạn tôi. Còn 416 là danh xưng của Trung tá Nguyễn Ðằng Tống LÐP/LÐ147.
Nắng chiều nhạt dần, sóng biển rì rào và bờ cát lại trống vắng đến lạnh lùng, không còn một bóng người lai vãng, họ đang chiến đấu ở tuyến đầu, họ tránh núp đạn dưới hố sâu, họ hối tiếc, thèm thuồng về một con tàu khác. Các đại đội lại thêm một số bị thương, lại thêm vài người chết nữa. Ðạn dược, lương thực cạn dần trong khi chúng tôi cố hết sức giữ vững tinh thần binh sĩ bằng cách liên lạc máy thường xuyên với các đại đội. Cảm giác bị vất bỏ bắt đầu nhen nhúm trong ý nghĩ mình, nhưng tôi vẫn chưa dám tin rằng điều này có thật, vì nếu như vậy thì còn thể thống gì đến quân đội và tổ quốc mà biết bao người đã hết lòng yêu thương và phục vụ. Mò mẫm vào cuốn đặc lệnh truyền tin, tôi vận máy qua tầng số BTL/SÐ đang ở đâu trên đèo Hải Vân, với trạm liên lạc chuyển tiếp giữa Huế và Ðà Nẵng. Người tiếp tôi là Ð/U Ðan, tùy viên tư lệnh:
– Ðại Dương, cho tôi xin gặp Lạng Sơn (biệt danh của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SÐ/TQLC).
– Lạng Sơn đang bận lắm. Có gì ông anh nói, tôi sẽ chuyển.
– Nhờ Ðại Dương trình với Lạng Sơn cho chúng tôi lệnh kế tiếp.
– Ở đây cũng đang lu bù lắm, không ai có thể giúp gì được cho ông anh. Tốt hơn hết là self-service. Good luck ông anh!
Mặt mày tối tăm, xây xẫm, thất vọng, tôi ném ống liên hợp xuống cát… self service… có nghĩa là tự lực cánh sinh, tùy cơ ứng biến, có thể là mạnh ai nấy lo, có thể là tan hàng!
Khoảng quá xế trưa, mặt trời Papazulu lại xuất hiện bằng một giọng thật đanh thép, ông ra lệnh cho một chiếc HQ khác, bằng bất cứ giá nào cũng phải bốc tiếp chúng tôi. Con tàu lại tách sóng hướng thẳng vào bờ phiá Bắc tuyến phòng thủ chừng 200m. Lần này, TÐ4 sẽ lên tàu dưới sự sắp xếp chỉ huy của Thiếu tá Ðinh Long Thành, tân TÐT của đơn vị này. Bất kể là đơn vị nào, bất cứ là ưu tiên cho ai, thật nhiều đám người từ mọi hướng đổ ập về đây tràn xuống như thác lũ. Con tàu quá tải tròng trành trên mặt nước, chân vịt ngưng quay nằm bất động vì máy đã hỏng rồi. Lại thêm một đêm nữa rồi sẽ đến với tình thế mỗi lúc một tồi tệ hơn. Phải quyết định ngay bây giờ, nhưng giải quyết bằng cách nào đây? Tôi gọi HS1 Lê Hồng Quảng Nam, người cận vệ thân tín nhất đến, sau khi đã cạo nhẫn bộ râu của mình, chính nhờ nó mà tôi đã ăn nên làm ra trong đời binh nghiệp và được giấy phép của bộ TTM cấp hẳn hòi với lý do: “Uy tín cấp chỉ huy”.
– Anh chuẩn bị cho tôi một ít nước uống và vài gạo sấy để phòng thân.
Nam do dự mếu máo:
– Ông thầy đừng bỏ tụi em, có gì cho tụi em theo với. Thuận, Thành hai hiệu thính viên cũng oà lên khóc.
– Yên trí, thầy trò mình sẽ sống chết có nhau mà.
Ðầu óc tôi cứ mãi bị ám ảnh bởi lời đề nghị của Ð/U Ðan là ông anh nên “self service”. Nhưng chuyện này cũng có 5, 7 cách khác nhau. Hãy tìm một vài người lính thật khỏe mạnh, bơi nhà nghề, mà phải là dân chuyên đi biển ở Nha Trang hay Phan Thiết, mò vào nhà dân hay dọc theo mé nưóc, tìm sẵn một chiếc ghe thật tốt, chuẩn bị sẵn sàng, thừa nước đục thả câu sẽ cùng bỏ trốn như loài chuột. Nhưng cũng chẳng phải dễ dàng lắm đâu! Chúng tôi sẽ bị bắn chết bởi đồng đội trước khi nạp mình cho bầy cá mập, hay là tuyên bố hoạch toẹt rõ ràng, đơn vị tan hàng, mạnh ai nấy lo, đâu phải lỗi ở mình. Ðiều này quá trắng trở và trắng trợn, chẳng còn tình nghĩa gì. Nếu còn sống làm sao dám nhìn lại mặt nhau như Hai Chồn, Pake, Loan Mắt Nhung, Chanh Trọc, Ba Ngành, các ÐÐT lương đen lì lợm, nhậu rượu như uống nước mà đánh giặc rất chí tình. Tôi liên lạc máy với Thiếu Tá Cang TÐT/TÐ7 cùng Thiếu Tá Sử TÐT/TÐ3, chúng tôi cùng đồng ý với nhau là chẳng còn cách nào khác hơn, mở đuờng máu xuôi Nam về cửa biển Tư Hiền còn nước, còn tát.
Nói là mở đường máu chứ thực ra chỉ là cách thối thác cho một sự tan hàng, đường về bít lối, vì nếu có trầy da tróc vẩy đến nơi thì cũng chỉ là vùng trời mây nước mênh mông, ngồi đó chờ nộp thịt cho chằng. Di chuyển cũng theo thứ tự lớp lang, nhưng đội hình chẳng còn. Sức mòn, lực kiệt, súng cầm tay, tinh thần đã mất, đạn dược cũng không, cứ nhắm mắt nhắm mũi mà chạy 1,2,3,4… 1,2,3,4 “đường trường xa con chó nó tha con mèo….” càng xa địch bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Nhiều tiếng nổ chát chúa phía sau, của địch thì ít mà của ta thì nhiều. Những người lính bị thương không còn khả năng theo kịp đoàn quân, bò lết lại với nhau, bung chốt lựu đạn nổ để “thà chết vinh, còn hơn sống nhục”. Ðứa con đầu của TÐ3 Sói Biển đang bị một đại đội du kích chận lại, phía trước ùa về, ở sau đùn tới, vô vọng, tuyệt vọng, chưa bao giờ tôi cảm thấy thèm sự sống bằng lúc này, miệng luôn luôn lẩm bẩm xin Phật Trời giá hộ “cùng tắc biến, biến tắc thông”.
Nhóm chúng tôi gồm 5 người tấp vào xóm dân chài, hy vọng sẽ được giúp đỡ bởi tình quân dân cá nước ngày nào, nhưng hiện tại quân đã tan thì tình cũng chẳng còn, mặc dầu đã cố gắng nài nỉ hết sức kể cả tiền bạc thuê mướn, nhưng họ đã từ chối thẳng thừng. Chủ ghe là gã trung niên lực lưỡng, mặt rỗ hoa mè chắc là tên Việt cộng nằm vùng hay du kích gì đó. Thôi thì “tam thập lục kế”, kê súng vào đầu dọa nạt là thượng sách nhất.
Ðây là lần thứ hai tôi chạy giặc, lúc nhỏ vào lúc 5 tuổi theo mẹ trốn vào rẫy mỗi lần “mới sớm mai thằng Tây nó bố vào rừng ta quyết trốn”. Và bây giờ sau 26 năm khi đã trưởng thành trong quân ngũ… vẫn còn súng đạn trong tay cùng những chiến hữu bạn bè, tôi phải chạy trốn giặc cộng, thằng chủ ghe đang ngồi với tôi bây giờ là một tên VC chín rõ mười mươi, hắn phá máy cho ghe ngừng, hắn làm dấu chỉ điểm mỗi lần kề sát ghe địch. Nhiều người dọa đánh hắn tại chổ, tôi ngăn không cho, chuyện gì rồi cũng phải tính đường về, nếu nhỡ thì sao!
Chỉ vỏn vẹn mấy ngày phù du mà bao điều biến đổi dồn dập bất ngờ, không biết số phận của tôi và bao nhiêu người khác nữa rồi sẽ ra sao khi ánh bình minh của một ngày mới xuất hiện, Hy vọng sống còn chỉ là việc hiếm mọn nhỏ nhoi trong cái chết xảy đến mới là điều chắc chắn.
Tờ mờ sáng hôm sau, sau khi đã cạn hết nhiên liệu, chiếc ghe đành nằm chênh vênh trên mặt nước mênh mông vùng Tư Hiền, giữa rừng cờ giặc. Xa xa là những dãy núi chập chờn xanh thẳm của đỉnh đèo Hải Vân như réo gọi, mời mọc, thèm thuồng, tiếc rẻ. Và như số phận đã an bài, nhưng rồi cũng có lúc “chí tuy còn mong tiến bước mà sức không kham nổi đọan đường dài, sự nghiệp bao năm đeo đuổi thôi cũng đành gián đoạn từ đây… bởi đâu? do đâu? vì đâu?.
Giã từ vũ khí, ném súng xuống dòng sông định mệnh, ngồi chờ địch đến đổi đời lịch sử sang trang. Chúng tôi bị trói tay lùa lên bờ. Chúng tôi bị “giải phóng” tất cả quần áo, đồng hồ, dây chuyền, đồ đạc. Một vài người bị dẫn đi xử bắn dã man. Chúng tôi bị xỉ vả, đấu tố làm tay sai cho đế quốc. Chúng tôi không còn là chúng tôi nữa, chỉ vì chúng tôi là chiến sĩ QLVNCH bảo vệ miền Nam Tự Do, bị bỏ rơi lại phía sau thề sống chết thủy chung và chiến đấu hết mình. Cuộc đời tù đầy của vài ngàn quân cũng bắt đầu từ cái ngày đáng nhớ ấy… 27/3/75 tại một địa danh nhỏ, hẻo lánh, quen thuộc: thôn Vĩnh Lộc, Thừa Thiên, Huế ngay trên tổ quốc thân yêu của chúng tôi…
Mũ Xanh Phạm Văn Tiền

