31/12/10

Ngôn sứ (Kahlil Gibran)

“… Con cái của các bạn không là con cái của các bạn. Chúng đến qua ngả các bạn nhưng không xuất phát từ các bạn, và chúng dù ở với các bạn nhưng không thuộc về các bạn

Ngôn sứ
Kahlil Gibran

1 2

Lời người dịch: Kahlil Gibran (1883-1931), thi sĩ và họa sĩ người gốc Li-băng, được xem như một trong các đạo sư vĩ đại của thế kỷ 20. Các tác phẩm của ông chứa đựng thông điệp cao cả, nhất quán và vượt thời gian về một thế giới đại đồng, tôn giáo hòa đồng, loài người huynh đệ và một tình yêu hằng cửu nối kết con người với nhau trong tình yêu Thượng đế, giữa một trần gian hiệp nhất với không gian.

‘Ngôn sứ’ (The Prophet), là tác phẩm chủ yếu và tuyệt vời nhất trong cả chục tác phẩm bằng tiếng Anh và tiếng A Rập của ông. Ngôn sứ được xuất bản lần đầu năm 1923, và cho đến nay, đã tái bản hàng trăm lần cùng dịch ra trên bốn chục thứ tiếng. Chỉ riêng với tác phẩm này, Kahlil Gibran được giới xuất bản đánh giá là một trong các tác giả được đọc rộng rãi nhất, có lẽ chỉ sau Shakespeare và Lão Tử.

‘Ngôn sứ’ gồm 26 đáp từ bằng lối nói đầy chất thơ chuyên chở những cái nhìn thấu suốt, ứng xử với các chủ đề lớn của cuộc đời trên nền tảng chân thiện mỹ, như hạnh phúc và đau khổ, tình yêu và cái chết, lao động và của cải, hôn nhân và con cái, tình bằng hữu và luật pháp, thiện ác và tôn giáo, ăn mặc và cầu nguyện, v.v.

Tác phẩm này cũng đã được ít nhất năm người dịch sang tiếng Việt, trong đó có Phạm Bích Thủy, Trùng Dương, Giải Nghiêm, Châu Diên, v.v. với nhan đề thường xoay quanh chữ "tiên tri". Trong bản dịch này, tôi dùng chữ "ngôn sứ".

‘Ngôn sứ’(prophet), được hiểu như một sứ giả chuyển giao một thông điệp bằng ngôn từ. Ngôn sứ có mặt trong các tôn giáo lớn như Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Bái Hỏa giáo, Hi Lạp cổ đại, v.v. Ngôn sứ tự xem mình hoặc được xem như kẻ có giao tiếp với các hữu thể thiêng liêng hoặc siêu phàm, như Thượng đế hay thần linh. Thông điệp mà họ trung chuyển cho con người thường được gọi là sứ điệp hay lời tiên tri (prophecy), có lẽ vì thế nhiều người thường dịch chữ Prophet là Nhà tiên tri, theo ý nghĩa kẻ biết trước và nói lên con đường tất yếu trong tương lai nếu người đương thời nhất định đi theo chân lý hoặc vẫn không thể từ bỏ những đọa lạc hiện tại.

Hiểu một cách tích cực, ngôn sứ là kẻ cống hiến những cái nhìn thấu suốt cho thời đại, vừa là người quyết liệt phê phán hiện trạng, cất cao lời cảnh tỉnh người đương thời, nhắc lại các giá trị tinh thần bất biến, và vừa là kẻ sẵn sàng hiến thân để làm nhân chứng cho chân lý và bảo chứng cho sứ điệp.

Như thế, về mặt truyền thống, ngôn sứ không phải là kẻ đưa ra lời tiên đoán biến cố hoặc giải đáp cụ thể và tức thời các bí ẩn. Ngôn sứ là kẻ hiện đại hóa bằng ngôn từ nội hàm của chân lý muôn thuở, đưa lời cảnh báo cấp thiết, và được xem là người tích cực cổ vũ cho những đổi thay trong cá thể mỗi người và quần thể xã hội, mang tính tâm linh và cách mạng tận gốc, trong quá trình trở về với cội nguồn uyên nguyên của con người.

Hình ảnh Ngôn sứ Almustafa được thể hiện trong bản dịch này – mà chúng tôi cố làm cho gần gủi với hình ảnh vừa cách biêt vừa thân ái trong nguyên tác của Kahlil Gibran – là một con người bình thường tiềm ẩn trong mỗi chúng ta, được thăng hoa nhờ các trải nghiệm của một quá trình chiêm nghiệm trong cô đơn và thấu suốt, rồi phát biểu với chúng sinh bằng tất cả ý thức trách nhiệm, từ tốn và chân tình... Một hình ảnh thường được nghĩ tới như một chức năng hay một kỳ vọng của giới văn nghệ sĩ, triết gia, tăng lữ, nhà giáo dục, v.v., những trí thức chân chính nói chung và kẻ làm nghệ thuật nói riêng.
Nguyễn Ước
Toàn văn:

Ngôn sứ



Con tàu đang tới

Almustafa, người được chọn và là người được yêu thương, kẻ là bình minh mỗi ngày của đời mình, đã từ mười hai năm nay tại thành Orphalese chờ đợi con tàu quay lại đón rước ông quay về hòn đảo nhỏ nơi ông chào đời.

Tới năm thứ mười hai, vào ngày mồng bảy tháng Ielool mùa thu hoạch, ông leo lên ngọn đồi bên ngoài thành. Đưa mắt nhìn về hướng biển, ông thấy giữa mù sương đang đi tới con tàu của mình.

Lúc ấy, tâm hồn Almustafa mở tung mọi cánh cổng, niềm vui soãi cánh tung bay ra khơi. Khép đôi mắt, ông cầu nguyện trong trùng trùng im lặng của linh hồn.

Thế nhưng khi bước xuống đồi, một cơn buồn chợt đến khiến Almustafa thầm nghĩ:

Làm sao mình ra đi với tâm hồn thanh thản chẳng chút đớn đau? Không những thế, làm sao mình rời thành này với tinh thần không một vết thương.

Bên trong vòng thành kia mình đã trải qua những ngày dài khổ sở cùng những đêm dài quạnh quẽ, và kẻ nào có thể từ chốn đau đớn và cô liêu của hắn ra đi không chút tiếc nuối?

Trên các đường phố kia mình đã tung vãi rất nhiều mảnh vụn của linh hồn, và trên những ngọn đồi này rất nhiều đứa con của khát vọng mình đang bước đi trần trụi khiến mình chẳng thể xa lìa tất cả mà lòng không khỏi cảm thấy buốt nhói và nặng trĩu.

