20/11/10

TẠI SAO CỘNG SẢN LẠI PHẢI BẮT KHẨN CẤP TS CÙ HUY HÀ VŨ?


Có lẽ trong những ngày đầu tháng 11 năm 2010, không có vụ việc nào gây xôn xao dư luận trong nước cũng như hải ngoại bằng vụ việc Cù Huy Hà Vũ bị Cộng Sản “gài độ” để bắt khẩn cấp. Nhiều bài báo mang tính đùa cợt thì cho rằng “Cù Huy Hà Vũ” thọc léc nhà cầm quyền nhiều lần quá rồi, nên họ chịu không nổi, phải bắt ông. Những tờ báo nghiêm chỉnh hơn thì phân tích các sự việc liên quan đến vụ ông bị bắt dưới con mắt pháp lý và kết luận rằng Nguyễn Tấn Dũng đã cho công an dựng lên một màn kịch quá vụng về để bắt một người cả gan dám thưa kiện mình, làm cho mình mất mặt trước quốc tế, cũng như mất uy tín với đồng bọn và đàn em. Hơn nữa, sự kiện Cù Huy Hà Vũ dám khởi kiện Thủ Tướng có thể đưa đến môt loạt dây chuyền cách mạng nguy hiểm cho chể độ. Nhiều loạt bài phỏng vấn qua truyền thanh với bà vợ của ông, Luật Sư Nguyễn Thị Dương Hà, cho thấy rằng đây chỉ là một trong nhiều phương pháp mà nhà cầm quyền Cộng Sản vẫn áp dụng để bịt miệng những ai dám có ý kiến Dân Chủ. Luật Sư Trần Đình Triển, người được mời bào chữa cho Cù Huy Hà Vũ, trong lần trả lời phỏng vấn của đài VOA, lại bi quan cho rằng ông sẽ thua trong vụ kiện này, vì “Những lời anh công khai như thế, dân rất mến mộ anh, hợp lòng dân chứ không hợp VÀI BA NGƯỜI VỚ VẨN. Nhưng nhớ là NHỮNG NGƯỜI VỚ VẨN đó là những người đứng trên cả pháp luật. Trong một xã hội độc tài, thì anh phải chết thôi!”

Thực sự, Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ là ai và đã làm những việc gì khiến anh “phải chết thôi”?

Về gia thế, ông là con trai của nhà thơ Huy Cận và vừa là cháu ruột vừa là con nuôi của nhà thơ Xuân Diệu. Cù Huy Cận có bằng Tú Tài Pháp, từng học trường Cao đẳng Canh nông và là bạn thân cùng một nhà với nhà thơ Xuân Diệu. Sau năm 1942, ông tham gia Mặt trận Việt Minh. Tháng 8 năm 1945, Cù Huy Cận là một trong ba thành viên của phái đoàn Việt Minh gồm Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đi vào Huế để nhận lễ thoái vị của Vua Bảo Đại và tự tay tiếp nhận ấn, kiếm của Bảo Đại. Sau đó, Cù Huy Cận làm Bộ trưởng Bộ Canh nông của Hồ Chí Minh, rồi làm Ủy viên Ban thanh tra đặc biệt, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin, tiếp theo là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt NamĐại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII. Với gia thế như vậy, Cù Huy Hà Vũ là một hậu duệ của các công thần của chế độ Cộng Sản.

Về bản thân, Cù Huy Hà Vũ từng du học tại Pháp và tốt nghiệp Học viện Hành chính công, đậu bằng Thạc sĩ văn chương Pháp, Tiến sĩ Luật ở đại học Sorbonne. Ngoài ra, ông còn là họa sĩ, Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam. Vợ ông, luật sư Nguyễn Thị Dương Hà làm trưởng văn phòng Luật Cù Huy Hà Vũ tại Hà Nội.
Vụ kiện đầu tiên làm Cù Huy Hà Vũ nổi danh là năm 2005, ông kiện Ủy Ban Nhân Dân Thừa Thiên – Huế về việc cho phép xây dựng khách sạn Life Resort trên đồi Vọng Cảnh, với lý do “đồi Vọng Cảnh là di tích văn hóa bất khả xâm phạm, đã được chính quyền xếp vào danh sách các danh thắng và di tích cần bảo vệ.” Vụ kiện kiên trì này của Cù Huy Hà Vũ đã thắng lợi. Tỉnh Thừa Thiên – Huế đã phải tiếc rẻ một số tiền “thủ tục đầu tiên” lớn lao mà bỏ dự án.

Vụ kiện thứ hai thì ông bị thất bại khi kiện một nhạc sĩ đặt lời cho một bản nhạc của Mozart. Ông nói nhạc sĩ đã vi phạm luật tác quyền, đặt lời cho một bản nhạc không được phép của tác giả: “Nhạc của Mozart là đỉnh cao của âm nhạc. Người ta đang ở “cao”, mình kéo xuống “bình dân” là phá hoại văn hóa. Vụ này ông bị thua vì không quan tòa nào có trình độ để hiểu rõ ý tưởng của ông.

Năm 2006, ông lại làm một việc gây khó chịu cho nhà cầm quyền Hà Nội. Tuy không phải đảng viên, ông đã nộp đơn tự ứng cử chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin. Dựa vào điều 53 Hiến Pháp quy định “mọi người dân đều có quyền quản lý đất nước”, ông đòi phải cho ông ứng cử vào cơ quan hành pháp. Dĩ nhiên, việc làm này của ông chỉ nhằm chọc ghẹo chính quyền, chứ không có cơ hội thắng.

Vụ kiện gây nhức đầu nhất cho nhà cầm quyền là kiện chính Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về việc ký quyết định cho phép Trung Quốc khai thác quặng bauxit ở Tây nguyên. Cù Huy Hà Vũ cho rằng Dũng đã vi phạm “luật bảo vệ môi trường, luật bảo vệ di sản văn hóa, luật quốc phòng, và luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.” Là người lo lắng cho vận mệnh của đất nước, Cù Huy Hà Vũ khẳng định việc cho phép Trung Cộng khai thác bauxite tại địa bàn chiến lược Tây Nguyên chỉ là “trá hình cho việc Trung Quốc xâm lược cả “mềm” lẫn “cứng” lãnh thổ của Việt Nam.”

Lại dĩ nhiên, không một giới chức có thẩm quyền nào dám đụng đến vụ này. Vì thế, Cù Huy Hà đã bung ra cho tất cả thế giới biết. Ông trả lời các cuộc phỏng vấn của các đài quốc tế, và các đài Việt Nam, trong đó có đài truyền hình SBTN (1), đài Little Saigon Radio, miền Nam California(1) và đài Từ Cánh Đồng Mây, Dallas, Texas(2). Ông luôn xác định là không ai có quyền làm ngơ trước pháp luật, “nguyên tắc của pháp luật là ai có hành vi trái pháp luật thì sẽ là đối tượng có thể bị khởi kiện”, và “Hiến pháp Việt Nam đã quy định rằng tất cả mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thì không thể nói ông cấp này thì bị kiện, cấp khác không thể bị kiện.”

Những lời nói đầy chí khí mạnh mẽ như thế đã làm cho Nguyễn Tấn Dũng muốn điên lên, mất kiểm soát, đã ra lệnh cho Chủ Tịch Phường nơi ông cư ngụ mang lính lác đến đập phá tường nhà ông. Nhưng có lẽ vì bị sự phản đối mãnh liệt của ông, ngay buổi chiểu hôm đó, chính tay Chủ tịch Phường lại mang quân tới, xin lỗi ông và lập tức sửa lại tường nhà ông.