22/8/11

Trở Lại Xứ Lào: thăm Tam Giác Vàng


Thursday, August 5, 2010


Phạm Đỗ Chí

Đã mười năm qua, tôi trở lại xứ này giống như quê hương cũ. Đây rồi vài khuôn mặt da vàng xạm đen quen thuộc giơ tay vẫy với câu chào địa phương dễ thương “Sa bài đi”. Phi trường Wattay mới làm xong cách đây vài năm trông tân kỳ hơn xưa rất nhiều cho cảm giác của sự tiến bộ. Ngoài những ngôi nhà nhỏ đổ nát, Vientiane có nhiều ngôi nhà gạch với kiến trúc cầu kỳ từ thời Pháp thuộc được sửa lại sừng sững uy nghi trong thành phố. Sự khác biệt nổi bật là những đường chính đều được làm lại đẹp và sạch, không có cảnh đường đất bụi mù như cách đây mười năm.

Chiếc taxi quẹo vào con đường đại lộ chính, được mệnh danh là “Champs-élysées”, giờ đây được trang điểm thêm một hàng đèn dài thật đẹp dẫn từ Phủ Tổng Thống đến “Arc de Triomphe” của Vientiane và một số chùa Phật giáo nguy nga. Khu phố này được xây lại mong gợi cảnh đại lộ hoàng hôn tráng lệ của Paris. Điều đặc biệt là có thêm vài ngôi chùa lớn đang xây, các đền chùa cũ đều được tô điểm lại mới và sáng chói mầu sơn son thếp vàng, cho thấy dân Lào rất sùng kính đạo Phật, chăm sóc chùa chiền dù trong cảnh kinh tế khó khăn phải thắt lưng buộc bụng, mức sống chung vẫn cơ cực và nhà cửa trong thành phố phần lớn vẫn mang vẻ nghèo nàn xưa.
Buổi sáng sau hôm đến, tôi dậy sớm dự một lễ địa phương lớn và hội chợ Thát Luồng. Đây là lễ hội tôn giáo hàng năm lớn nhất tại thủ đô với buổi lễ truyền thống Phật giáo tại điểm du lịch nổi tiếng nhất của thành phố: Thát Luồng (mang ý nghĩa là “Cái Tháp Của Mọi Người”). Từ 6 giờ sáng mọi người đã ăn mặc quần áo đẹp đem hương hoa và thức ăn đến cúng dường các vị sư, từ các bậc cao tăng đến những chú tiểu đã từ mọi nơi về tụ họp ở Viêng chăn. Buổi lễ được cử hành rất trang trọng với sự có mặt của các nhà lãnh đạo chính phủ trong lễ dâng hương truyền thống mở đầu, tiếp nối bởi tục lệ rất đẹp là dân chúng quỳ xuống dâng thức ăn gồm cả chay lẫn mặn (theo quan niệm Tiểu thừa Phật giáo) bỏ vào bình bát của các nhà sư ngồi dài theo các bờ tường với màu áo cà sa vàng rực rỡ khắp vùng đất thiêng này. Hội chợ được tổ chức khá thành công và làm tăng thêm không khí tưng bừng của lễ hội, cho thấy sự an vui phấn khởi và nếp sống thanh bình của nhiều tầng lớp dân chúng xứ Lào vốn mang danh là hiền hòa trong mắt du khách.

Thăm khu tam giác vàng
Ở Lào hai lần, lần trước trên bốn năm và lần này, tôi vẫn nghe nhiều huyền thoại về khu tam giác nổi tiếng này. Với ba cạnh tam giác gồm các nước Thái Lan (cạnh nơi tôi đang đứng nhìn), phía tay phải là cạnh do nước Lào và tay trái là cạnh do nước Miến Điện (trước là Burma nay đổi là Myanmar). Tôi vẫn ngần ngại không dám đến vì nghe nói từ nhiều năm trước đây là vùng hoạt động náo nhiệt của tổ buôn thuốc phiện và cần sa cũng như vũ khí. Đặc biệt là huyền thoại về một tay người Miến –Khun Sa-- trước đây đã lập một đại bản doanh gồm cả ngàn quân canh khu sản xuất chế biến thuốc phiện ở Mea Sa và là nguồn cung cấp khối lượng cần sa chính cho Tam Giác Vàng để bán sang các thị trường Âu Mỹ qua các nước Lào, Campuchia và Thái Lan. Nhưng bây giờ vì tuổi già tay đó đã chính thức đầu thú với chính phủ Miến và hiện được cung cấp một khu biệt thự lớn ở ngay thủ đô Yangon để “an hưởng tuổi vàng” với gia tài là khối vàng và tiền bạc tích tụ kếch sù. Từ đó các hoạt động sản xuất buôn lậu thuốc phiện cũng bớt đi và khu này đã từ từ được biến thành khu du lịch gồm vài khách sạn ở biên giới phía Thái Lan và khách sạn Paradise Resorts ở biên giới phía Miến Điện được chiếu cố thường xuyên vì có sòng bài “Casino Golden Triangle” được chính phủ Miến cho phép mở với nguồn vốn Thái Lan. Còn phía kia của Lào thuộc tỉnh Bokeo vẫn chưa có khách sạn hay đường sá mở mang.