Hôm nay, không phải mình cởi bỏ y phục nhưng đang tự lột da bằng chính bàn tay mình.

Không phải mình để lại đằng sau một ý nghĩ mà là một trái tim đã ngày càng dịu ngọt nhờ những cơn đói và những cơn khát.

Thế nhưng mình chẳng thể nấn ná lâu hơn.

Con tàu đang tới
Biển vốn gọi mọi vật quay về, đang cất tiếng gọi mình, và mình phải lên tàu.

Vì ở lại - cho dẫu thời giờ vẫn cháy bỏng trong đêm - là đông cứng và cô kết, là bị ràng buộc vào khuôn khổ.

Lòng mình rất muốn mang theo mọi thứ nơi đây, nhưng làm sao có thể?

Giọng nói không thể mang lưỡi đi theo và môi không thể cho nó đôi cánh. Nó phải tự một mình tìm kiếm thinh không.

Và chim đại bàng tự một mình, không tổ ấm, mới bay ngang vầng mặt trời.

Lúc này, khi xuống tới chân đồi, Almustafa lại hướng mình ra biển và thấy con tàu đến đón đang tiến vào cảng cùng các thủy thủ đồng hương trên mũi tàu.

Linh hồn ông cất tiếng gọi họ, và ông nói:

Hỡi các con trai của bà mẹ cổ đại, hỡi những kẻ cưỡi lên sóng biển, đã bao nhiêu lần các bạn dong buồm trong giấc chiêm bao của tôi. Và giờ đây các bạn đến khi tôi đang tỉnh thức, cái vốn là một giấc mộng thẳm sâu hơn.

Tôi sẵn sàng ra đi, lòng tôi nôn nao theo những cánh buồm trương sẵn chờ cơn gió đến.

Tôi sẽ chỉ còn thở thêm một hơi thở nữa thôi trong không khí tỉnh lặng này, và tôi cũng sẽ chỉ còn một ngoái mắt nhìn lui đầy yêu thương nữa thôi.

Rồi tôi sẽ đứng giữa các bạn, làm một người đi biển trong muôn vàn người đi biển.

Và ngươi, hỡi đại dương bao la, bà mẹ đang ngủ yên,

Chỉ một mình ngươi là yên lành và tự do cho sông cùng suối.

Chỉ một khúc quanh suối lượn nữa thôi, chỉ một tiếng thì thầm trong trảng cỏ nữa thôi,
Rồi lúc ấy ta sẽ đến với ngươi, làm một giọt nước vô biên hoà vào đại dương vô tận.

Và trong khi bước đi Almustafa thấy từ đằng xa, đàn ông cùng đàn bà rời ruộng nương rời vườn nho, kéo nhau tuôn về cổng thành.

Ông nghe tiếng họ gọi lớn tên ông cùng thét bảo nhau từ cánh đồng này sang cánh đồng nọ rằng con tàu của ông đang tới.

Và ông tự nhủ:

Có phải ngày chia tay là ngày sum họp?

Có nên nói rằng buổi tối hôm trước của tôi mới thật là rạng sáng hôm sau của tôi?

Và tôi sẽ trao gì cho kẻ vừa buông tay cày giữa luống cày kia, hay kẻ vừa ngừng tay quay máy ép rượu kia?

Không biết tâm hồn tôi có trở thành cây trỉu quả để hái đem tặng họ?
Và không biết các khát vọng của tôi có tuôn trào như nguồn nước để có thể rót đầy ly của họ?

Tôi có là cây đàn để bàn tay của Đấng toàn năng có thể chạm tới, hoặc ống sáo để làn hơi của Ngài có thể thổi qua?

Tôi có là hành giả của lớp lớp thinh lặng, và trong cõi đó tôi đã tìm thấy kho báu nào để có thể với lòng tự tin đem phân chia cho mọi người?

Nếu đây là ngày gặt hái của tôi, trong cánh đồng nào tôi đã gieo hạt và vào những mùa không nhớ nổi nào?

Nếu đây quả thật là giờ tôi đưa cao chiếc đèn lồng của mình thì bên trong không đang đốt ngọn lửa của tôi.

Tôi sẽ nâng lên chiếc đèn lồng ấy, khô cạn và tối tăm.

Và người canh đêm sẽ rót đầy dầu cùng thắp sáng nó.

Almustafa nói những lời ấy thành tiếng. Nhưng trong lòng ông vẫn còn rất nhiều điều không nói. Vì bản thân ông không thể nói lên bí mật thăm thẳm của mình.

Khi ông vào thành, toàn thể dân chúng đến gặp ông, và họ chung một lượt cất tiếng gọi ông.

Các trưởng lão trong thành cùng nhau đứng lên và nói:

Xin chớ vội lìa xa chúng tôi.

Thầy là ban trưa trong trời chiều sắp tà của chúng tôi, và tuổi thanh xuân của thầy cho chúng tôi những giấc mơ để mộng.

Ở giữa chúng tôi thầy không là người lạ cũng chẳng phải khách, mà là con trai và người rất yêu thương của chúng tôi.

Đừng khiến cho đôi mắt chúng tôi sẽ phải khổ sở vì đói khát khuôn mặt thầy.

Các nam tư tế cùng nữ tư tế thưa với ông:

Lúc này, xin đừng để cho sóng biển chia cách chúng ta, và xin đừng để những năm tháng thầy trải qua giữa chúng tôi trở thành ký ức.

Thầy đi giữa chúng tôi như một thần linh, chiếc bóng của thầy là ánh sáng trên khuôn mặt chúng tôi.

Chúng tôi quá đổi yêu thương thầy nhưng tình yêu ấy chẳng nói ra lời và bị khuất sau những chiếc mạng.

Và giờ đây nó cất tiếng gọi thầy và nó đứng trước mặt thầy, không chút giấu che.

Và phải chăng tới giờ ly biệt tình yêu mới biết hết các chiều sâu của nó.

Và những người khác cũng đến khẩn nài Almustafa. Nhưng ông không trả lời họ. Ông chỉ gục đầu; và những kẻ đứng gần thấy nước mắt tuôn chảy ướt đẫm ngực ông.

Rồi ông cùng dân chúng đi tới quảng trường lớn trước Đền thờ.

Và từ nơi linh địa ấy bước ra một người nữ tên là Almitra. Và bà là một nhà thấu thị.

Ông nhìn bà với ánh mắt rất đổi dịu dàng vì bà chính là người đầu tiên nhận ra và tin vào ông khi ông vừa đến thành này chỉ mới một ngày.