Chưa thể ngưng lại tư tưởng Tự Do, Dân Chủ, và Nhân Quyền, ngày 14 tháng 9, năm 2010, Cù Huy Hà Vũ lại kiện Nguyễn Tấn Dũng về việc ban hành nghị định cấm công dân không được khiếu nại tập thể. Ông cho rằng việc cấm như thế là trái với Hiến pháp và pháp luật tuy rằng ông biết rõ, Nguyễn Tấn Dũng làm thế để chặn Dân Oan không cho cất lên tiếng nói của mình khi bị nhà cầm quyền trù dập. Trong nhiều năm qua, người Dân Oan từ khắp 64 tỉnh thành, từ Bắc vào Nam, đã liên tục xuống đường, khóc la, lăn lộn, khiếu nại việc nhà cửa, đất đai họ bị cường quyền chiếm đoạt một cách tàn nhẫn. Sự việc này gây chấn động lương tâm nhân loại, nên Nguyễn Tấn Dũng phải ra một chỉ thị cấm Dân Oan không được viết đơn kiện tập thể, với ý định bắt Dân Oan đi kiện lẻ tẻ từng người một để công an dễ bóp cổ. Cù Huy Hà Vũ đã nhìn thấy âm mưu của Nguyễn Tấn Dũng và đồng bọn, nên đã viết đơn kiện. Vụ kiện chìm trong tiếng khóc của Dân Oan, không một ai dám chấp đơn.

Hành động dũng cảm của Cù Huy Hà Vũ không dừng ở trong phạm vi chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, ông còn nhìn ngược lại lịch sử để khiếu tố nhà cầm quyền Cộng Sản đã cam tâm làm nô lệ cho ngoại bang. Trong một cuộc phỏng vấn từ đài Little Saigon Radio (1) trước khi bị bắt, Cù Huy Hà Vũ cho biết ông đã yêu cầu Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, Chủ Tịch Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết lập tượng đài ghi công cho 58 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong cuộc chiến Vệ Quốc, bảo vệ Hoàng Sa, vì trong hiến pháp đã ghi rõ những ai hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ chủ quyền đất nước phải được ghi công như những liệt sĩ. Ông nói “58 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa thực sự đã hy sinh trong cuộc chiến vệ quốc này, chống lại sự xâm lăng của Trung Cộng, họ phải được ghi công như những liệt sĩ, và phải được dựng tượng.” Ông còn nói mạnh hơn nữa: “Nếu họ không chịu ghi công anh hùng liệt sĩ cho 58 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa thì Nguyễn Tấn Dũng phản quốc, Nông đức Mạnh phản quốc, Nhà nước phản quốc, Quốc Hội phản quốc….”

Cũng trong cuộc phỏng vấn khác của đài Little Saigon Radio (1), ông khẳng định việc cưỡng chế cướp nhà cướp đất của Dân Oan không phải là một hiện tượng nhỏ lẻ mà là một thực tế công khai, hiển nhiên diễn ra trên toàn bộ đất nước. Cán bộ, chính quyền tha hồ làm mưa làm gió trên tài sản của nhân dân, bán đất bán nước.

Cù Huy Hà Vũ còn kiên quyết hơn khi đòi xóa điều 4 Hiến pháp. Trong một lần trả lời phỏng vấn của đài VOA, hiện còn đăng trên mạng Internet, nguyên văn lời ông phát biểu với đài VOA:
-”Nguyên nhân của quái trạng pháp luật ở Việt Nam chính là sự độc quyền lãnh đạo đất nước của Đảng cộng sản được Hiến pháp ghi ở Điều 4.”
-”Tòa án không dám xử quan chức chính quyền, Quốc hội không dám giải tán Chính phủ tham nhũng và yếu kém là vì cả Lập pháp, Tư phápHành pháp chỉ là công cụ cai trị của Đảng cộng sản chứ không phải là công cụ quản lý quốc gia, quản lý xã hội của nhân dân.”
-“Với truyền thống mỵ dân bằng ngôn từ, ban lãnh đạo Đảng cộng sản đã sáng tác ra một công thức gồm ba vế hòng thay thế “Tam quyền phân lập”: đó là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.”
-“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” thực chất là “Đảng lãnh đạo, Đảng quản lý, Đảng làm chủ”. Vậy nói thể chế chính trị ở Việt Nam không phải là chế độ dân chủ mà là chế độ toàn trị bởi Đảng cộng sản là tuyệt đối chính xác!”
-”Không có Đảng cộng sản Việt Nam thì Độc lập dân tộc và Thống nhất đất nước vẫn cứ đến với người Việt Nam như lịch sử đã minh chứng trong suốt hai nghìn năm qua… Chắc chắn, Hai Bà Trưng, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ không phải là Tổng bí thư hay ủy viên trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khi tiến hành thành công các cuộc chiến tranh đánh đuổi quân xâm lược phong kiến Trung Hoa để dành Độc lập dân tộc hay để thống nhất đất nước.”
-”Ở Việt Nam sau năm 1975, Đảng cộng sản đã thực hiện “chủ nghĩa xã hội trại lính” với kết quả là ăn mày đầy đường…”
-”Quy chế “lãnh đạo suốt đời” của Đảng cộng sản Việt Nam được cụ thể hoá bằng Điều 4 Hiến pháp là nhằm bảo đảm cho ban lãnh đạo đảng không bị thách thức trong việc bỏ túi tài sản quốc gia.”
-Về việc Chủ tịch Nguyễn Minh Triết có nói đại ý là “Bỏ Điều 4 Hiến pháp là tự sát”: “Vấn đề là ai “tự sát” trong phát biểu này của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, là dân tộc Việt Nam hay Đảng Cộng sản Việt Nam? Nếu đó là “dân tộc Việt Nam” thì phát biểu này là hoàn toàn ngô nghê, ngớ ngẩn vì dân tộc Việt Nam tồn tại từ 4000 năm nay trong khi Điều 4 Hiến pháp Việt Nam mới tồn tại non hai thập kỷ nay, từ 1992.” “Vậy chỉ còn khả năng chủ thể của “tự sát” trong phát biểu của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết là “Đảng Cộng sản Việt Nam”. Tuy nhiên trong một chế độ dân chủ ai mà nói đảng cầm quyền rời bỏ vị trí đang nắm giữ là “tự sát” ắt bị trẻ nó cười vào lỗ mũi. Thế nên một âm hưởng “sợ chết” đến như vậy chỉ có thể toát ra từ những bạo chúa, từ những kẻ cầm quyền phạm tội ác chống lại chính dân tộc, chống lại chính nhân dân mình! Vậy phải chăng Đảng cộng sản Việt Nam hay chính xác hơn, ban lãnh đạo đảng thuộc trường hợp này?”
-“Bằng tham nhũng siêu nghiêm trọng từ tham ô trực tiếp tài sản quốc gia đến vay bừa tiêu vung để nhiều thế hệ người dân sẽ phải è cổ trả nợ, bằng cướp đất của người dân, đặc biệt của nông dân tràn lan kiểu “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”, bằng bóp nghẹt những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp bảo hộ các quyền tự do như quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận, quyền được thông tin, quyền biểu tình, quyền đình công, quyền giữ gìn nơi thờ tự của các tín ngưỡng…, ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam rõ ràng đang đi ngược 180 độ lợi ích của dân tộc và toàn thể nhân dân Việt Nam.”