Sông Mekong tại khu Tam Giác Vàng, phía bờ Thái Lan.
Vài hôm sau dịp cuối tuần, mấy người bạn Lào cho biết có quen một nhóm doanh nhân từ Malaysia định sang khảo sát vùng này để xin mở casino lớn ở vùng biên giới Lào và rủ tôi đi cùng xem cho vui. Tôi mừng rỡ gia nhập nhóm này vì từ lâu muốn đặt chân đến xem “miền đất huyền thoại” này. Chúng tôi khởi hành từ 7 giờ sáng ở Vientiane lái xe vượt chiếc cầu sang vùng biên giới Thái ở Nongkhai rồi đi Udon Thani, trực chỉ phía Tây Bắc về hướng Chieng Rai là đỉnh địa đầu của Thái Lan tiếp giáp Tam Giác Vàng, đi thêm 40 cây số nữa là đến vùng ranh giới của ba nước. Chuyến đi cười nói khá vui làm quên đường dài trên 10 tiếng. Lúc đến khách sạn thì trời đã tối mặc dù mới hơn 6 giờ chiều.

Chúng tôi mặc áo ấm vì trời khá lạnh độ 15 0C, lấy xe bus đi 5 phút chuyển sang một chuyến đò đi thêm 5 phút nữa để vượt một nhánh nhỏ và cạn của con sông nổi tiếng Mêkông là sang đến bờ khách sạn Paradise Resorts của xứ Miến. Lúc đầu có hơi thất vọng vì trông khu này quá nhỏ và trời tối đen xì chỉ nhìn thấy khu rừng âm u dày đặc bên cạnh khách sạn và con sông chỉ có đoạn ngắn nhỏ. Sang đến khách sạn thì chỉ có vài phòng đánh bài nhỏ đông nghẹt nhóm khách Á châu ngồi đánh baccarat.

Nhưng buổi sáng thức dậy, nhìn từ hàng hiên phòng khách sạn mới thấy vẻ đẹp thiên nhiên huyền bí của khu Tam Gíac Vàng này. Bên trái là khu rừng dày điểm thêm những rặng chuối, nhìn xa là những mái ngói đỏ của khu sòng bài xứ Miến và bên phải phía Lào chỉ có rừng núi cao nổi bật và hàng cây dài nằm bên kia dòng Mêkông nhiều chỗ đã cạn nước có thể đi bộ sang bờ xứ Thái. Cho thấy sự thiếu mở mang của Lào so với nước bạn láng giềng. Nhưng bây giờ với cố gắng của nhóm doanh nhân Malaysia này để xin một giấy phép mở casino mong thu hút thêm khách du lịch và tiền thuế do sòng bài mang lại, sự mở mang sẽ đến nhưng có phải trong chiều hướng mong muốn không?

Chế biến heo sữa quay từ thịt chuột cống

MADE IN TÀU CỘNG :
Chế biến heo sữa quay từ thịt chuột cống
*
Trên một số diễn đàn gần đây, hình ảnh những con chuột được biến hóa thành... heo sữa quay dưới đây khiến đông đảo độc giả thêm quan ngại về tình hình an toàn thực phẩm hiện nay. Tuy nhiên, căn cứ vào một số bức hình có thể thấy đây là những hình ảnh có nguồn gốc từ Tàu cộng

Bước 1, làm sạch nguyên liệu chuột!
Sau đó, ngâm 1 ít thuốc tẩy Javel cho da thịt của chuột thêm trắng tươi mơn mởn và lấy chùi xoong chà sạch sẽ nhé…


Phơi thịt Chuột cho ráo nước...


Chặt ra làm từng miếng nhỏ cho dễ nhìn bắt mắt và vừa ăn…
Ướp thêm 1 ít gia vị: hành, tiêu, tỏi, ớt mọi thứ 1 chút,cho nhiều bột ngọt để mất đi cái mùi của chuột


Bắt chảo dầu nóng, thật nóng, cho thịt chuột ướp sẵn vào chiên dòn…


Vớt ra ướp với nước sauce và chiên lại 1 lần nữa…
Và thế là bạn đã có món heo sữa Bắc Kinh từ chuột cống thơm ngon béo ngậy...
Dọn ra dĩa, và sắp xếp cho thật là bắt mắt như thế này...

Thế là đã có có món thịt chuột cống thật là ngon, không thua gì thịt heo sữa quay…

NGUYỄN CAO KỲ

NGUYỄN CAO KỲ ( bài 1)
Câu nói này hình như tôi nghe thấy quen quen. Thì ra, trước anh Liệu, đại úy Nhơn, đại úy Hưởng, đại úy Ngọc, Đại úy Huy phi đoàn tôi đã nói câu này quá nhiều “Sao mà tôi khổ với ông Thiếu úy này như thế….” Có lẽ thằng út này sinh ra suốt đời đi làm khổ Nghĩa Tử là Nghĩa Tận, viết về cái chết của NCK
Trường Sơn Lê Xuân Nhị

***
Như thế là mọi người đều đã biết, ông NCK đã về bên kia thế giới, hay nói văn hoa một chút, là đã tiêu diêu miền cực lạc, hay đã về Nước Chúa, hay nói một cách… không quân hơn, là đã cất cánh bay về một cõi trời vô định. Đây là lần đầu tiên tôi dùng tiếng “Ông” để gọi NCK kể từ khi ông ta về Việt Nam quỵ lụy và ăn mày bọn Việt Gian Cộng Sản. Tại sao tôi lại dùng tiếng ông như thế? Xin thưa, Nghĩa Tử là Nghĩa Tận. Ông Kỳ chết rồi, mình không nên làm nhục một cái thây ma, bôi nhục một xác chết, một đống thịt già … thầm lặng không còn khả năng để tự vệ cho mình. Người Quốc Gia mình hơn bọn Việt Gian Cộng Sản ở chỗ đó.

Nghe tin ông Kỳ chết, tôi chẳng vui mà cũng chẳng buồn. Chẳng vui bởi vì tôi biết NCK, giống như bạn, như tôi, trước sau gì thì cũng phải ngủm củ tỏi mà thôi. Dĩ nhiên, nếu NCK chết cách đây chừng 20 năm thì đã là một cái chết bình thường, lịch sử ngàn năm sẽ ghi NCK là một cựu Thủ tướng, cựu phó Tổng Thống của VNCH, dù chẳng làm được con mẹ gì cho tổ quốc ngoài việc ăn nhậu và phá thối, nhưng ít nhất cũng đã không phản bội anh em, bạn bè, chiến hữu. Tôi chẳng buồn vì thế giới này thiếu đi một thằng Việt gian như NCK thì là một chuyện mừng chứ không phải chuyện buồn.

Nghe tin NCK ngủm củ tỏi, tôi ngồi thừ, như đã nói, chẳng vui chẳng buồn, làm chừng chục lon bia và tự hỏi lòng mình, tại sao tôi lại khinh ghét NCK đến thế. Tại sao trong cả cái Quân Chủng Không Quân của tôi, anh hùng đầy dẫy, chỉ có mình tôi, một anh Thiếu Úy quèn, một thằng út nhỏ bé của phi đoàn 114, đứng ra chửi NCK, đại diện quân chủng Không Quân to lớn của tôi đi xin lỗi mọi người về cái hành động ô nhục của NCK. Và cuối cùng, tại sao, có vài người lại còn bênh vực NCK như thằng chó đẻ ĐVA và vài thằng không quân khốn nạn khác. (chúng  mày rồi sẽ biết tay tao.)