Và bà cất tiếng chào ông rằng:

Hỡi Ngôn sứ của Thượng đế, trong cuộc truy tầm cái vô cùng, thầy đã từ lâu tìm kiếm con tàu của mình ở những chốn xa xăm.

Và giờ đây con tàu của thầy đang đến, và thầy nhất thiết phải đi.

Thăm thẳm thay lòng thầy khát khao miền đất muôn trùng ký ức và chốn cư ngụ những khát vọng vô cùng cao cả của thầy; và tình yêu của chúng tôi sẽ không ràng buộc thầy cũng như những thiếu thốn của chúng tôi sẽ không níu bước chân thầy.

Tuy thế, chúng tôi yêu cầu trước khi rời xa xin thầy hãy nói và trao cho chúng tôi chân lý của thầy.

Và chúng tôi sẽ trao nó cho con cái của mình, rồi chúng sẽ trao nó cho con cái của chúng, và chân lý ấy không bao giờ mai một.

Vậy giờ đây, xin thầy bộc lộ bản thân cho chúng tôi và nói cho chúng tôi mọi điều được vén lộ cho thầy về những gì giữa cõi tử sinh.

Và ông trả lời:

Hỡi dân thành Orphalese, tôi có thể nói điều gì đây ngoài những điều lúc này đang chuyển động trong linh hồn các bạn?

Về Tình yêu

Lúc ấy, Almitra thưa:

- Hãy nói cho chúng tôi về Tình yêu.

Và ông ngước mặt lên nhìn dân chúng, im lặng bao phủ mọi người. Với giọng cao cả ông nói:

Khi tình yêu vẫy gọi các bạn, hãy đi theo nó,

Dù lối nó đi trắc trở gập ghềnh

Khi đôi cánh tình yêu cuốn lấy các bạn, hãy qui thuận nó,

Dù trong lông cánh ấy giấu thanh gươm có thể làm các bạn bị thương.

Và khi tình yêu nói với các bạn, hãy tin vào nó,

Dù giọng nói của tình yêu có thể làm tan tác các giấc mộng như gió bấc tàn phá khu vườn.

Vì cho dẫu được tình yêu tấn phong lên ngai cao, nó sẽ đóng đinh các bạn trên thập giá. Cho dẫu được tình yêu làm cho lớn lên, nó sẽ khiến các bạn bị tỉa lá xén cành.

Cho dẫu tình yêu leo lên chót vót ngọn cây của các bạn và mơn trớn lá cành rung rinh trong nắng,

Nó sẽ tuột xuống tận gốc, lay động mọi rễ cái rễ con đang níu chặt lòng đất.

Tình yêu gom các bạn vào lòng như những bó lúa,

Và đập cho các bạn tróc vảy.

Tình yêu sàng sảy cho các bạn ra khỏi vỏ trấu.

Tình yêu xay xát cho các bạn sạch bóng.

Tình yêu nhào nặn cho các bạn mềm dẻo;

Và rồi tình yêu trao phó các bạn cho ngọn lửa thiêng của nó để các bạn có thể thành bánh thánh trong bữa tiệc thiêng liêng của Thượng đế.

Tình yêu sẽ làm mọi điều ấy để các bạn có thể thấu hiểu bí mật của trái tim mình, và trong thấu hiểu đó, được trở thành một mảnh trái tim của Thượng đế.

Nhưng nếu trong sợ hãi các bạn chỉ tìm kiếm yên bình hay lạc thú của tình yêu,

Lúc đó, nên che lên sự trần trụi của mình và bước ra khỏi sân đập lúa của tình yêu,

Rồi vào một thế giới không mùa, nơi các bạn sẽ cười nhưng không trọn tiếng cười và khóc nhưng không trọn nước mắt.

Tình yêu chẳng cho gì ngoài chính nó và chỉ lấy những thứ từ bản thân nó.

Tình yêu không chiếm hữu cũng chẳng bị chiếm hữu.

Vì tình yêu là đủ cho tình yêu.

Khi yêu các bạn chớ nói, 'Thượng đế đang ở trong lòng tôi,' nhưng hãy nói, 'Tôi đang ở trong lòng Thượng đế.'

Và chớ tưởng rằng các bạn có thể định hướng dòng chảy của tình yêu, vì nếu tình yêu thấy các bạn xứng đáng, nó sẽ điều khiển diễn tiến của các bạn.

Tình yêu chẳng có khát vọng nào ngoài khát vọng tự viên thành nó. Nhưng nếu các bạn đang yêu và nhất thiết phải có khát vọng, nên khát vọng các điều này:

Được tan chảy và như con suối chảy đang hát lên giai điệu của mình cho đêm.

Được biết đau khổ của sự quá đổi dịu êm.

Được bị thương bởi sự thấu hiểu của mình về tình yêu;

Và được nhỏ máu trong tự nguyện và hân hoan.

Được thức dậy lúc rạng sáng với con tim chắp cánh, đưa lời cám ơn vì có thêm một ngày yêu đương nữa.

Được nghỉ ngơi ban trưa và chiêm ngắm cơn ngất ngây tình yêu;

Được về nhà lúc chiều hôm với lòng thâm tạ;

Và được ngủ với lời cầu nguyện trong lòng cho người yêu dấu cùng khúc tụng ca trên môi.

Về Hôn nhân

Lúc ấy Almitra lại cất tiếng nói:

- Và thưa thầy, Hôn nhân là gì?

Và ông trả lời rằng:

Các bạn được sinh ra cùng nhau và sẽ ở cùng nhau mãi mãi.

Các bạn sẽ ở cùng nhau khi đôi cánh trắng của thần chết quạt tan tác ngày đời của mình.

Đúng thế, các bạn sẽ ở cùng nhau cả trong ký ức im lặng của Thượng đế.

Nhưng hãy để trong nơi các bạn đang ở cùng nhau có các khoảng cách.

Và hãy để gió các tầng trời nhảy múa giữa các bạn.

Hãy yêu nhau nhưng
đừng biến tình yêu thành dây ràng buộc
Hãy yêu nhau nhưng đừng biến tình yêu thành dây ràng buộc;

Mà tình yêu nên là đại dương chuyển động giữa đôi bờ của hai linh hồn.

Hãy rót đầy ly nhau nhưng đừng uống chung ly.

Hãy cho nhau bánh nhưng đừng ăn chung chiếc bánh.

Hãy cùng nhau mừng vui ca múa nhưng nên để mỗi kẻ một mình,

Như dây đàn đứng riêng dù rung chung điệu nhạc.