Với những tư tưởng trong sáng, công minh, chính trực, đầy nhiệt huyết của một người trí thức yêu nước như thế, đảng Cộng Sản bắt buộc phải ra tay. Ngày 6 tháng 11, Cơ quan an ninh điều tra – Bộ Công an họp báo cho biết ông Cù Huy Hà Vũ đã bị bắt trong một màn kịch quá tệ. Khởi đầu về tội “mua dâm”, sau lại chuyển sang tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” , và bịa đặt, xuyên tạc sự thật lãnh đạo và quản lý của Nhà nước, Chính phủ, gây hoang mang trong nhân dân, kích động, cổ súy, hô hào chống Nhà nước” và “vu khống, xúc phạm danh dự các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chính quyền”.
Hiện nay, bà Hồ Lê Như Quỳnh, người bạn đã có mặt trong phòng khách sạn với Cù Huy Hà Vũ đang làm đơn kiện nhà nước về tội vu cáo, làm mất danh dự của cô. Luật sự Nguyễn Thị Dương Hà, vợ ông, cũng làm đơn khởi kiện nhà nước. Các tổ chức Nhân Quyền, các chính trị gia quốc tế, Human Right Watch cũng đòi thả tự do cho ông.

Dư luận đang chờ xem nhà cầm quyền Hà Nội tiếp tục chơi trò du đãng vô pháp vô thiên với nhân dân của chính họ và với Người Hùng Cù Huy Hà Vũ. Nhưng theo luật Trời, nhất định chính nghĩa sẽ thắng gian tà. Bạo quyền Cộng Sản rồi sẽ phải lùi bước trước sự phát triển của trí tuệ nhân loại.
Chu Tất Tiến.

Hà Minh Thành nói...

Thứ 6 tuần rồi tui có đi dịch cho anh Tô Huy Rứa ở Nhật khi anh Rứa đi hội kiến với ông tỉnh trưởng tỉnh Nara của Nhật. Nói thật tui đi dịch cho quan chức cao cấp của VN khi sang Nhật cũng nhiều nhưng chưa thấy ai dốt như anh Rứa này.

Hội kiến với nhau mà ông tỉnh trưởng của Nhật ngồi nói chuyện còn anh Rứa trả lời bằng cách cầm tờ giấy ai đó viết sẵn để đọc. Ông tỉnh trưởng Nhật chào là

"Tôi nghe tiếng tiên sinh là Trưởng ban lý luận Trung ương Đảng CSVN, rất hân hạnh được tiên sinh ghé thăm tỉnh của tôi và diện kiến, tôi là một người thích về triết học Mác,hân hạnh được nghe tiên sinh chỉ giáo.

Anh Rứa nghe mình dịch xong cầm tờ giấy viết sẵn lên đọc tự giới thiệu một hơi nào là Trưởng ban lý luận Trung Ương Đảng , Ủy viên Bộ Chính trị, tiến sĩ Triết học , chiu trách nhiệm xây dựng hệ thống tư tưởng lý luận cho Đảng CSVN v.v.. dài khoảng 15 phút, dài quá nhớ cũng không hết trong đó mình nhớ chỉ có cái đoạn chúng tôi kiên định lập trương xây dựng xã hội chủ nghĩa với giai cấp công nhân làm nòng cốt ....nói tóm lại là mình cũng chẳng biết là anh đang nói chuyện chào hỏi xã giao với quan chức ngoại quốc ở Nara hay là đang đọc diễn văn báo cáo chính trị tại Hội trường Ba Đình. Đang nhắm mắt nhắm mũi dịch cái bài diễn của anh Rứa đọc thì đột nhiên thằng cha tỉnh trưởng Nara lên tiếng ngắt lời: "Tiên sinh nói rằng Đảng CSVN kiên định lập trường xây dựng chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân làm tiên phong nòng cốt thì tôi còn hiểu nhưng mà cái câu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì vậy. Theo tôi kinh tế thị trường tức là theo nền kinh tế tự do của Tư bản chủ nghĩa mà theo nền kinh tế thị trường tức là phủ nhận toàn bộ các giá trị học thuyết của Mác, khi đã chấp nhận cho dân làm giàu thì đồng nghĩa chấp nhận sự bóc lột sức lao động theo cách nói của Mác. Mà đã chấp nhận sự bóc lột giai cấp công nhân thì tức là đã cho toàn bộ lý luận đầy tính nhân văn của Mác vào sọt rác rồi. Mà đã cho lý luận Mác vào sọt rác thì còn kiên định trên con đường theo Mác là nghĩa làm sao. Tiên sinh nói mâu thuẫn quá tôi thật sự không thể lý giải được."

Tới đây thì anh Rứa hết bài nói nên nói đại là con đường của Đảng CSVN đi đang được chứng minh bằng sự thành công của Trung Quốc.

Nghe tới đó thì thằng cha tỉnh trưởng Nara cũng ngán tới cổ rồi. Mình ngồi bên nói thêm cho ông ta bằng tiếng Nhật " Ông không biết thôi, dân VN tui nói thằng này là thằng ngu nhất nước Việt. Cả 80 triệu người Vn đều biết con đường XHCN là con đường thê thảm, chỉ có thằng này nó không biết mà thôi. Ông làm ơn đừng có nói chuyện Triết học làm quái gì với thằng này, tiến sĩ giấy đó ông ơi. Ông hỏi một hơi nữa nó mắc cỡ vì bị lộ tẩy cái dốt và xạo đó thì khó nói chuyện tiếp."

Ông tỉnh trưởng nghe xong cười tủm tỉm nói không biết cho mình hay cho anh Rứa "Tiếc rằng Nhật bản không có một hội đồng lý luận trung ương vạch ra đường đi cho dân chúng. Hy vọng lần sau có cơ hội gặp tiên sinh nhờ chỉ giáo thêm."

Nghe tới đây mình nói với anh Rứa "Tui ở Nhật lâu , Nhật bổn mà nó nói kiểu vuốt lưng như vầy là nó hết muốn nói chuyện với mình rồi đó. Nói gì lẹ lẹ rồi đi mẹ nó cho rồi. " . Anh Rứa hơi quê ,kể cũng tội nghiệp, ở Vn anh nói chuyện kiểu học thuộc lòng với dân quen rồi, đâu có thằng nào dám ngắt ngang lời anh, không ngờ bị thằng Nhật bổn nó phang ngang một phát , còn bị nó tỏ ý khinh rẻ nữa làm anh hết đường đỡ. Tụi Nhật đang ghét Trung Quốc tới cổ, anh lại đem Trung Quốc ra mà khen thì không biết anh có được ai dạy cho học về ngoại giao khi ra nước ngoài hay không?.

Mình về tới khách sạn nằm ngủ mà nghĩ tới cuộc họp đó mà mắc cười. Biết vậy từ chối từ đầu khỏi đi cho khỏi nhức đầu.

19.11.2010

Cái chết trong tù CS của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát

Tác Giả : Nguyễn Tú   
Thứ Năm, 18 Tháng 11 Năm 2010 11:35

Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.
Bác Sĩ Phan Huy Quát sinh năm 1908 tại Nghệ Tĩnh, tham chính nhiều lần, từng làm Tổng Trưởng Giáo Dục, Tổng Trưởng Quốc Phòng, lần cuối cùng giữ chức vụ Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa, vào năm 1965. Ông cũng là Chủ tịch Liên Minh Á Châu Chống Cộng, phân bộ Việt Nam, và là chủ nhiệm tuần báo Diễn Ðàn, Sài gòn, 1972. Ngày 16 Tháng Tám 1975 Bác Sĩ Quát bị Cộng Sản bắt do nội phản trên đường vượt biên; và chưa đầy bốn năm sau ông từ trần trong nhà tù Chí Hòa. Bài dưới đây do ký giả kỳ cựu Nguyễn Tú, bạn ông, và cũng là bạn tù (người đã sống bên cạnh Bác Sĩ Quát trong những ngày tháng và giờ phút cuối cùng tại khám Chí Hòa), kể lại "như một nén hương chiêu niệm chung."