Trước hết, xin nói thật rằng, giống như bao nhiêu phi công trẻ của QLVNCH những ngày chưa mất nước, NCK ngày xưa là thần tượng của tôi. Tôi thích cái tính khí ngang tàng, hào phóng, có sao nói vậy của NCK. Dĩ nhiên, chúng tôi đều biết, NCK chẳng có đầu óc gì lắm, nói nhiều làm ít, nhưng tuổi trẻ là tuổi của tha thứ, hào hùng, chúng tôi chẳng để ý đến những chuyện này, thậm chí, còn nghĩ như thế mới là tốt, mới là… Không Quân.

Năm 1984, thành phố NEW ORLEANS tổ chức Lễ Thượng Kỳ, treo cờ Quốc Gia trước Tòa Thị Chánh thành phố, hội cựu quân nhân chúng tôi có mời NCK về tham dự. Chúng tôi đã tổ chức vô cùng chu đáo. Xuống phi cơ, Kỳ được mời vào phòng VIP và sau đó lên xe Limo, được cảnh sát với xe mô tô hộ tống chở về khách sạn sang trọng nhất thành phố nổi tiếng ăn chơi này. Ngày xưa Tào Tháo đãi Quan Công ba ngày một đại yến, mỗi ngày một tiểu yến, nhưng anh em chúng tôi đãi NCK mỗi ngày ba đại yến, luôn luôn có Cognac XO và sơn hào hải vị quý nhất của thành phố NEW ORLEANS do chính những anh em đi biển đem về.

Có lẽ kể từ khi sinh sống tại Mỹ, đây là lần đầu tiên Kỳ được tiếp đãi trang trọng như thế.

Dĩ nhiên, Kỳ chẳng bao giờ hiểu được rằng cảnh sát Mỹ chẳng bao giờ sách xe mô tô đi hộ tống cho ai nếu không được trả tiền, chẳng có khách sạn sang trọng nào cho người ở miễn phí, chẳng có nhà hàng nào cho chúng tôi ăn free vì sự có mặt của NCK.

Chúng tôi phải trả tiền và những số tiền này là những đồng tiền mồ hôi nước mắt của anh em chúng tôi đóng góp. Anh em chúng tôi, những người đi làm lao động đầu tắt mặt tối thì lương ba cọc ba đồng, những người làm văn phòng thì lương lại càng ít hơn, thêm vào đó, còn bill nhà, bill cửa, vợ con một đống, nhưng cũng ráng đóng góp, chỉ hy vọng mình có thể làm được việc gì đó cho quê hương. Ngày lễ, anh em chúng tôi ngồi tuốt phía dưới xa, nhìn Kỳ ngồi trên hàng ghế danh dự, ăn nói với những tai to mặt lớn của thành phố, chúng tôi lấy làm hãnh diện vô cùng. Ai khinh tướng chúng tôi thì có quyền khinh, nhưng chúng tôi không khinh tướng của chúng tôi.

Kỳ lúc ấy quả thật là một thần tượng của anh em chúng tôi. Báo chí truyền hình phỏng vấn, Kỳ trả lời bốp chát, cứ y như ngày nào ở Việt Nam. Mãi sau này, khi coi lại những cái clip, tôi mới đau đớn nhận ra rằng những lời tuyên bố của NCK toàn là bố láo, chẳng ra đâu vào đâu, toàn là nhắc nhở đến một thời quá vãng cũ, tự đánh bóng mình một cách hợm hỉnh, chẳng có liên quan gì đến chuyện vinh danh QLVNCH như anh em chúng tôi hằng mơ ước.

Có thể, có người bảo, tại mấy ông ngu nên mới đón tiếp NCK long trọng như thế chứ ông ấy đâu cần mấy ông đón tiếp đâu. Câu trả lời là: Đúng, có thể chúng tôi ngu, nhưng người lợi dụng cái ngu ấy của chúng tôi thì thật đáng phỉ nhổ. Chúng tôi ngu vì tình thương Tổ quốc. Ngu vì chúng tôi còn biết làm người, còn có lương tri, biết liêm sĩ, biết nhục là gì. Hơn nữa, tuổi trẻ là tuổi của tha thứ và hy vọng. Chúng tôi hy sinh và chẳng bao giờ tính toán. Nếu biết tính toán một chút thì ngày xưa, tôi, 17 tuổi đã không bỏ nhà đi lính. Nếu biết tính toán một chút thì tôi đã không xông pha giữa hòn tên mũi đạn, bay một ngày 8 tiếng đồng hồ, để kết quả là bị kéo về phi đoàn nhốt tù vì tội “bay quá thấp, coi thường mạng sống của phi hành đoàn” (chuyện này xin hỏi phi đoàn trưởng của tôi, trung tá Tám khóa 17 Dalat hiện ở Orange County, Cali, xem thử ổng nhốt tôi bao nhiêu lần vì những tội gì? Muốn biết thêm thì hỏi ĐU Hưởng ở Canada, DU Nhơn ở Orlando, FL-- Và nếu hỏi thì xin hỏi luôn, những huy chương của tôi trong 4 năm trời lăn lộn ở những chiến trường đẫm máu nhất, nhiều khi tàu bị bắn rách phải bỏ vì không vá được, ai đã lấy hết mà chỉ để cho tôi một cái Phi Dũng Bội Tinh là một cái không ai có thể ăn cắp được vì có tên tôi. Hỏi luôn thiếu tá Lý Bửng, trưởng phòng HQ phi đoàn 114, họp hành quân phi đoàn, tuyên bố một câu xanh dờn như sau: Chúng tôi mất công điều động các anh đi bay, chúng tôi phải được chia sẽ những huy chương của các anh. Ai bảo phi công QLVNCH hào hoa phong nhã hay sung sướng ? Không có đâu, chỉ toàn là mồ hôi, máu và nước mắt mà thôi, quí vị ơi. Nhưng vì tổ quốc, chúng tôi chẳng phiền hà gì. Chúng tôi chấp nhận chịu thiệt thòi để cho dân tộc được hạnh phúc. Đơn giản như thế thôi.)

Sau lần đến thành phố NO, NCK đâm ra yêu thành phố quê mùa nghèo hèn này. Cũng dễ hiểu thôi bởi vì Kỳ đã bị những chỗ khác tẩy chay, trong khi đó, dân NO chúng tôi vốn quê mùa dốt nát và… chẳng biết mẹ gì ngoài chuyện lo cho gia đình đầy đủ êm ấm, đón tiếp Kỳ như một ông vua. Thêm vào đó, như ai đã nói, trong thế giới mù thì thằng chột là vua. Kỳ muốn làm thằng chột trong thế giới mù người Việt Nam của thành phố NO. Thế là Kỳ khăn gói quả mướp dọn về NO ở.

Kỳ dến NO với hai bàn tay trắng, và mọi người, ai cũng biết như thế. Nhưng không sao, tiền bạc là thứ nhỏ, Kỳ mới là quan trọng. Tôi không bao giờ quên được đêm ThanksGiving năm ấy tại nhà hàng ChinaTown của Đại Tá An …

Đêm hôm ấy Kỳ mặc đồ quân phục Đại Lễ Không Quân màu trắng, đeo hai sao, ngồi bên cạnh tướng Westmoreland mặc thường phục. Kỳ nói không bao giờ ngừng, trong khi tướng Westmoreland chỉ mỉm cười yên lặng. Hội Cựu Quân Nhân ngày ấy giao cho tôi trọng trách bảo vệ an ninh cho NCK. Khỏi cần phải nói, tôi làm tròn bổn phận mình.

Sau lễ chào cờ, Kỳ và Westmoreland ngồi xuống trên bàn ghế danh dự trên cao, nhìn xuống dưới, nơi khoảng 300 thực khách đang ngồi. Không hiểu tại sao, lúc ấy Kỳ có vẻ mặt không vui. Tôi đến bên Kỳ và hỏi, “Mọi chuyện OK không Thiếu tướng?”