Hãy cho nhau trái tim nhưng đừng giao nhau cất giữ.

Vì chỉ bàn tay của Cuộc đời mới có thể chứa đựng trái tim các bạn.

Và hãy đứng cùng nhau nhưng đừng quá sát vào nhau:

Vì các cột đền thờ đều đứng một mình,

Và cây sồi với cây hạnh đào không lớn lên trong chiếc bóng của nhau.

Về Con cái

Và ôm trong lòng mình hài nhi, một phụ nữ thưa:

- Hãy nói với chúng tôi về Con cái.

Và ông nói:

Con cái của các bạn không là con cái của các bạn.

Chúng là con trai và con gái của Cuộc đời trong nỗi khát khao cho chính nó.

Chúng đến qua ngả các bạn nhưng không xuất phát từ các bạn,

Và chúng dù ở với các bạn nhưng không thuộc về các bạn.

Các bạn có thể cho chúng tình yêu nhưng không thể cho ý nghĩ của mình.

Vì chúng có ý nghĩ của riêng chúng.

Các bạn có thể cung cấp nơi ở cho thể xác nhưng không thể cho chúng linh hồn.

Vì linh hồn chúng ở trong ngôi nhà của ngày mai, nơi các bạn chẳng thể ghé thăm dù trong giấc mộng.

Các bạn có thể ra sức để giống như chúng nhưng đừng tìm cách làm cho chúng giống như mình.
Vì cuộc đời không đi lùi cũng chẳng lần lữa với hôm qua.

Các bạn là cây cung
Các bạn là cây cung từ đó con cái là mũi tên sống động được bắn ra.

Cung thủ ấy thấy tiêu điểm trên lối đi tới vô cùng, với sức mạnh của Ngài, kéo cong các bạn để mũi tên của Ngài có thể đi nhanh và đi xa.

Hãy hân hạnh uốn cong mình trong bàn tay Cung thủ.

Vì dù yêu mũi tên đang bay Ngài yêu cả cây cung vững chắc.

Về Cho

Lúc ấy, một người giàu thưa:

- Hãy nói cho chúng tôi về Cho.

Và ông trả lời:

Các bạn cho rất ít khi chỉ cho những vật mình sở hữu.

Chính khi cho đi bản thân các bạn mới thật sự cho.

Vì những vật sở hữu là gì ngoài những cái các bạn đang canh giữ bởi sợ ngày mai có thể cần tới chúng.

Và ngày mai, cái gì ngày mai sẽ mang lại cho con chó quá thận trọng đang vùi xương dưới cát không dấu vết khi nó đi theo người hành hương tới thành thánh?

Và sợ túng thiếu là gì nếu không phải chính là sự túng thiếu.

Há chẳng phải sợ khát khi giếng của mình đầy nước thì cơn khát không thể nào nguôi?

Có những kẻ cho rất ít trong rất nhiều cái họ có - họ cho để được công nhận - và lòng ham muốn thầm kín ấy biến cái họ cho thành của độc.

Và có những kẻ có rất ít nhưng đem cho tất cả.

Những kẻ ấy là người tin vào cuộc đời, vào sự dư dật của cuộc đời và rương của họ không bao giờ rỗng.

Có những kẻ cho với lòng hoan hỉ, và niềm vui ấy là phần thưởng của họ.

Và có những kẻ cho với lòng đau đớn, và nỗi đau ấy là lễ thanh tẩy của họ.

Và có những kẻ khi cho lòng không cảm thấy đau đớn hoặc không tìm kiếm hoan hỉ, cũng không cho với sự lưu tâm tới công quả;

Họ cho như cây hoa mia tỏa hương vào không gian trong thung lũng đằng xa.

Qua bàn tay họ Thượng đế lên tiếng, và từ đằng sau đôi mắt họ Thượng đế mỉm cười nơi trần thế.

Thật tốt lành khi cho lúc được hỏi tới nhưng nên cho lúc không được yêu cầu, cho qua lòng hiểu biết.

Và với kẻ mở rộng bàn tay, việc kiếm người nhận là niềm vui lớn lao hơn việc cho.

Liệu có cái gì các bạn nên giữ lại?

Tới một ngày nào đó mọi cái các bạn đang có sẽ bị cho đi;

Vậy hãy cho ngay lúc này để mùa cho có thể là của mình chứ không của kẻ thừa kế chúng.

Các bạn thường nói:

- Tôi sẽ cho nhưng chỉ cho người xứng đáng.

Trong vườn ăn quả của các bạn, cây cối không nói như thế, và cũng không nói như thế đàn súc vật trên đồng cỏ.

Chúng cho để sống vì giữ lại là sắp diệt vong.

Chắc chắn kẻ xứng đáng nhận ngày ngày và đêm đêm của hắn thì xứng đáng với mọi thứ khác đến từ bạn.

Và kẻ xứng đáng uống nước biển lớn cuộc đời thì xứng đáng được rót đầy ly từ con suối nhỏ nhoi của các bạn.

Và có xứng đáng nào cao cả hơn cái ở trong lòng can đảm và tự tin - hơn cả lòng từ thiện - của việc nhận?

Và các bạn là ai mà loài người nên phanh lồng ngực ra, lột chiếc mạng kiêu hãnh, để các bạn có thể thấy giá trị của họ bị phơi trần và lòng tự hào của họ không bị nao núng?
Trước tiên các bạn hãy thấy rằng bản thân mình xứng đáng là người cho và là khí cụ của việc cho.
Vì thật ra chính cuộc đời cho cuộc đời - trong khi các bạn, kẻ xem mình là người cho, chỉ là người chứng.

Và các bạn những người nhận - và tất cả đều là người nhận - đừng gánh lấy sức nặng biết ơn để khỏi đặt chiếc ách lên mình và lên người cho,

Mà hãy cùng với người cho vươn lên trên các tặng phẩm của họ như trên đôi cánh;
Vì quá băn khoăn về món nợ ấy của mình tức là ngờ vực sự quảng đại của kẻ có đất bao dung làm mẹ và Thượng đế làm cha.

Về Ăn và Uống

Lúc ấy, một người già chủ quán trọ thưa:

- Hãy nói cho chúng tôi về Ăn và Uống.

Và ông nói:

Ước gì các bạn có thể sống bằng hương của đất, và như loài cây gió được kéo dài nhờ ánh sáng.
Nhưng vì các bạn phải sát sinh để ăn và phải cướp lấy sữa mẹ của thú vật sơ sinh cho nguôi cơn khát, thế thì hãy để cho hành động ấy như một cử chỉ phụng thờ.