Trong thời gian bị cầm tù, Bác Sĩ Quát bị bệnh gan rất nặng song Việt Cộng không cho chữa chạy, thuốc men do gia đình tiếp tế không được nhận. Người con trai út bị giam ở phòng bên, có thuốc cho bố, cũng không làm sao mang sang. Khi biết ông không thể nào qua khỏi, chúng mới đem ông lên bệnh xá. Ông chết ở đó vào ngày hôm sau, 27 Tháng Tư 1979.
Tang gia đã được phép để mang thi hài ra quàn tại chùa Xá Lợi và phát tang ở đấy vào ngày hôm sau, song phút chót, Hà Nội ra lệnh phải an táng ngay, vì ngày đó, 28 Tháng Tư 1979, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tới Sài Gòn; Việt Cộng sợ dư luận quốc tế - nếu biết đến cái chết bị bỏ mặc của một cựu Thủ Tướng Miền Nam - có thể ngó tới tình trạng giam cầm của hàng trăm ngàn người khác. Cũng bởi thế, rất ít người nghe biết đến sự đày đọa tù nhân Phan Huy Quát cũng như cái chết trong tù của ông - bên cạnh các trường hợp tương tự của các trí thức văn nghệ sĩ khác - của nhà cầm quyền Hà Nội.
------------------------------

Chí Hòa, Sài Gòn
Một ngày cuối Tháng Tư 1979

Hôm nay đến lượt bốn phòng 5-6-7-8-, gác 1, khu ED được đi tắm, giặt. Mọi người đều rộn rạo, hối hả chuẩn bị, cười hô hố. Cứ ba ngày rưỡi mới được sối nước trên thân thể hôi hám, ngứa ngáy và vò vội quần áo đã tích trữ kha khá mồ hôi, đất ghét, thì trước cái hạnh phúc nhỏ nhoi chỉ được phép hưởng hai lần mỗi tuần, ai mà không "vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi" dù, trên lý thuyết, thời gian tắm được quy định 30 phút cứ bị cán bộ ăn bớt, chỉ còn vỏn vẹn 15 phút.

Cả bốn phòng đã lần lượt ra hành lang ngồi xổm sắp hàng đợi cán bộ gác đến điểm số. Lần đó, viện cớ bị cảm, tôi xin phép ở lại trong buồng. Tôi có mục đích riêng.

Kiểm tra xong số người ở lại mỗi buồng, cán bộ ra hiệu cho mọi người đứng dậy, tiến về phía cầu thang. Tiếng guốc, tiếng dép khua trên cầu thang, tiếng nói lao xao của đoàn người xa dần rồi lắng hẳn. Từ dưới sân đã bắt đầu vọng lên tiếng sối nước ào ào, tiếng nói oang oang, tiếng cười khanh khách thỉnh thoảng xen tiếng chửi thề thân mật, tiếng sặc nước, tiếng rú khoái trá của các bạn tù được làn nước mát như nước lũ chẩy dồn dập trên da. Hạnh phúc thật!

Buồng 5 chúng tôi ở đầu dãy, sát với đầu cầu thang, nơi đây đặt một cái bàn và một cái ghế cho cán bộ gác. Chỗ tôi nằm sát hàng song sắt. Tôi đứng dậy, nhìn về phía đầu cầu thang chỉ cách chừng ba thước rồi quay người, đảo mắt suốt dọc hành lang. Không có bóng cán bộ. Căn phòng vơi đi 58 người như rộng ra. Hơi nồng của 60 mạng tù tích tụ từ suốt ngày và đêm trước tự giải phóng dần dần đem lại một cảm giác thoáng khí hơn.

Căn phòng chỉ còn lại hai người không đi tắm là tôi và một người nữa đang nằm ở hàng giữa, sát tường, trên diện tích vỏn vẹn có 60 phân tức 2/3 của một chiếc chiếu hẹp. Ðó là khoảng không gian đã được chia rất đều cho 60 tù nhân mà Việt Cộng đã cải cho cái danh từ mỹ miều là "trại viên" Người đồng phòng này nằm, hai chân duỗi thẳng, hai cánh tay gập lại trên bụng, hai bàn chân chắp vào nhau, mắt nhắm, vẻ mặt bình thản. Ông bị bệnh đã hơn một tuần, không thuốc men. Nước da mặt đã chuyển sang màu tai tái càng nổi bật với màu trắng của chòm râu và mái tóc. Bệnh nhân nằm im, không cựa quậy, thân hình như đã quen đóng khung trong không gian 60 phân của chiếc chiếu. Ông là Bác Sĩ Phan Huy Quát đã từng là Tổng trưởng nhiều lần, chức vụ cuối cùng và cao nhất trong hoạt động chính quyền của ông là chức Thủ Tướng Việt Nam Cộng Hòa vào Mùa Xuân 1965. Năm 1979 ông đã trên 70 tuổi.

Tôi đảo mắt một lần nữa suốt dọc hành lang, dõng tai nghe ngóng. Vẫn không một bóng người, không một tiếng động khả nghi nào trên tầng gác vắng lặng. Tôi bước vội tới chiếu của Bác Sĩ Quát rồi ngồi sát bên. Bệnh nhân vẫn nằm im, mắt nhắm, không một phản ứng nào chứng tỏ ông cảm giác thấy có người bên cạnh. Hơi thở yếu. Bộ đồ ngủ của ông bận có cũ nhiều nhưng không bị xô lệch. Ðôi ống quần được kéo thẳng tới cổ chân. Ðôi tà áo được khép gọn, ôm kín thân trên. Cánh tay áo trùm tới tận cổ tay. Chẳng phải vì cuộc sống tạm bợ trong tù rất nhiều hạn chế khắc nghiệt cộng thêm lâm bệnh nặng đã hơn một tuần - một trường hợp bất cứ ai cũng có thể buông thả, mặc cho thân phận nổi trôi và có thể kém đi nhiều, ít cảnh giác về cách phục sức và tư thế - mà Bác Sĩ Quát thiếu chững chạc. Và từ cái chững chạc này như toát lên một cái gì có vẻ nghịch lý đến độ vừa đau đớn vừa dũng mãnh giữa thân phận con người và hoàn cảnh.
Tôi khẽ lên tiếng:
"Anh Quát! Anh Quát!"

Không một phản ứng của bệnh nhân. Tôi lắc nhẹ cánh tay bệnh nhân, hơi cao giọng: "Anh Quát! Anh Quát!" Vẫn không một phản ứng, tôi đưa ngón tay trỏ qua mũi bệnh nhân. Hơi thở quá yếu. Dưới sân, tiếng sối nước bắt đầu thưa dần. Thời gian tắm giặt sắp hết. Tôi không muốn mục đích khai bệnh giả của tôi bị lộ là cố ý ở lại buồng để đích thân nói ít điều cho là cần thiết với Bác Sĩ Quát và cả với tôi nữa.
Buồng 5 chúng tôi vẫn được Việt Cộng coi là một buồng "phản động" nhất trong số bốn buồng của lầu 1, khu ED vì chứa một cựu Thủ tướng, 3 cựu Tổng trưởng, nhiều sĩ quan cấp tá, một số ít dân sự "đầu chai đá, khó cải tạo, phần tử rất xấu, mất dậy." Một buồng "ngụy nặng" nên được Việt Cộng tận tình "chiếu cố" trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra, còn phải kể tới một vài tên "ăng ten" tức chỉ điểm được cài trong buồng. Tóm lại, chúng tôi đều bị theo dõi rất sát, rất chặt. Tôi phải làm gấp. Tôi lắc mạnh hơn cánh tay bệnh nhân, cao giọng thêm: "Anh Quát! Anh Quát!"