Kỳ nói ngay:

-Anh lấy cho tôi chai rượu.

Lúc ấy tôi mới nhận ra là ban tổ chức đã quên bỏ chai rượu cho bàn danh dự. Tôi nói liền “Thiếu tướng chờ chút, em đi lấy cho.”

Tôi liền đi hỏi “Chai Rượu cho ông tướng” nhưng chẳng ai có. Thế là tôi đành phải phóng ra ngoài, trời đêm ấy lạnh, vạn vật đóng băng, chạy bộ đi kiếm cho Kỳ chai rượu. Tôi chạy cỡ 5 block đường, lạnh quá nên… teo mẹ nó chim, tay chân run cầm cập, cây 9mm trong bụng xém rớt xuống đất mấy lần mới nhìn thấy một cái tiệm chạp phô nhỏ. Đây là tiệm chạp phô bán cho người nghèo nên tôi kiếm tới kiếm lui chỉ thấy được chai Hennessy VS, tức là loại rượu rẻ tiền. Tôi biết khẩu vị của Kỳ phải là thứ XO thượng hạng, nhưng chẳng biết làm sao hơn đành mua đại. Tôi ôm chai rượu chạy giữa trời, chim lại teo vì trời lạnh quá, nhưng tự nhủ rằng dù … teo chim nhưng mình cũng làm tròn bổn phận của một người lính với vị chỉ huy cũ.

Tôi trở về, hí hửng đem chai rượu để trên bàn, chờ đón một lời khen. Nhưng khi nhìn thấy chai rượu, có lẽ vì không phải là thứ XO như Kỳ thích, Kỳ nhăn mặt lại, chẳng thèm nói một lời cám ơn. Tôi cũng chẳng buồn vì nghĩ rằng Kỳ bận rộn với những việc lớn nên không có thì giờ cho những chuyện nhỏ như chuyện cám ơn vớ vẩn một tay Thiếu úy vô danh.

Kỳ ở nhà Đại tá Ân. Lúc ấy (1985) đại tá Ân làm chủ nhà hàng Chinatown, tiền bạc rủng rỉnh, bạn bè thì có những tai to mặt lớn như NCK, đàn em thì có những tay nổi tiếng như Lý Tống (LT), Tương Sĩ Lương, (TSL) Lê Hồng Thanh… tối thứ sáu thứ bảy tổ chức văn nghệ gọi là Đêm Làng Văn, thu cả chục ngàn đô la một đêm. Đại tá Ân còn yểm trợ cho Trương Sĩ Lương ra tờ báo “Tiếng Nước Tôi”, tờ báo đầu tiên của thành phố NO. (Lúc ấy tôi mới chập chững cầm bút, viết mấy bài, tốn bao nhiêu tô phở cho TSL nhưng bài chẳng bao giờ được đăng. Dù không được đăng bài, nhưng được đi ăn nhậu với nhà báo TSL làm tôi cũng thấy an ủi phần nào.) Người bạn tâm huyết của Kỳ lúc ấy là LT. LT vượt biển, báo Reader Digest có đăng chuyện này, trở thành ngôi sao sáng. LT đang đi học nhưng cứ bị Kỳ gọi tới, rủ đi nhậu.

Đùng một phát, tôi nghe NCK mở vựa bán tôm ở Houma. Trước khi viết thêm, tôi xin nói về chuyện tôm cá ở NO…

Năm 75, rất nhiều người tị nạn gốc Phước Tỉnh,vốn sống bằng nghề đánh tôm đánh cá, đã định cư tại thành phố này. Họ chịu khó nên chẳng bao lâu trở thành giàu có, lợi tức hàng năm lên đến vài trăm ngàn đô la hoặc triệu đô la là chuyện thường. Nhưng, ít ai biết được rằng, người đánh cá giàu, nhưng người chủ vựa tôm cá còn giàu gấp trăm lần. Chủ vựa mua tôm với giá, ví dụ, 1 đô la, họ đem bán ra thị trường gấp 5 giá này. Mỗi một ngày, mua về cỡ 100 ngàn cân, bán đi, bạn làm con tính thì sẽ biết số tiền lời nó như thế nào.

Mới nhìn qua thì ai cũng phải công nhận, Kỳ quyết định ra mở vựa tôm là một quyết định khôn ngoan. Vấn đề ở đây, quan trọng nhất, Kỳ chỉ có hai bàn tay trắng, lấy tiền ở đâu ra để mở? Kỳ may mắn ở chỗ có thằng phó giám đốc nhà băng người Mỹ ngày xưa là THỦY QUÂN LỤC CHIẾN Mỹ, biết Kỳ, nên đứng ra yểm trợ, cho Kỳ vay tiền, tôi nghe nói là 1 triệu đô la. Kỳ lại kêu gọi anh em Không Quân đóng góp, hùn vốn, hứa hẹn đủ thứ.

Thế là anh em Không Quân Việt Nam đùng đùng đóng góp, kẻ vài trăm, người vài ngàn. Đau đớn một điều là bây giờ, nếu ai về NO hỏi người Không Quân, lần ấy bạn mất cho NCK bao nhiêu thì chẳng ai dám nói sự thật.

Nghề làm chủ vựa, coi dễ nhưng khó vô cùng. Thường thì những chủ vựa là cha truyền con nối. Muốn lấy lòng những thuyền đánh tôm, họ phải chứa xăng dầu, nước đá, đồ ăn thức uống đầy đủ để khi tàu cặp bến, họ bán tôm xong là có xăng dầu, nước đá, đồ ăn thức uống đi liền cho chuyến tới. Vì nghề chủ vựa là nghề béo bở, cho nên, để cạnh tranh nhau, nhiều khi chủ vựa còn chứa cả gái điếm, cần sa ma túy bán cho người đánh cá.

Kỳ làm sao hiểu được những chuyện này. Lại còn huyênh hoan tuyên bố, chúng nó phải bán tôm cho tôi vì tôi là NCK. Nhưng, thành thật mà nói, Kỳ cũng nghĩ đến vấn đề PR chứ. Giải pháp PR của Kỳ là kéo thằng Đặng Văn Âu (DVA) từ Houston về ra tờ báo “Ngư Phủ”. DVA gặp tôi, nhờ tôi chỉ bảo về việc muốn đặt một giàn máy điện toán đánh được chữ Việt để làm tờ Ngư Phủ. Tôi bảo, ông giao cho tôi 3 ngàn đô la, tôi thiết trí cả máy in, là xong việc. DVA không giao cho tôi mà tự làm lấy, và bill cho Kỳ, tôi nghe nói, khoảng 10 ngàn đô la. Giống như Việt Gian Cộng Sản, chúng nó ăn cướp lẫn nhau.

Ngày tờ “Ngư Phủ” ra đời, tại nhà anh Toàn Huế, DVA khoe tôi tờ báo Ngư Phủ số một. Tôi xem qua, chút xíu nửa thì ói, cười, nửa đùa nửa thật, bảo: “Nếu tôi là tướng Kỳ, tôi ra copy chừng vài trăm cuốn video XXX về phát cho ngư phủ, may ra họ còn nhớ đến tướng Kỳ mà bán tôm cho ổng. Dân ngư phủ làm gì biết đọc mà anh lại làm báo?” DVA bảo, ông say rồi. Tôi bảo, người say mới dám nói sự thật. Cả bàn cùng cười.

Tờ báo Ngư Phủ ra được số thứ hai thì NCK khai phá sản. DVA âm thầm về lại Houston, dĩ nhiên, không quên đem theo bộ computer 10 ngàn đô la theo. Thằng phó giám đốc nhà băng người Mỹ bị mất việc, và không biết bao nhiêu anh em không quân bị mất tiền.