Và hãy để bàn ăn thành một bàn thờ trên đó tiến dâng sự thanh khiết và mộc mạc của rừng rú và đồng cỏ cho cái thanh khiết hơn và mộc mạc hơn trong con người.

Khi giết một con vật, trong lòng các bạn hãy nói với nó rằng:

'Bởi cũng một quyền năng đang giết ngươi, ta cũng sẽ bị giết; và ta cũng sẽ bị tiêu dùng.

Vì qui luật trao ngươi vào bàn tay ta cũng sẽ trao ta vào bàn tay mạnh mẽ hơn.

Máu ngươi và máu ta không là gì cả, chỉ là nhựa nuôi dưỡng cây thiên đường.'

Khi nhai nhuyển một quả táo trên răng mình, trong lòng các bạn hãy nói với nó rằng:

'Mầm của ngươi sẽ sống trong thể xác ta,

Và nụ của ngày mai ngươi sẽ nở hoa trong tâm hồn ta,

Và mùi hương của ngươi sẽ là hơi thở ta,

Và chúng ta sẽ cùng nhau vui hưởng mọi mùa.'

Vào mùa thu, khi hái quả vườn nho đem về ép rượu, trong lòng các bạn hãy nói rằng:

'Ta cũng là vườn nho và quả của ta sẽ được hái để ép thành rượu.

Và như rượu mới, ta sẽ được giữ trong chiếc bình vĩnh cửu.'

Vào mùa đông, khi rót rượu, hãy có trong lòng mình một khúc hát cho mỗi ly.

Và hãy có trong khúc hát ấy sự tưởng nhớ tới mùa thu, tới vườn nho và tới máy ép rượu.

Về Lao động

Lúc ấy, một người thợ cày thưa:

- Hãy nói cho chúng tôi về Lao động

Và ông trả lời rằng:

Các bạn lao động để bản thân có thể chung nhịp với quả đất và linh hồn của đất.

Vì ở không là thành kẻ xa lạ với các mùa và ra khỏi đám rước cuộc đời đang tiến bước về vô cùng trong uy nghi và tuân phục đầy kiêu hãnh.

Khi lao động, các bạn là cây sáo, qua lòng ống ấy, tiếng thời gian thì thầm thành âm nhạc.

Có ai trong các bạn muốn làm cây sáo lặng câm khi mọi người vang tiếng hát đồng ca?

Các bạn hằng được bảo rằng lao động là một nguyền rủa và công việc là một bất hạnh.

Còn tôi, tôi nói rằng khi lao động các bạn hoàn thành một phần giấc mơ trần thế thẳm sâu nhất, được trao cho khi nó mới nảy sinh.

Và khi hòa mình vào công việc, các bạn thật sự yêu thương cuộc đời.

Và yêu thương cuộc đời qua lao động là thân cận với cái ẩn mật sâu kín nhất của sự sống.

Nhưng nếu trong cơn quặn đau các bạn gọi sinh nở là hoạn nạn và nuôi dưỡng nhục thể là lời nguyền rủa viết trên lông mày của con người thì tôi, tôi trả lời rằng chỉ có mồ hôi trên lông mày các bạn mới rửa sạch nổi hàng chữ ấy.

Các bạn cũng hằng được bảo rằng cuộc đời này tối tăm, và trong cơn mệt nhoài, các bạn lặp lại đúng lời kẻ mệt nhoài thường nói.

Còn tôi, tôi nói với các bạn rằng cuộc đời quả thật tối tăm nếu không có giục giã.

Và mọi giục giã đều mù lòa nếu không có am hiểu.

Và mọi am hiểu đều vô ích nếu không có lao động.

Và mọi lao động đều trống rỗng nếu không có tình yêu.

Và khi lao động với tình yêu, các bạn nối liền mình vào bản thân, vào người khác và vào Thượng đế.

Và thế nào là lao động với tình yêu?

Là dệt vải với những sợi chỉ rút từ con tim như thể người mình yêu dấu sẽ mặc tấm vải đó.
Là làm nhà với lòng thương cảm như thể người mình yêu dấu sẽ ở trong ngôi nhà đó.

Là gieo hạt với dịu dàng và gặt hái với hân hoan như thể người mình yêu dấu sẽ ăn hoa trái đó.
Và hà hơi thở của linh hồn vào mọi cái mình làm ra.

Và biết rằng hết thảy những kẻ đã chết được ân phúc đều đang đứng chung quanh dõi mắt nhìn mình.

Có phải tôi thường nghe các bạn phát biểu, như đang nói trong cơn ngủ mê rằng, 'Kẻ tạc tượng cẩm thạch, tìm thấy hình bóng của hồn người trong đá thì cao nhã hơn kẻ cày xới đất đai.

Kẻ thâu bắt cầu vồng, đặt nó lên mặt vải thành mắt môi con người thì hơn kẻ đóng giày đan dép cho bàn chân chúng ta.'

Nhưng tôi, tôi nói không trong cơn ngủ mê nhưng trong giờ ban trưa rất tỉnh táo rằng gió không cất tiếng dịu dàng với cây sồi to lớn hơn với cọng cỏ nhỏ bé nhất trong mọi cọng cỏ;

Và chỉ vĩ đại kẻ nào bằng tình yêu của mình, biến tiếng gió thành bài hát dịu êm.

Lao động là tình yêu được làm cho trông thấy trước mắt.

Và nếu không thể lao động với tình yêu, mà chỉ với lòng chán ghét, các bạn nên bỏ rơi công việc, tới ngồi trước cổng đền thờ nhận đồ bố thí của kẻ đang lao động với niềm vui.

Vì nếu làm bánh với lòng thờ ơ, các bạn làm thành chiếc bánh đắng chỉ có thể nguôi môät nửa cơn đói của con người.

Và nếu nghiền nho với lòng miễn cưỡng, sự bất đắc dĩ của các bạn nhỏ chất độc vào rượu.

Và nếu ca hát như thiên thần mà trong lòng không yêu việc hát ca, các bạn đang bịt tai con người trước tiếng nói của ngày và tiếng nói của đêm.


Về Hân hoan và Phiền muộn

Lúc ấy, một người đàn bà thưa:

- Hãy nói cho chúng tôi về Hân hoan và Phiền muộn.

Và ông trả lời:

Hân hoan là Phiền muộn lộ chân tướng.

Và cùng một giếng ấy, nơi trổi lên tiếng cười cũng thường chứa đầy nước mắt của các bạn.
Và biết làm sao hơn?