Bệnh nhân vẫn lặng im. Phải làm thật gấp. Tôi xoay nghiêng mình, tỳ tay xuống chiếu, ghé miệng sát tai Bác Sĩ Quát, cố nói thật rành rẽ: "Anh Quát! Anh Quát! Nhận ra tôi không?" Lần này đôi mi bệnh nhân hơi động đậy rồi dướng lên, hé mở. Tôi thoáng thấy lòng trắng mắt vàng khè. Chẳng cần phải học ngành y mới biết bệnh gan của Bác Sĩ Quát coi mới nặng. Bệnh nhân vắn tắt thều thào: "Anh Tú!" Tôi hơi yên tâm. Miệng lại sát tai Bác Sĩ Quát, tôi nói: "Anh mệt lắm phải không?" Ðầu bệnh nhân hơi gật gật. Không hiểu lúc đó linh cảm nào xui khiến, tôi cố rót vào tai Bác Sĩ Quát, giọng hơi nghẹn: "Anh có nhắn gì về gia đình không?" Bệnh nhân cố gắng lắc đầu, mắt vẫn nhắm. Dưới sân không còn tiếng sối nước nữa. Có tiếng các buồng trưởng dục anh em tập hợp để điểm số lại trước khi lên buồng. Chỉ còn độ hơn một phút. May lắm thì hai phút. Tôi dồn dập bên tai Bác Sĩ Quát: "Ai đặt bày, lừa bắt anh? Ai phản anh? Thằng Liên phải không? Nói đi! Nói đi!" Ðôi môi bệnh nhân như mấp máy.

Tôi vội nhổm lên, ghé sát tai tôi vào miệng bệnh nhân. Một hơi thở khò khè, theo sau là vài tiếng khô khốc, nặng nhọc như cố trút ra từ một chiếc bong bóng đã dẹp hơi đến chín phần mười: "Thôi! Anh Tú ạ." Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã bắt đầu từ chân cầu thang. Tôi chưa chịu buông: "Nói đi! Anh Quát! Nói đi!" Một hơi thở một chút gấp hơn, như làn hơi hắt vội ra lần chót! "Thôi! Thôi! Bỏ đi!" Tiếng guốc, dép, tiếng cười, nói ồn ào đã tới quá nửa cầu thang. Tôi vội nhổm dậy, bước nhanh về chiếu mình, nằm thẳng cẳng, vắt tay lên trán.

Ngoài hành lang, các bạn tù hối hả, xôn xao phơi quần áo mới giặt. Vài tiếng kỳ kèo nhau về chỗ dây phơi. Rồi như một đội quân đã chọc được phòng tuyến địch, họ ùa vào phòng, đứng lố nhố nghẹt lối đi quá nhỏ giữa ba hàng chiếu. Căn phòng như bị co hẹp lại. Tiếng cười đùa thưa dần khi tất cả đã về được chiếu mình. Khói thuốc lá bắt đầu tỏa. Ðây đó tiếng rít của vài bình thuốc lào nổi lên sòng sọc. Bây giờ thì mọi người, sau trận tắm thỏa thuê, đã ngả lưng trên chiếu. Cả phòng lặng tiếng.

Tôi ngồi dậy, hỏi vọng qua hàng chiếu giữa, phía sát tường: "Anh Châm! Anh coi lại xem anh Quát bệnh tình hôm nay ra sao?"
Bác Sĩ Hồ Văn Châm, cựu Tổng trưởng Tin tức, Chiêu hồi và Cựu chiến sĩ, có phần chiếu liền bên Bác Sĩ Quát. Ông Châm quay về phía Bác Sĩ Quát, tư thế nằm vẫn y như trước. Cảnh lộn xộn, ồn ào, ầm ĩ vừa qua của căn phòng không làm Bác Sĩ Quát động đậy chút nào. Cái gì đã như làm tê liệt bộ phận giây thần kinh điều khiển nguồn năng ý chí con người đến nỗi Bác Sĩ Quát không phản ứng gì, hay không còn muốn phản ứng gì dù chỉ là một phác họa - trước cảnh huống bên ngoài? Một hình ảnh buồn thảm lóe lên trong tưởng tượng; nếu không phải là mùa oi bức thì một tấm nền mỏng đắp lên người dong dỏng và gầy guộc của Bác Sĩ Quát thừa đủ để đóng vai trò một tấm khăn liệm.

Bác Sĩ Châm hướng về phía tôi, lắc đầu. Tôi lên tiếng với buồng trưởng: "Anh Phương! Báo cáo cán bộ xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá chứ!" Phương là hạ sĩ quan binh chủng nhẩy dù, tuổi khoảng 30. Tuy còn trẻ, tóc Phương đã trắng xóa, có lẽ vì "xấu máu." Anh em bèn dán cho cái nhãn hiệu "Phương đầu bạc." Phương lặng thinh, coi bộ ngần ngại. Nói cho ngay suốt hơn một tuần lễ Bác Sĩ Quát lâm bệnh Phương đã mấy lần báo cáo xin đưa Bác Sĩ Quát đi bệnh xá, nhưng đều bị từ chối. Tôi quay về phía Bác Sĩ Châm: "Anh Châm! Nói cho Phương biết bệnh trạng của Bác Sĩ Quát đi!" Ông Châm bèn bảo: "Anh Phương! Báo cáo cán bộ ngay đi!" Phương không đáp, lộ rõ vẻ ngần ngại. Trong phòng bỗng nhao nhao nhiều giọng thúc giục, gay gắt: "Báo cáo đi! Chờ gì nữa? Bệnh như vậy mà không đi báo cáo, còn chờ gì nữa? Chờ người ta chết à?" Căn phòng đang im ắng, sống động hẳn lên.

Nhiều bạn đang nằm, nhóm người nhìn về phía Phương. Ðang cởi trần, Phương uể oải đứng dậy, bận áo, ra khỏi phòng, đi về phía đầu cầu thang. Một lát khá lâu, cán bộ gác tới, có Phương theo sau. Anh chàng cán bộ, mặt hơi khinh khỉnh, từ bên ngoài song sắt cộc lốc hỏi vọng: "Ðâu?" Bác Sĩ Châm nhích người qua một bên, chỉ vào Bác Sĩ Quát: "Ðây, cán bộ!" Nhìn một lát, cán bộ quay lưng, Phương lẳng lặng về chiếu mình. Những anh em khác lại đặt mình nằm. Căn phòng chìm trong im lặng hoàn toàn như thể hồi hộp chờ đợi một phán quyết sinh tử của trại.

Chừng 20 hay 30 phút sau, có tiếng lao xao ở đầu cầu thang. Hai bạn tù được làm ở bệnh xá, đem một băng ca tới cùng với cán bộ gác và một cán bộ khác, chắc là ở bệnh xá. Căn phòng lại náo động. Mọi người đều ngồi dậy hoặc đứng lên phần chiếu của mình.

Phương "đầu bạc" dẫn hai anh mang băng ca đến chỗ Bác Sĩ Quát. Bệnh nhân như mê man, tự mình không ngồi dậy được. Bốn anh em khỏe mạnh trong phòng xúm nhau nâng bệnh nhân đặt trên băng ca. Trong lúc đó Bác Sĩ Châm vội nhét vào một túi nhỏ vài đồ cần thiết cho Bác Sĩ Quát: Kem và bàn chải đánh răng, vài đồ lót, thêm một bộ đồ ngủ, đũa, muỗng, chén... Băng ca được khiêng đi. Bệnh nhân vẫn nằm, mắt nhắm, không một phản ứng. Dưới sân, một tiếng kêu lớn! "Lấy cơm!" Căn phòng trở lại cuộc sống đơn điệu hàng ngày của một trại tù. Lúc đó khoảng 10 giờ rưỡi.