Tôi không gần gủi Kỳ nên không biết tại sao Kỳ khai phá sản, nhưng sau đây là suy luận của tôi:

1/ Trên cõi đời này, làm việc gì cũng thế, từ việc rửa một cái chén nhỏ cho đến việc coi sóc một công ty to lớn, người ta phải có sự cố gắng, biết chịu khó làm việc. NCK là loại người biếng nhác, nói thì hay nhưng không bao giờ dám thò tay ra làm một việc gì. Kỳ mở vựa tôm, đúng ra thì phải có mặt từ lúc sáng tinh mơ, đôn đốc nhân viên chùi rửa vựa, tiếp đãi khách hàng, đàng này, Kỳ cứ ở lì ở thành phố NO, ăn nhậu chè chén, giao hết mọi việc cho đàn em, sáng 12 giờ mới bước ra khỏi giường, chiều 7 giờ đã bày tiệc rượu, hỏi vựa cá nào còn có thể sống được.

2/ Đàn em của Kỳ toàn là thứ ăn hại, giết Kỳ sau lưng Kỳ nhưng Kỳ không hề biết. (Như thằng DVA chẳng hạn. Nó càng bênh vực Kỳ thì người ta càng ghét Kỳ.)

3/ Kỳ là một con người giỏi mồm miệng nhưng ngu dốt, không có đầu óc.

Nhưng không sao, những chuyện này là những chuyện có thể tha thứ được. Ai mất tiền đau khổ thì cũng coi như mình đi buôn, không gặp thời, đành chịu. Tôi bắt đầu đòi uống máu NCK khi nghe tin Kỳ chơi luôn con vợ của bạn mình, vợ của đại tá Ân là bà Kim. Tôi có ông anh kết nghĩa là BS Liệu dân nhảy dù, dạy tôi một câu như sau: “Vợ của bạn là mẹ của mình.” Anh Liệu khỏi cần dạy, tôi cũng biết những điều căn bản này của giang hồ.

Nói tới anh Liệu và NCK, tôi phải kể một chuyện như sau.

Một ngày, anh em chúng tôi hẹn nhau ở Houston để ăn nhậu, nhưng bị thất lạc. Mãi cho đến gần tối, anh Liệu mới liên lạc được với tôi. Anh Liệu cho địa chỉ nhà của ông Quế (Ai không tin cứ hỏi Cò Quế Houston kiểm chứng cho việc này). Chúng tôi đi nhưng vừa đi vừa chửi thề vì đường xa quá. Đến nơi mới nhận ra rằng mình đang bước vào một cái lâu đài chứ không phải là nhà. Bước vào nhà, tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy NCK đang ngồi chểm chệ ở ghế chính của bàn tiệc, chung quanh NCK là một lô toàn những người lạ mắt (sau này tôi mới biết toàn là BS, bạn anh Liệu ở bên Âu Châu qua). Tôi quay lui bỏ đi về. Anh Liệu chạy theo, hỏi tôi sao thế. Tôi bảo, “Em không muốn ngồi chung với thằng ăn cắp vợ bạn.” Anh Liệu năn nỉ tôi bảo, “Thôi, chuyện ông Kỳ lấy ai và lỗi của ai thì mình chưa biết, nhưng anh em tề tựu cả đây, em bỏ đi về coi kỳ quá.”

Nễ lời người hùng Charlie, tôi đành trở lại ngồi xuống, nhưng chọn một góc bàn, nơi cuối cùng của bàn tiệc, không thèm nhìn NCK. Lúc ấy tôi đã có chút ít tiếng tăm, viết được vài cuốn sách, cho nên thiên hạ sau khi nghe tên tôi thì liền bu xuống ngồi gần tôi để hỏi chuyện. Chẳng có ai còn để ý đến NCK nữa. Nửa tiếng đồng hồ sau, Kỳ bị bỏ cô đơn liền gọi tôi:

-Này anh, nghe nói anh ngày xưa là phi công hở.

Dĩ nhiên, Kỳ đã quên mất chuyện tôi đã chạy 5 block đường lấy cognac cho Kỳ uống. Tôi trả lời:

-Đúng. Ngày xưa tôi là phi công của QLVNCH.

-Tại sao anh có vẻ làm lơ với tôi.

Tôi nói thẳng:

-Tôi không muốn nói chuyện với thiếu tướng.

-Tại vì sao?

Bàn rượu căng thẳng. Anh Liệu ngồi sát bên tôi, cứ bấm vào đùi tôi lia lịa, bảo nhỏ:

-Chú mày cương quá, không được.

Tôi trả lời:

-Thôi thì bây giờ như thế này. Nếu thiếu tướng trả lời được ba câu hỏi của tôi, tôi sẽ nói chuyện với thiếu tướng.

Tôi để ý lúc ấy Cò Quế nhìn tôi mặt hằm hằm, chỉ chực ăn tươi nuốt sống, nhưng tôi đéo ngán. Nhà của ông thật, nhưng ông muốn chết với tôi thì tôi sẵn sàng chết với ông liền tại chỗ, một đổi một. Hơn nữa, đời người trước sau chỉ một lần chết mà thôi.

Nhưng NCK lại cười, nói:

-Anh muốn hỏi thì cứ hỏi đi.

-Thứ nhất, thưa thiếu tướng, đàn anh có được quyền lấy vợ của đàn em hay không?

Mọi người khựng lại, không ai ngờ câu hỏi của tôi lại như thế. Tội nghiệp anh Liệu, lại bấm vào đùi tôi, háy hó đử thứ. Rồi anh than:

-Mẹ, sao mà tôi khổ với ông Thiếu úy này như thế…đàn anh. Nhưng ngày xưa là Không Quân nói, mãi đến bây giờ mới có ông Nhảy dù nói như thế. Vấn đề là, biết tôi làm khổ mấy ông, nhưng mấy ông không bao giờ bỏ tôi được, tôi chẳng biết vì sao.

NCK trả lời, tự nhiên và lưu loát:

-Ồ, thì anh muốn nói đến chuyện tôi và bà đại tá Ân chứ gì. Bà Ân ly dị chồng, tôi ly dị vợ, chúng tôi yêu nhau, cưới nhau…

Câu trả lời quá hay. Tôi lại hỏi:

-Thằng Bùi Tín là cái gì mà thiếu tướng lại đi nói chuyện với nó?

Kỳ giơ tay ra:

-Ô, tôi đang ăn phở, hắn ta ngồi vào ngay trong bàn ăn, cậu hỏi tôi không nói chuyện với hắn thì sao?

Anh Liệu lại bóp đùi tôi, ngầm bảo câm họng lại. Tôi nói:

-Câu hỏi cuối cùng, thưa thiếu tướng, thiếu tướng định nghĩa cho tôi nghe coi Liêm Sĩ là gì?

Mọi người lại trắng mặt. Anh Liệu lại khổ sở hối hận vì đã trót dại gọi tôi tới đây. Nhưng NCK nói ngay:

-Làm người có liêm sĩ là sống thế nào không thẹn với trời, không hổ với đất….

Kỳ nói một thôi, toàn là những lời lẽ trong chuyện tàu mà ai cũng biết. Sau đó, không khí trở nên nặng nề, Kỳ đứng lên bỏ về. Mọi người ra xếp hàng bắt tay tiễn đưa Kỳ, ngoại trừ tôi và anh Liệu. Tôi thương anh Liệu tôi chỗ đó. Anh có thể bắt tay Kỳ, nhưng anh thấy thằng em hăng máu quá, anh ngồi lại với thằng em, cùng chịu khổ với thằng thiếu úy không quân. Nhảy dù hay ở chỗ đó.

Tất cả những chuyện này, đều có thật 100%, ai muốn biết rõ hơn thì xin gọi điện thoại cho Cò Quế, người bạn già của tôi, hiện đang ở Houston. Này ông cò Quế, lần sau tôi xuống Houston, ông có dám mời tôi về cái lâu đài của ông để ăn nhậu không?