Càng bị phiền muộn khắc sâu vào hữu thể, các bạn càng có thêm khả năng chứa đựng hân hoan.
Chẳng phải cái chén đựng rượu cũng chính là cái chén bị nung trong lò gốm sao?

Và chẳng phải cây hạc cầm xoa dịu tinh thần cũng chính là khúc gỗ bị khoét bằng dao sao?
Khi hân hoan, các bạn hãy nhìn sâu vào lòng mình, sẽ thấy cái từng khiến mình phiền muộn cũng chính là cái đang làm mình hân hoan.

Khi phiền muộn, các bạn hãy lần nữa nhìn sâu vào lòng mình, sẽ thấy quả thật mình đang khóc cho cái từng là hân hoan của mình.

Một số bạn nói, 'Hân hoan cao cả hơn phiền muộn,' và những bạn khác nói, 'Không, phiền muộn cao cả hơn.'

Còn tôi, tôi nói với các bạn rằng cả hai chẳng thể rời nhau.

Chúng đến cùng nhau, và khi cái này ngồi một mình với các bạn bên bàn ăn, đừng quên cái kia đang trong giường ngủ của các bạn.

Quả thật các bạn như bàn cân treo chênh vênh giữa hân hoan và phiền muộn của lòng mình.
Chỉ khi lòng trống không, các bạn mới đứng yên và thăng bằng.

Và khi đấng giữ kho báu nâng các bạn lên để cân vàng bạc của ngài, lúc đó hân hoan và phiền muộn của mỗi người mới cần phải lên cao hoặc xuống thấp.

Về Nhà cửa

Lúc ấy, một người thợ nề bước ra thưa:

- Hãy nói cho chúng tôi về Nhà cửa.

Và ông trả lời rằng:

Hãy xây bằng mộng tưởng một căn nhà nghỉ mát ngoài hoang mạc trước khi xây ngôi nhà của mình trong vòng thành đô thị.

Vì cùng chung bước trở về nhà lúc trời chiều bảng lảng là kẻ lang thang ở trong các bạn, kẻ luôn luôn cô đơn xa cách.

Nhà là thân xác rộng lớn hơn của các bạn.

Nó mọc lên trong ánh sáng mặt trời, ngủ trong tĩnh mịch ban đêm và chẳng phải không mộng mị. Phải chăng ngôi nhà không nằm mộng? Và trong chiêm bao, nó rời thành phố để vào khu rừng nhỏ hay lên đỉnh đồi?

Ước gì tôi có thể gom nhà cửa các bạn trong bàn tay mình, và y hệt người gieo hạt, tung vãi chúng trong rừng cây và ngoài đồng nội.

Ước gì các thung lũng là đường phố và các lối mòn xanh biếc là ngõ hẻm để các bạn có thể tìm nhau băng qua vườn nho và tới với nhau mang theo trong y phục mình mùi hương của đất.

Nhưng những điều ấy chưa thành hiện thực.

Trong sợ hãi, tổ tiên đã tập trung các bạn ở quá gần nhau. Và sợ hãi ấy sẽ kéo dài ít lâu nữa. Cũng ít lâu nữa vòng thành đô thị vẫn còn chia cách tổ ấm của các bạn với cánh đồng.

Và hỡi dân thành Orphalese, nói cho tôi biết các bạn đang có cái gì trong nhà mình? Và với cánh cửa khép chặt, các bạn đang canh giữ điều gì?

Có phải các bạn có bình an, một thôi thúc trầm lặng bộc lộ sức mạnh của các bạn?

Có phải các bạn có hoài niệm, những nhịp mờ ảo bắc cầu các đỉnh cao trong tâm trí?

Có phải các bạn có cái đẹp, dẫn dắt tâm hồn từ những vật làm bằng gỗ đá lên núi thánh?

Nói cho tôi biết, có phải các bạn có những cái ấy trong nhà mình?

Hay các bạn chỉ có tiện nghi, và lòng ham muốn tiện nghi khiến cho thứ thập thò đó vào nhà làm khách rồi thành kẻ tiếp khách rồi thành chủ nhân.

Thật vậy, hắn trở thành kẻ dạy thú với móc câu và roi vọt, biến các khát vọng cao cả hơn của các bạn thành những con rối.

Dù bàn tay hắn bọc nhung nhưng trái tim làm bằng sắt.

Hắn ru các bạn ngủ chỉ để đứng bên giường chế giễu chân giá trị của thân xác.

Hắn nhạo báng các giác quan lành mạnh của các bạn, đặt chúng vào mớ bông gòn phất phơ theo gió như những chiếc bình mỏng manh.

Quả thật, lòng ham muốn tiện nghi giết chết đam mê của linh hồn và rồi bước đi trong đám ma ấy với tiếng cười ngạo nghễ.

Nhưng các bạn, con cái của không gian, kẻ dù nghỉ ngơi vẫn trăn trở, sẽ không mắc bẫy hay bị thuần hóa.

Nhà của các bạn không phải mỏ neo mà là cột buồm.

Nó không phải lớp màng lấp lánh che đậy vết thương nhưng là lông mi canh giữ con mắt.

Các bạn sẽ không xếp đôi cánh lại để qua lọt khung cửa, cũng chẳng cúi thấp đầu để khỏi đụng trần, cũng chẳng ngại không dám thở e vách nhà rạn nứt đổ sập.

Các bạn sẽ không ở trong ngôi mộ được kẻ đã chết làm cho người đang sống.

Và cho dù nguy nga lộng lẫy, ngôi nhà không giữ nổi bí mật của các bạn cũng không là nơi ẩn náu cho khát vọng của các bạn.

Vì cái vô biên vô tận trong các bạn đang ở trong lâu đài trên trời cao với cửa lớn là sương mù ban mai và cửa sổ là những bài ca và lớp lớp thinh lặng ban đêm.

Về Quần áo

Và một người thợ dệt thưa:

- Hãy nói cho chúng tôi về Quần áo.

Và ông trả lời:

Quần áo che phần lớn vẻ đẹp của các bạn tuy không giấu nổi vẻ không đẹp.

Nhưng dù tìm nơi quần áo sự tự do riêng tư, các bạn cũng có thể thấy trong chúng có xích xiềng cương toả.

Ước gì da các bạn đến với nhiều nắng gió và ít vải vóc hơn.

Vì hơi thở sự sống ở trong nắng và bàn tay sự sống nằm trong gió.

Trong các bạn, một số người nói, 'Chính gió bấc dệt nên quần áo chúng ta mặc.'

Và tôi nói, Đúng thế, chính gió bấc.

Nhưng hổ thẹn là khung cửi và nhu nhược của đường gân là sợi chỉ của nó.