Trưa hôm sau, khi lấy cơm trở về, anh em thì thầm rỉ tai nhau: "Bác Sĩ Quát chết rồi!" Cả phòng nhao nhao: "Hồi nào? Hồi nào? Chết mau quá vậy?" Một anh đáp: "Nghe nói, hồi trưa hôm qua thì phải."
Chỉ một lát cáo phó miệng của các bạn tù đi lấy cơm đã lan truyền khắp khu ED. Bữa cơm trưa hôm đó ít ồn ào hơn thường lệ. Có ai trong phòng thốt một câu: "Bệnh như vậy, suốt hơn một tuần xin đi bệnh xá, không cho. Ðợi gần chết mới cho thì còn gì!" Một điếu văn ngắn, gọn, hàm súc cho một bạn tù đã nằm xuống. Một lời ngắn, gọn, hàm xúc lên án chế độ bất nhân, ác nghiệt của Cộng Sản. Căn phòng gần như lặng đi. Không bao lâu sau bữa cơm, cán bộ gác tới, bảo buồng trưởng thu dọn đồ của Bác Sĩ Quát. Trước khi quay lưng, hắn còn nói với: "Nhớ làm bản kê khai, nghe không!" Ðối với tù nhân, đó là lời công nhận chính thức cái chết của bất cứ "trại viên" nào.
Lần này, là cái chết của một vị cựu thủ tướng.

Manh chiếu của Bác Sĩ Quát đã được gỡ đi theo giỏ đồ còn lại của ông xuống văn phòng khu. Chỗ nằm cũ của ông trơ ra phần sân xi măng đã xỉn đen thời gian, mồ hôi, đau khổ và uất ức dồn nén của hàng hàng lớp lớp thế hệ tù chính trị mà ông đã là một trong biết bao người kế tiếp bất tận. Trí tưởng tượng của ta có mặc sức tung hoành sáng tác biết bao nhiêu chuyện về trại tù và thân phận tù nhân dưới chế độ Cộng Sản, thì mảnh không gian xi măng đen kia thầm lặng mà hùng hồn nói lên còn hơn thế nữa. Những ngày kế tiếp, cái chết tức tưởi mang nhiều vẻ không rõ ràng của Bác Sĩ Quát còn là đề tài bàn tán của nhiều người trong phòng được tóm gọn trong hai chữ "nghi vấn." Nhiều người cho rằng nếu được đi bệnh viện sớm hơn, hoặc nếu không, mà được phép biên thư về nhà để thân nhân kịp thời gửi thuốc thì có thể Bác Sĩ Quát đâu ra đến nông nỗi đó.

Năm 1979 vẫn còn nằm trong thời kỳ mà Việt Cộng gọi là "rất căng." Cuộc cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, nếu xuôi xẻ về mặt quân sự, thì về mặt dân tình và chính trị lại chẳng xuôi xẻ chút nào. Nhiều nơi đã nổi lên những phong trào chống đối vũ trang làm cho Việt Cộng vô cùng lo lắng trong việc ước lượng tầm cỡ của mỗi phong trào để liệu cơ đối phó. Ngay tại Sài gòn, năm 1976, vụ Vinh Sơn xẩy ra chưa đầy một năm sau "đại thắng Mùa Xuân" của Việt Cộng đã làm chúng thất điên bát đảo và mặc dù những người chủ trương và lãnh đạo vụ Vinh Sơn cùng với một số chiến hữu đã bị Việt Cộng thẳng tay đàn áp và thanh toán, dư âm và ảnh hưởng của vụ ấy vẫn còn kéo dài mãi tới 1979 và sau nữa. Lại thêm cuộc chiến với Trung Cộng Mùa Xuân 1979 ở miền Bắc và cuộc chiến với Căm Bốt ở miền Nam khởi sự từ 1978. Do đó Việt Cộng càng siết chặt kỷ luật đối với tù chính trị. Tuy không có bằng chứng rõ ràng, nhiều người trong phòng có cảm giác "ăng ten," tức chỉ điểm viên, đã được tăng cường.

Cuộc sống tiếp tục trong bầu không khí càng ngày càng ngột ngạt. Việt Cộng "dư" lý lẽ để đối xử với tù nhân tàn nhẫn hơn, bất nhân hơn. Bác Sĩ Quát đã lâm bệnh trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó. Con trai út của ông là Phan Huy Anh bị bắt cùng với ông ngày 16 Tháng Tám 1975 không được ở chung cùng buồng, mà bị giam ở buồng 6 sát bên. Hai cha con chỉ trông thấy nhau những lần đi tắm, tức hai lần một tuần. Khi tắm cũng không được liên hệ với nhau. Huy Anh dù có muốn giúp bố giặt quần áo hay một vài việc vặt vãnh cũng không bao giờ được phép. Còn nói chuyện với nhau thì tuyệt đối cấm. Nếu bị bắt quả tang hay có người tố cáo, hai cha con sẽ bị cúp viết thư về nhà với hậu quả kèm theo là bị cúp thăm nuôi. Ấy là chưa kể có thể bị kỷ luật đưa đi biệt giam. Việc thăm nuôi của gia đình cũng tách rời, riêng biệt: không bao giờ hai cha con được thăm nuôi, gặp gỡ thân nhân cùng một lúc, cùng một ngày. Hai cha con sống sát buồng nhau mà còn hơn hai kẻ lạ. Hai kẻ lạ còn có thể xin phép trao đổi với nhau chút quà, nói với nhau dăm ba câu. Bác Sĩ Quát và Huy Anh luôn luôn bị từ chối và bị theo dõi kỹ. Khi được tin bố lâm bệnh, Huy Anh nhiều lần xin phép qua thăm và đem thuốc cũng không được. Chỉ tới phiên đi lãnh cơm, Huy Anh mới được bước ra khỏi buồng. Những lúc đó tôi thoáng bắt gặp ánh mắt buồn bã của Huy Anh kín đáo nhìn qua song sắt tới chỗ bố đang nằm lịm. Tôi còn nhớ hai ngày trước khi Bác Sĩ Quát được đưa đi bệnh xá, cán bộ gác mới cho phép Huy Anh đem thuốc cho bố, sau không biết bao nhiêu lần năn nỉ. Huy Anh chỉ được phép đứng ngoài cửa nhìn vọng vào. Thuốc thì do buồng trưởng nhận đưa cho Bác Sĩ Quát. Thuốc đến quá muộn, dù chỉ là thứ thuốc thông thường trị bệnh gan. Lần "nhìn thăm" thầm lặng được phép công khai đó dài không quá hai phút. Và đó cũng là lần chót Huy Anh được chính thức nhìn bố qua chiều dài gần 8 thước của căn buồng dưới đôi mắt cú vọ của cán bộ gác ngồi phía đầu cầu thang giám sát.

Hôm Bác Sĩ Quát được khênh đi bệnh xá, Huy Anh cũng không được phép ra khỏi buồng dù chỉ để nói ít câu thăm hỏi và nhìn bố nằm thoi thóp trên chiếc băng ca. Một ngày sau khi Bác Sĩ Quát chết, Huy Anh được trại cho phép về thọ tang bố. Nhiều người trong chúng tôi hi vọng sẽ có tin thêm về tang lễ và nhất là về cái chết quá đột ngột của Bác Sĩ Quát khi Huy Anh trở lại trại. Thói quen giấu diếm, bưng bít đã trở thành một thứ siêu vi trùng trong máu của Việt Cộng, thế nên khi Huy Anh trở về, chúng tôi chẳng biết tin gì thêm ngoài việc tang lễ đã xong xuôi. Sau này có tin là Huy Anh sẽ được thả nếu "thật tâm cải tạo tốt." Có nghĩa là không được tiết lộ bất cứ điều gì liên quan đến cái chết, đến tang lễ của bố, đến bất cứ những gì Huy Anh đã nhìn được, nghe được ở xã hội Sài Gòn bên ngoài trong thời gian được về nhà. Phải thừa nhận Việt Cộng rất "siêu" về thủ đoạn dọa nạt, nhất là đối với những ai đang bị gọng kìm của chúng siết chặt. Dù Bác Sĩ Quát đã chết, không còn là một mối lo chính trị đối với Việt Cộng, do vậy không còn cần thiết giữ Huy Anh làm con tin để đe dọa, đầy đọa tinh thần ông bố nữa, cũng phải đợi đến cuối năm 1979, Huy Anh mới được thả.