Ngày đó, dù Kỳ làm gì đi nữa thì tôi vẫn gọi Kỳ là tướng. Cho đếh khi Kỳ biến mất khỏi NO và về Việt Nam làm một thằng Cộng Nô. Lúc ấy tôi bắt đầu gọi Kỳ là thằng. Xin lỗi, người tôi ngưỡng phục nhất trong đời tôi là thân phụ, nhưng nếu thân phụ theo VC thì tôi cũng sẵn sàng giết chết người,uống máu rồi tự sát,nói gì đến chuyện thằng Kỳ lở loét. Ai sợ chết, tôi lại khoái nhìn thẳng vào sự chết. 17 tuổi, mặc áo lính rộng thùng thình, tôi dơ tay thề, chấp nhận chết cho quê hương. 60 tuổi, tôi nghĩ, nếu mình chết, mình nên đem vài thằng VC hay Việt gian chết theo mình. Chết một mình là chết ngu, chết vô ích. (Nói đùa thôi, ai ngu gì chết) Không có gì quan trọng và cao quí hơn tổ quốc mình. Tôi đã viết nhiều bài nói về chuyện này, viết thêm cũng chỉ là thừa. Nghe tin Kỳ chết, như đã nói, tôi chẳng vui chẳng buồn, nhưng xin quí vị hiểu cho tại sao tôi gọi Kỳ là thằng.

Nhưng thôi, bây giờ, như đã nói, nghĩa tử là nghĩa tận. Người anh hùng không đánh kẽ không còn tự vệ được cho mình. Tôi xin cúi đầu chúc linh hồn Kỳ được tiêu diêu miền cực lạc. Kể từ giờ phút này, tôi gọi NCK là ông Kỳ, thay vì là thằng Kỳ.

Nhưng tôi có lời nhắn cho thằng khốn nạn DVA, đừng có đem thây ma của thầy mày để đánh bóng cho mày. Trước sau gì tao cũng gặp mày thôi (để tâm sự).

Trường sơn lê xuân nhị

ĐÊM TÂN HÔN


- CHUYỆN VUI

- Chuyện có thật !

Do Do Viet gửi tới. Cảm ơn anh Do Viet







Cô gái xinh đẹp này từng là đàn ông
Người mẫu xinh đẹp Alicia Liu, 25 tuổi, cơ thể với những đường cong hoàn hảo, nhưng, khi sinh ra, cô gái nổi tiếng này từng là một người đàn ông.
 

Hình ảnh Alicia trước và sau khi chuyển giới. Ảnh: Oddful.
Theo Oddful, gia đình và người thân hết lòng ủng hộ việc Alicia phẫu thuật thay đổi hình dáng từ đàn ông thành phụ nữ khi 18 tuổi. Alicia hy vọng sẽ gặp được người ông có thể hiểu và yêu thương cô trọn đời. Hiện cô là người mẫu nổi tiếng trong làng thời trang Đài Loan.

Những bức ảnh tuyệt đẹp của giai nhân từng là đàn ông, ảnh trên Oddful:


CÔNG NGHỆ CHẾ CÀ PHÊ BẩN Ở XỨ VIỆT CỘNG

Bài diều tra của báo Phụ Nữ, do Tu Gia Pham gửi tói. Cảm ơn Tu gia Pham
Envoyé le : Dim 22 mai 2011, 1h 28min 58s
Objet : Fwd: Đặc biệt dành cho dân ghiền cà phê.

Mời quý độc giả thưởng thức cà phê từ xứ việt cộng. Quý vị nào thích cà phê Tây Nguyên hay các loại khác sản xuất từ xứ Việt Cộng thì có ngày đi xóm "Nhị Tỳ" sớm. Xin đọc tiếp dưới đây để biết rõ tại sao.


In bài

Công nghệ chế cà phê... bẩn ở xứ Việt cộng

09/05/2011 9:00

PN - Giá một ký cà phê nhân khoảng 50.000đ, sau khi chế biến sẽ cho ra 0,7kg cà phê bột, nhưng lại được nhiều hãng chào bán với giá chỉ từ 55.000 - 60.000đ/kg. Nếu tính các chi phí như nhân công, đóng gói, tiếp thị, vận chuyển… thì các hãng cà phê này chắc sẽ lỗ to. Vậy vì sao các hãng cà phê không những sống khỏe mà còn giàu lên trông thấy khi kinh doanh mặt hàng này?

Siêu lợi nhuận

Qua nhiều mối giới thiệu, chúng tôi tiếp cận được ông C. - một người có tiếng về kỹ thuật pha chế tại Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai). Chỉ nhấp một ngụm nhỏ cà phê, ông có thể phân biệt được công thức pha chế của các hãng cà phê với tỷ lệ bột bắp, đậu nành và hàm lượng hóa chất, phụ gia ra sao. Đặc biệt, ông còn có thể làm được một ly cà phê giống hệt màu sắc, hương vị của ly cà phê vừa uống thử. Cũng chính nhờ tiếng tăm trong nghề nên không ít hãng cà phê tại Đồng Nai, TP.HCM đã “đặt hàng” với ông. Tuy nhiên, do các chủ doanh nghiệp này vì lợi nhuận cao, đã đưa ra công thức pha chế với quá nhiều hóa chất độc hại nên ông từ chối thẳng.

Ông C. cho biết, nếu pha chế cà phê bằng bắp và đậu nành với tỷ lệ hợp lý thì sẽ chẳng có hại bao nhiêu cho người tiêu dùng, nhưng khi bắp và đậu nành được sấy cháy đen thành than, lại tẩm ướp thêm hóa chất vào, đóng gói và tung ra thị trường thì rất nguy hiểm cho sức khỏe. “Với giá cà phê như hiện nay, để sản xuất ra một ký cà phê bột (gồm: nhân công sấy, xay, đóng gói, bao bì nhãn mác…) ít cũng phải mất 100.000đ trở lên. Cà phê bột được chào bán giá từ 55.000 - 60.000đ/kg thì chỉ có bột bắp, đậu nành mà thôi” - ông C. khẳng định.



"Công nghệ" chế cà phê bẩn với mỡ công nghiệp, đường hóa học, hóa chất...
Để chứng minh, ông cho biết thêm: hiện giá bắp chỉ khoảng 8.000đ - 9.000đ/kg, đậu nành khoảng 13.500đ/kg. Với bột bắp, đậu nành mà bán 55.000đ - 60.000đ/kg thì giới kinh doanh cà phê “phất” nhanh là điều dễ hiểu. Lợi nhuận cao đã khiến các hãng cà phê đua nhau mọc lên và tung ra thị trường những sản phẩm rất bát nháo. Chìa cho chúng tôi cả chục loại cà phê đến tiếp thị, ông C. lắc đầu: “Có nhiều thương hiệu mà khi gọi vào số điện thoại in trên bao bì thì chỉ nghe… ò e í, hoặc truy ra là địa chỉ ma…”.

Hóa chất: bao nhiêu cũng có

Trong “cà phê bẩn”, ngoài cà phê - đậu nành - bắp còn có khoảng chục loại hóa chất, phụ liệu độc hại như: bột CNC (chất làm keo), chất tạo bọt trắng, caramen tạo mùi, tinh sữa, tinh ca cao, tinh cà phê, bơ công nghiệp, đường hóa học, bột vani… Theo ông C., nếu không có những chất trên - được dân trong nghề mua ở “chợ hóa chất” Kim Biên (TP.HCM) - thì đậu nành, bột bắp không thể “hô biến” thành cà phê được.