Và sau khi làm xong việc ấy, nó cười thành tiếng ở trong rừng.

Đừng quên rằng khiêm tốn chỉ là chiếc mộc che mắt kẻ ô uế.

Và khi không còn kẻ ô uế, khiêm tốn chỉ là chiếc còng và là hành động kinh tởm của tâm trí.

Đừng quên rằng đất sướng vui khi cảm giác bàn chân trần và gió khao khát nô đùa với tóc của các bạn.

Về Mua và Bán

Và một thương gia thưa:

- Hãy nói cho chúng tôi về việc Mua và Bán.

Và ông nói:

Đối với các bạn, đất sinh hoa trái và các bạn sẽ chẳng màng nếu không biết cách làm đầy hai bàn tay mình.

Chính trong việc trao đổi tặng phẩm của đất các bạn mới tìm thấy sự dư dật và được toại nguyện.

Nhưng nếu sự trao đổi ấy không diễn ra trong yêu thương và công bình tử tế, chỉ khiến một số người sinh lòng tham và những kẻ khác lâm cơn đói khát.

Ở giữa chợ, khi người lao nhọc trên biển và nơi đồng ruộng gặp người thợ dệt, thợ gốm và kẻ thu thập hương liệu,

Lúc đó hãy cầu khẩn thần đất hiện lên giữa mọi người, thánh hóa cái cân và việc đong đếm để những đo lường giá trị không ngược với giá cả.

Và đừng để dự phần thương lượng giao dịch những kẻ bàn tay trống trơn, đem lời nói đổi lấy công lao khó nhọc của các bạn.

Các bạn nên bảo họ rằng:

'Hãy đến với chúng tôi nơi đồng ruộng, hãy đi với người anh em của chúng tôi ra biển cả và hãy tung chiếc lưới của các ngươi;

'Vì đất cùng biển sẽ hào phóng với các ngươi chẳng kém với chúng tôi.'

Và nếu có đến những người ca hát, người thổi sáo và người nhảy múa - các bạn hãy mua luôn tặng phẩm của họ.

Vì họ cũng là kẻ thu thập hoa trái và hương trầm, những cái họ mang đến - được tạo thành từ các giấc mơ - là y trang và lương thực cho linh hồn các bạn.

Và trước khi rời chợ, các bạn đừng để có kẻ ra về với hai bàn tay không.

Vì thần đất sẽ chẳng ngự bình an trên gió nếu kẻ có nhu cầu tối thiểu không được toại nguyện.

Về Tội ác và Trừng phạt

Lúc ấy, một thẩm phán trong thành đứng ra thưa:

- Hãy nói cho chúng tôi về Tội ác và Trừng phạt.

Và ông đáp lại rằng:

Chính khi tinh thần các bạn đi lang thang theo gió,

Khiến các bạn lẻ loi trơ vơ, phạm điều lầm lỗi với người khác, và do đó với bản thân mình.

Và vì điều lỗi lầm đã phạm các bạn phải gõ cửa rồi chờ một lúc, chẳng ai đoái hoài, tại cổng của kẻ được ân phúc.

Y hệt biển, thần ngã nội tại của các bạn,

Vẫn tinh khiết như tự bao giờ.

Và y hệt thanh khí, nó chỉ nâng lên cái được chắp cánh.

Thần ngã nội tại của các bạn cũng y hệt mặt trời,

Nó không biết tới ngách chuột cũng chẳng tìm nơi hang rắn.

Nhưng trong hữu thể của các bạn thần ngã nội tại không ở một mình.

Trong bản thân các bạn, có nhiều cái vẫn là con người và có nhiều cái chưa là con người.

Nhưng yêu tinh nội tại không hình thù của các bạn đi ngái ngủ trong sương mù đang tìm cách thức dậy,

Và con người ấy trong các bạn mà lúc này tôi muốn nói tới.

Vì chính hắn, chứ chẳng phải thần ngã nội tại cũng chẳng phải yêu tinh nội tại, chính hắn mới là kẻ biết tới tội ác và biết tới hình phạt phải đền.

Tôi thường nghe các bạn nói tới kẻ phạm lỗi lầm như thể hắn không là một người trong các bạn mà là kẻ lạ đối với các bạn và là kẻ xâm nhập thế giới của các bạn.

Còn tôi, tôi nói rằng ngay cả người thánh thiện và công chính cũng không thể vươn lên quá mức cao nhất có trong mỗi người các bạn.

Như thế, kẻ độc dữ và kẻ yếu đuối cũng không thể rơi xuống thấp hơn mức thấp nhất cũng có trong mỗi người các bạn.

Và như chiếc lá đơn lẻ không ngã màu vàng nếu không có sự am hiểu thầm lặng của tất cả cây,

Cũng thế, người sai phạm không thể làm điều lầm lỗi nếu không có ý muốn thầm kín của tất cả các bạn.

Như một đám rước, các bạn đi cùng nhau về phía thần ngã nội tại của mình.

Các bạn là đường đi và là kẻ đi đường.

Và khi một kẻ trong các bạn ngã xuống, hắn ngã cho những kẻ đi đằng sau hắn, một lời cảnh báo về hòn đá va vấp.

Và còn nữa, dù lời này làm nặng trỉu tâm hồn các bạn:

Người bị giết không phải không chịu trách nhiệm về vụ giết mình,

Và người bị cướp không phải không đáng bị qui trách trong việc bị cướp.

Người công chính không phải vô tội đối với hành động của kẻ độc dữ,

Và người bàn tay sạch không sạch trước những việc làm của kẻ phạm tội.

Đúng thế, thông thường kẻ có tội là nạn nhân của người bị làm hại.

Và thông thường nữa, kẻ bị kết án là kẻ mang gánh nặng cho người không có tội và người không bị qui trách.

Các bạn không thể tách riêng người đúng với kẻ sai, người thiện với kẻ ác.

Vì họ cùng đứng với nhau trước vầng mặt trời, như sợi chỉ đen cùng sợi chỉ trắng được dệt quyện vào nhau.

Và khi sợi chỉ đen đứt, thợ dệt sẽ xem tất cả khúc vải và đồng thời rà soát khắp cả khung cửi.
Nếu có ai trong các bạn muốn đem xét xử một người vợ bất trung,

Kẻ đó cũng nên đặt trái tim của chồng nàng trên bàn cân và đo lường kích thước của linh hồn hắn.

Và hãy để người muốn đánh đòn kẻ phạm tội nhìn vào linh hồn của người bị xúc phạm.