Trong thập niên 1940, Bác Sĩ Phan Huy Quát đã được nhiều người ở Hà Nội biết tiếng là một lương y. Bệnh nhân của ông, cả Việt lẫn Pháp, rất tín nhiệm ông vì tư cách đứng đắn và lương tâm nghề nghiệp rất cao của ông. Ngay cả một số người Pháp đã chọn ông làm bác sĩ gia đình của họ, một trường hợp rất hiếm trong y giới người Việt thời ấy. Một đề tài nghiên cứu y học của ông có liên quan đến bệnh đau mắt của Hoàng Ðế Bảo Ðại thời đó đã được tặng giải thưởng đặc biệt của Hoàng Ðế. Cuộc đời chính trị của ông chỉ thực sự bắt đầu sau khi cựu Hoàng Bảo Ðại đã ký hiệp ước Vịnh Hạ Long với Cao ủy Bollaert của Pháp ngày 8 Tháng Ba 1949. Trong chính phủ đầu tiên của quốc gia Việt Nam do cựu Hoàng Bảo Ðại lãnh đạo, Bác Sĩ Quát tham chính với tư cách Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Sau đó ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng. Từ giữa năm 1953 trở đi, tình hình cuộc chiến với Việt Minh ở miền Bắc Việt Nam ngày càng tồi tệ. Thất trận của Pháp ngày 07 Tháng Năm 1954 ở Ðiện Biên Phủ mở màn cho Hội Nghị Genève về Ðông Dương với hậu quả là Việt Nam bị chia đôi ở vĩ tuyến 17 do Hiệp Ðịnh Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh ngày 20 Tháng Bảy 1954.

Ở Pháp, Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông Ngô Ðình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7 Tháng Bảy 54, ông Diệm về nước. Ðược ủy toàn quyền lãnh đạo Việt Nam, ông Diệm thành lập nội các mới và kiêm nhiệm luôn Bộ Quốc Phòng.

Bác Sĩ Quát trở lại nghề cũ, mở một phòng mạch ở Dakao gần đầu cầu Phan Thanh Giản. Suốt chín năm ông Diệm cầm quyền, Bác Sĩ Quát không tham chính: ông khó có thể thuận với Tổng Thống Diệm về lề lối làm việc quá quan liêu, hống hách và độc đoán của gia đình họ Ngô. Thêm nữa ông là một thành viên trong nhóm Caravelle đã công khai đưa ra bản tuyên bố chỉ trích chế độ và đòi chính quyền Diệm thực hiện tự do, dân chủ. Cuộc đảo chính ngày 01 Tháng Mười Một 1963 do một số tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa lãnh đạo chấm dứt chế độ Ngô Ðình Diệm theo liền cái chết bi thảm của vị tổng thống và hai em ông là Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn. Ðại Tướng Dương Văn Minh và Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ cầm quyền mới được ba tháng thì bị Tướng Nguyễn Khánh, tư lệnh vùng II chiến thuật, chỉnh lý ngày 30 Tháng Giêng 64. Bác Sĩ Quát được mời làm Tổng Trưởng Ngoại Giao. Ông ở chức vụ này tới khoảng Tháng Chín, 1964 rồi lại trở về phòng mạch.

Cuộc đời chính trị của ông đạt tuyệt đỉnh danh vọng khi, vào giữa Tháng Hai năm 1965, ông được Tướng Nguyễn Khánh triệu mời thành lập nội các mới. Giữ chức thủ tướng được khoảng ba tháng thì ông trao quyền lại cho Hội Ðồng Quân Lực vì những mâu thuẫn khó bề giải quyết giữa ông và Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu. Ông lui về, trực tiếp điều khiển phòng thí nghiệm y khoa của ông ở đường Hai Bà Trưng. Hoạt động chính trị của ông thu hẹp lại trong khuôn khổ của Liên Minh Á Châu Chống Cộng mà ông là chủ tịch phân hội Việt Nam cho tới ngày Sài Gòn thất thủ 30 Tháng Tư 1975.

Nhưng ngày kết liễu nền Ðệ Nhị Cộng Hòa chưa phải là ngày chấm dứt hoạt động của Bác Sĩ Phan Huy Quát. Nó đưa hoạt động ấy sang một hướng khác, hoàn toàn xa lạ với con người vốn dĩ trong bao năm đã quen và chỉ quen hoạt động chính trị theo lối "chính quy," trong "đường lối chính quy." Và con người thận trọng trong ông đã lao vào một trận địa mà trước kia ông chưa từng một lần lưu tâm và nghiên cứu địa hình phức tạp, hết sức bất thường do vậy cũng hết sức bất ngờ: địa hình của trận địa hoạt động bí mật, mà vì tính chất của riêng nó, đòi hỏi một cách suy nghĩ khác, một thứ thông minh khác, một loại bén nhạy khác, thậm chí đến cái can đảm trong hoạt động bí mật cũng phải là cái can đảm khác. Vị cựu thủ tướng, tự thân, chưa được chuẩn bị kỹ càng cho hình thái hoạt động bí mật nó có những điều luật, những nguyên tắc đặc thù của riêng nó. Ðiều này cũng dễ hiểu: ông chưa từng thấy có nhu cầu đó. Hoạt động chính trị của ông từ trước không cần đòi hỏi ông có những nhu cầu đó. Vậy mà trước hoàn cảnh đất nước rối bời đang diễn tiến trước mắt, ông đã chọn dấn thân vào con đường mới mẻ này. Một quyết định dũng cảm của một con người ngày ấy đã gần 70 tuổi, và chắc chắn không phải là một quyết định dễ dàng.

Sau ngày Sai gon thất thủ 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Phan Huy Quát không đáp "lời mời" ra trình diện của Việt Cộng được phổ biến trên đài phát thanh, truyền hình và báo chí của chúng cho tất cả "ngụy quân, ngụy quyền". Liền sau khi cộng quân ào ạt tuôn vào Saigon từ hai hướng Bắc và Nam ngày 30 Tháng Tư 1975, Bác Sĩ Quát đã dời tư thất ở đường Hiền Vương và bắt đầu cuộc đời "du mục" trong Saigon, quyết không để cho Việt Cộng bắt. Cứ đôi ba ngày các con ông thay phiên nhau dẫn ông đi thay đổi chỗ trú ngụ. Sau gần ba tháng trốn tránh như thế, ông có dấu hiệu mệt mỏi. Các con ông khuyên ông trốn "trụ" hẳn một nơi. Ông nhượng bộ, về nhà trưởng nữ trong một hẻm khuất ở quận Phú Nhuận.

Những ai đã sống ở Saigon sau ngày 30 Tháng Tư 1975 chắc khó quên cái không khí ồn ào, nhộn nhạo, hỗn tạp bao trùm khắp nơi, khắp chốn của cái thành phố hơn ba triệu người này hầu như ngày nào cũng hối hả tuôn ra đầy nghẹt đường phố. Vẻ mừng rỡ bề ngoài vì chiến tranh đã chấm dứt không che đậy nổi nhiều nỗi lo âu âm ỉ bên trong: Kẻ chiến thắng sẽ định đoạt số phận của Saigon như thế nào? Thái độ nào tốt nhất để đối phó với kẻ chiến thắng đang huênh hoang, ngạo mạn? Tùy hoàn cảnh và cương vị riêng của mỗi cá nhân, người thì chọn lối âm thần sống ẩn, người thì mặc, muốn ra sao thì ra, cứ sống "tự nhiên cái đã". Nhưng đại đa số thì tính chuyện trốn khỏi Việt Nam bằng đường biển sau khi Mỹ đã vĩnh viễn phủi tay. Một số khác thì tính chuyện tiếp tục tranh đấu chống Cộng. Ðã manh nha những sự thăm dò, móc nối nhau, tìm ngõ ngách trong hai lãnh vực chính yếu: thứ nhất vượt biên, thứ nhì chống Cộng.