CNC - chất làm keo cà phê
Trong vai một doanh nghiệp nhỏ mới thành lập muốn “chế biến” cà phê bột từ bắp, đậu nành, chúng tôi ghé một cửa hàng bán hóa chất tại chợ Kim Biên. Một phụ nữ còn khá trẻ đon đả: “Yên tâm đi anh Hai, em để giá sỉ cho, loại nào cũng có. Chất CNC làm keo, đảm bảo cà phê khi pha sẽ có chất kết dính sền sệt nhìn rất bắt mắt; bột tạo bọt trắng cho vào một chút thì chỉ cần khuấy nhẹ là ly cà phê đầy tràn bọt ngay; caramen tạo mùi muốn đắng kiểu nào cũng được, mùi nào cũng có (mùi cà phê đậm, nhạt)…”. Nói rồi, cô ta tiếp tục giới thiệu các phụ gia “cao cấp” hơn mà chỉ dân trong nghề mới biết như: tinh sữa, tinh ca cao, tinh cà phê, bơ công nghiệp, đường hóa học, bột vani…

Caramen tạo mùi, màu và vị đắng tự nhiên
Theo người phụ nữ này, tinh sữa (có màu trắng đục như sữa, sền sệt, được đóng vào can nhựa trắng), giá bán lẻ 120.000đ/kg. Tinh ca cao là phụ gia không thể thiếu (có màu nâu nhạt cũng được để trong từng thùng nhựa trắng) giá 350.0000đ/kg, loại này cho vào “cà phê” sẽ giúp cho bột có mùi thơm phức như loại thượng hạng thường chỉ có bán ở những quán cà phê sang trọng. Đường hóa học được đóng thành từng bịch, mỗi bịch 1kg (có thể dùng được cho cả tạ cà phê xay), nhìn bề ngoài trắng như những viên bột sắn dây, cho vào khi pha chế thì dù bột bắp, đậu nành cháy đen đắng cỡ nào cũng thành cà phê có vị ngọt, đắng tự nhiên. Ngoài ra, để pha chế, người ta còn cho thêm vào bột vani, làm cho bột cà phê thơm lừng…

Không chỉ vậy, để giảm chi phí, bột đậu nành, bắp sau khi đã sấy thành than thì đổ ra nền đất, trộn bơ (mỡ) công nghiệp (do Trung Quốc sản xuất, có giá chỉ 50.000 - 60.000đ/kg) vào, để bột được béo ngậy và thơm. Cũng là mỡ động vật (mỡ cừu) - chuyên để sấy cà phê có chất lượng - thì giá tới 260.000đ/kg. Công đoạn cuối cùng của “cà phê bắp, đậu nành” là đổ thêm chút hương liệu rượu rhum vào, giúp cà phê thêm đậm đà khi pha chế cho khách.

Cũng tại chợ hóa chất Kim Biên, biết chúng tôi chuẩn bị mở cơ sở chế biến cà phê, nhân viên một tiệm bán hóa chất khác mách nước: “Anh đã có bao bì sản phẩm chưa? Cứ đến tiệm K.T. (đường Trang Tử, P.14, Q.5) mà lựa mẫu”. Tiệm này đã thiết kế sẵn cả chục loại bao bì cực kỳ bắt mắt, rất đẹp với đủ trọng lượng khác nhau. Hầu hết cơ sở kinh doanh nhỏ lẻ thường đến đây để lấy hàng. Khi chúng tôi đến, nhân viên của tiệm cho biết, chỉ làm thấp nhất là năm ký (mỗi ký được 500 bao nhỏ loại 300g) với giá 135.000đ/kg. Mua bao xong, chủ nhân muốn in tên gì lên trên cũng được, chỉ cần đem đến tiệm in là xong…

Kinh hoàng xưởng chế biến

Từ một đầu mối khác, chúng tôi tìm đến xưởng chế biến cà phê của ông N.T.H. nằm sâu trong con hẻm thuộc P.Tân Hòa (TP. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). “Cụm liên hợp pha chế cà phê” này có ba lò sấy, hai máy trộn với ba công nhân làm việc. Dù đây là cơ sở cung cấp một lượng “cà phê” lớn hàng ngày, nhưng nhà xưởng rất tuềnh toàng, nhếch nhác. Do toàn bộ công việc được “cơ giới hóa” nên không khí làm việc dù rất khẩn trương nhưng lại khá yên ắng, người ngoài khó mà phát hiện được.

Do được ông P. - một mối hàng quen của cơ sở này giới thiệu, chúng tôi không mấy khó khăn khi tiếp xúc với ông chủ của cơ sở. Sau khi kiểm tra qua lai lịch của chúng tôi, ông H. cho biết, ông đã làm nghề này hàng chục năm, hàng ngày chủ yếu là rang bắp, đậu nành, cà phê cho các mối quen. Ai đem đến thì rang rồi chở đi, bình quân mỗi ngày cũng vài trăm ký các loại.

“40.000đ/kg anh làm được không?”. Ông H. đáp: “Được, nhưng tỷ lệ 50-50 (nửa bắp, nửa đậu)”. Ông H. giải thích thêm: “Nếu làm đậu không hoặc bắp không cũng được, nhưng uống chối (dội) lắm”. “Thế 40.000đ/kg làm bằng đậu có lời không?” - tôi vặn. Ông N.T.H. lắc đầu: “Nếu bằng đậu nành không thì… lỗ to! Vì bây giờ một ký đậu nành đã 15.500đ, tẩm gia vị xong thì coi như… công cốc”. Ông hỏi tôi, hiện quán lấy hàng bao nhiêu? Tôi nói 60.000đ/kg, ông định lượng ngay: “Cao lắm thì 1,5 cà phê + 7 bắp + 1,5 đậu nành, thậm chí không có cà (cà phê)”.

Giữa lúc chúng tôi nói chuyện, một mẻ bắp cháy đen được các công nhân của ông H. cho ra lò. Sau khi đổ ụp xuống nền nhà, các công nhân này xịt một loại hóa chất có màu nâu, màu trắng rồi dùng… cuốc để trộn đều. Tiếp đến, hai công nhân cào cà phê vào một chiếc chậu cáu bẩn để đổ vào máy trộn. Sau khi đổ hết bắp sấy vào máy, ông H. đổ từng bịch caramen, chất tạo dính, đường hóa học vào để trộn đều. Chỉ trong vòng năm phút, mẻ bắp cháy đen đã được “hô biến” thành cà phê có màu nâu sẫm, bóng loáng và thơm phức, nhìn rất bắt mắt. Lúc này, thấy chúng tôi có biểu hiện chóng mặt, buồn nôn do mùi hóa chất tẩm ướp cà phê bốc lên nồng nặc, ông H. bảo: “Chắc không quen, lại chưa có khẩu trang”. Ông đưa ngay cho tôi chiếc khẩu trang lớn, dày cộm, khoe: “Có đứa em ở công ty sản xuất ắc quy cho mới chịu nổi” (!).

Nhóm PV

Ông Trần Văn Ký - Giám đốc Công ty Dịch vụ tư vấn kỹ thuật an toàn thực phẩm Infosa TP.HCM, cho biết: khi bị rang cháy đen, bột bắp và đậu nành không còn giá trị dinh dưỡng nữa. Đồng thời, chúng sẽ sinh ra ít nhất 20 loại chất độc hại, trong đó có các chất: acrylamide, heterocyclic amines, HCAs... là những chất gây ung thư. Riêng chất CNC tạo độ dính, nếu là loại được sử dụng trong công nghiệp, có khả năng gây ung thư vì chứa nhiều tạp chất độc hại. Ngay cả loại dùng trong thực phẩm, nếu dùng quá liều cũng độc hại. Chất caramen, nếu được sản xuất từ đốt cháy đường thì cũng phát sinh những chất độc hại gây ung thư như các loại thực phẩm bị đốt cháy khác.

Thanh Khê (ghi)