Và nếu có ai trong các bạn muốn nhân danh công chính mà trừng phạt và đặt lưỡi cưa lên thân cây độc dữ, hãy để kẻ đó xem các rễ cây,

Và quả thật, hắn sẽ thấy rễ của thiện và ác, của sum sê và cằn cổi, tất cả quyện vào nhau trong lòng đất im lặng.

Và các bạn thẩm phán, những kẻ hẳn đúng.

Các bạn sẽ tuyên lời phán quyết nào trên người tuy lương thiện trong thể xác nhưng là kẻ cắp trong tinh thần?

Các bạn sẽ ra hình phạt nào cho kẻ giết người trong thể xác nhưng là người bị giết trong tinh thần?

Và làm thế nào các bạn truy tố kẻ là một tên dối trá và là một gã áp bức đang hoạt động,
Nhưng lại là một người khổ sở và bị sỉ nhục?

Và làm thế nào các bạn trừng phạt kẻ mà sám hối đã lớn lao hơn hành động xấu xa của hắn?

Chẳng phải sám hối là công lý, cái được thực thi bởi chính luật pháp các bạn sẵn lòng phục vụ sao?

Thế nhưng các bạn không thể ra án sám hối cho người vô tội cũng như cất bỏ nó khỏi tâm hồn kẻ phạm tội.

Nó sẽ tự mình cất tiếng gọi trong đêm để con người có thể tỉnh giấc, đưa mắt đăm đăm nhìn bản thân.

Và các bạn, những kẻ am hiểu công lý, các bạn sẽ làm thế nào nếu không nhìn thấy mọi hành động dưới ánh sáng đầy đủ?

Chỉ lúc đó các bạn mới có thể hiểu rằng người kiên định và người sa ngã hoàn toàn chỉ là một con người đang đứng trong trời chạng vạng giữa ban đêm của yêu tinh nội tại và ban ngày của thần ngã nội tại của hắn,

Và hiểu rằng viên đá đặt nền của đền thờ không cao hơn viên đá thấp nhất trong nền móng của nó.

Về Luật pháp

Lúc ấy, một luật sư nói:

- Nhưng còn về Luật pháp của chúng ta thì sao, thưa thầy.

Và ông đáp:

Các bạn vui mừng khi đặt ra luật pháp,

Thế nhưng các bạn mừng vui hơn khi vi phạm nó.

Y hệt trẻ em đang chơi bên bờ biển, xây lâu đài cát rồi phá hủy với tiếng cười rộn rã.

Nhưng trong khi các bạn xây lâu đài cát, biển mang thêm cát vào bờ, và khi các bạn phá hủy nó, biển cũng cất tiếng cười với các bạn.

Quả thật biển lúc nào cũng cất tiếng cười với người hồn nhiên.

Nhưng còn về những kẻ cuộc đời không là biển và luật pháp do con người làm ra không là lâu đài cát,

Đối với họ cuộc đời là tảng đá và luật pháp là dùi đục, họ dùng để tạc vào đó chân dung của mình thì sao?

Còn về những kẻ què quặt ghét người nhảy múa thì sao?

Còn về con bò yêu thương cái ách của nó, cho rằng hươu nai trong rừng là thứ lang thang lạc bầy thì sao?

Còn về con rắn già nua không thể lột vỏ, xem những con rắn khác là trần truồng không biết hổ thẹn thì sao?

Và còn về kẻ tới sớm trong tiệc cưới, khi đã no nê cùng thấm mệt, vừa bỏ về vừa nói rằng hết thảy tiệc tùng đều phạm luật và hết thảy người dự tiệc đều phạm pháp thì sao?

Tôi biết nói gì về những kẻ ấy nếu không bảo rằng họ cũng đứng trong nắng nhưng quay lưng về phía mặt trời?

Họ chỉ thấy chiếc bóng của mình và chiếc bóng ấy là luật pháp của họ.

Mặt trời là gì đối với họ ngoài việc tạo ra những chiếc bóng?

Và đối với họ việc công nhận luật pháp hoàn toàn chỉ là cúi xuống nhìn theo chiếc bóng của mình dưới đất?

Nhưng các bạn, kẻ bước đi thẳng mặt với mặt trời, hình ảnh nào vẽ dưới đất giữ nổi đôi bàn chân mình?

Các bạn, kẻ du hành với gió, chong chóng xem chiều gió nào định hướng nổi lối mình đi?

Và luật lệ nào của con người ràng buộc nổi nếu các bạn bẻ gãy ách của mình nhưng không trên cửa nhà tù của người khác?

Và luật lệ nào các bạn sợ hãi nếu mình nhảy múa nhưng không vấp vào xiềng xích của người khác?

Và kẻ nào sẽ mang các bạn ra xét xử nếu mình tự xé tan quần áo nhưng không để nó trên lối đi của người khác?

Hỡi dân thành Orphalese, các bạn có thể hãm tiếng trống, làm chùng dây đàn, nhưng ai có thể ra lệnh cho chim đừng hót?

(còn tiếp)
Kahlil Gibran
Nguyễn Ước dịch

Chiều cuối năm 2010

Thế rồi một năm cũng trôi qua mau theo bao nỗi đắng cay của cuộc đời. Ngoài kia, đám trẻ nhỏ nô đùa như không có một chút ưu tư, nhọc nhằn trên kiếp sống con người trong một xã hội chỉ có tham ác và bạo tàn.Một vài chiếc xe vội vã đi về cuối phố, một đám thanh niên nghêu ngao giữa đường với chút men rượu để quên đi những ngày dài trong các nhà máy của cuộc đời công nhân xã hội chủ nghĩa.
Ngồi một mình mà như thấy cả hư không, hoàng hôn xuống chậm mang theo về quá khứ của một kiếp người trót lỡ sinh ra nhằm thời với chủ nghĩa cộng sản. Trải qua những cuộc chiến dai dẳng mang đầy tội lỗi và phi lý; tuổi trẻ chúng tôi đã bị lãng quên như những chiếc lá rừng chiều thu. Bao nhiêu người dã ra đi khi chưa biết cuộc đời là gì cho một lũ người mất hết nhân tính. Chúng nó ngồi xổm trên các xác đồng bào ruột thịt để hưởng lấy ba vinh hoa. Một quá khứ bi thảm cho thế hệ chúng tôi.
Tổ quốc - Dân tộc  chỉ là những mỹ từ để lừa đảo chính những người dân trên đất nước này. Biết bao nhiêu thể chế đã đến và ra đi nhưng đã đem lại cho dân chúng tôi được chút gì Tự Do - Bình Đẳng.