Hai lãnh vực này tưởng là hoàn toàn riêng biệt, trái lại, thường xoắn vào nhau khá chặt, bởi lẽ nhiều khi tìm đường vượt biển lại dẫn đến mối chống Cộng, tìm đường chống Cộng lại dẫn tới mối vượt biên. Bất cứ ai chọn dấn thân vào một trong hai lãnh vực này đều bị lôi cuốn vào cái vòng luẩn quẩn lưỡng nguyên bi hài kịch đó. Bác Sĩ Quát không ngờ sẽ rơi vào chính cảnh huống ấy. Trong thâm tâm, ông không muốn bỏ chạy: ông vốn nặng tình quê hương. Nhưng gia đình ông 14 người, mặc nhiên là một áp lực tinh thần, thầm lặng đấy, nhưng đáng kể, buộc ông không thể không nghĩ đến sự an toàn cho vợ, con, dâu, rể và các cháu nội ngoại, nghĩa là phải nghĩ đến chuyện vượt biên. Ngoài tình quê hương ông cũng nặng tình gia đình không kém.

Thực ra, khoảng một tuần trước ngày 30 Tháng Tư 1975 lịch sử, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh cho ông Ðại sứ của mình ở Saigon nhân danh chính phủ mời Bác Sĩ Quát qua Ðài Bắc trú ngụ nếu như phía Mỹ chưa lo liệu cho bác sĩ. Lúc đó Bác Sĩ Quát chưa quyết tâm ra đi nên chỉ cảm ơn và nói sẽ liên lạc sau. Về phía Mỹ, khi hay tin Bác Sĩ Quát còn ở Saigon, ngày 28 Tháng Tư 1975 đã liên lạc với ông, hứa đưa hai ông bà qua Mỹ. Bác Sĩ Quát trả lời không thể nhận sự giúp đỡ quý hóa ấy nếu tất cả gia đình ông gồm 14 người không được cùng đi. Phía Mỹ ngần ngại, nhưng rồi cũng thuận ý muốn của Bác Sĩ Quát và cho ông một điểm hẹn. Ðiểm hẹn này sau bị lộ. Thêm nữa ngày 29 Tháng Tư 1975, tình hình căng thẳng tột độ, chính phủ Dương Văn Minh ra tối hậu thư buộc Mỹ phải triệt thoái toàn bộ nhân viên D.A.O. tức bộ phận tùy viên Quốc Phòng của Mỹ trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Liên lạc giữa phía Mỹ và Bác Sĩ Quát bị tắc nghẽn. Chuyến trực thăng cuối cùng chở người Việt tị nạn không có Bác Sĩ Quát và gia đình.

Như đã nói, ông nặng tình gia đình, không muốn gia đình bị khổ trong vòng kìm kẹp của Cộng Sản và muốn gia đình sống một nơi an toàn. Ðồng thời ông cũng không muốn làm "kẻ bỏ chạy" vì ông cũng rất nặng tình quê hương, đất nước. Ông muốn, nếu đi thì cả nhà cùng đi. Nếu ở lại thì cả nhà cùng ở lại. Nhưng sau hai lần lỡ dịp di tản gia đình, Bác Sĩ Quát ý thức rất rõ hai mối tình song hành kia, tình gia đình và tình quê hương, đất nước, khó mà dung được với nhau và chỉ có thể chọn một. Và ông đã chọn.
Ông bằng lòng cho con trai út Phan Huy Anh đi thăm dò đường lối. Do một người bạn của Huy Anh giới thiệu, Bác Sĩ Quát thuận gặp một người tên Nguyễn Ngọc Liên. Liên tự xưng là một thành viên quan trọng của một tổ chức chống Cộng nhận nhiệm vụ bắt liên lạc với Bác Sĩ Quát, mời ông gia nhập tổ chức và nơi tổ chức có thể giúp gia đình ông vượt biên. Bác Sĩ Quát đồng ý về đề nghị thứ hai của Liên. Còn về đề nghị gia nhập tổ chức, ông nói sẽ có quyết định sau khi gặp người đại diện có thẩm quyền của tổ chức. Ðôi bên đồng thuận. Gia đình Bác Sĩ Quát gồm bà Quát, các con, cháu hơn mười người được dẫn đi trước xuống Cần Thơ, ở lại đó hai ngày. Hôm sau lên xe đi tiếp, dọc đường bị chận lại, đưa về khám Cần Thơ. Cả nhà biết là đã bị mắc lừa. Một tuần sau bị giải về trại giam Chí Hòa, Saigon. Bà Quát, tuy tuổi đã cao và mắc bệnh đau tim, vẫn bị biệt giam, điều kiện sinh hoạt rất khắc nghiệt. Do con, cháu bà năn nỉ mãi, Việt Cộng cho phép một cháu ngoại gái của bà mới 12 tuổi qua ở biệt giam để chăm sóc bà. Ðược mấy tháng, vì tình trạng sức khỏe ngày càng xấu đi, bà Quát được đưa ra ở phòng tập thể với các con cháu. Ðược hơn một năm, có lẽ vì xét thấy gia đình bà Quát đại đa số là giới nữ và khai thác cũng không thêm được gì, Việt Cộng bèn thả hết. Riêng người con rể còn bị giữ lại, đưa đi trại cải tạo Hàm Tân, gần mười năm sau mới được thả.

Về phần Bác Sĩ Quát và con trai út của ông là Huy Anh thì được tên Liên đưa đi tạm trú tại một căn nhà kín đáo ở Chợ Lớn. Hai ngày sau, theo kế hoạch, tên Liên đưa Bác Sĩ Quát và Huy Anh ra khỏi Saigon. Khi xe ô-tô tới một điểm hẹn vắng vẻ thuộc tỉnh Biên Hòa thì đã có một xe ô-tô khác đậu bên đường, nắp ca pô mở sẵn theo mật hiệu đã quy định. Xe chở Bác Sĩ Quát và Huy Anh dừng lại. Một toán người đi tới, vây quanh xe, rút súng hăm dọa. Bác Sĩ Quát biết mình bị lừa. Ông và Huy Anh được giải về Bộ Tư lệnh Cảnh Sát, đường Võ Tánh, Saigon. Hôm đó là ngày 16 Tháng Tám 1975, khởi đầu cuộc thử thách chót trong đời vị cựu Thủ tướng. Một cuộc thử thách không giống bất cứ một thử thách nào ông đã đương đầu trước kia. Một cuộc thử thách mà chủ đích của Việt Cộng nhằm hạ nhục con người chỉ chấm dứt sau khi vị cựu Thủ tướng đã vận tất cả năng lượng vật chất và tinh thần ném hết vào cuộc đấu tranh cuối cùng của ông, lần này mới thực là mặt đối mặt với quân thù với không biết bao nhiêu căng thẳng, gay go về nhiều mặt. Cuộc đấu tranh riêng lẻ mà ông chưa từng có một ý niệm và không bao giờ ngờ có ngày phải tiến hành trong đơn độc, đã kết thúc vào trưa ngày 27 Tháng Tư 1979, đúng ba hôm trước ngày Kỷ niệm Saigon thất thủ.

Cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát đã vĩnh viễn nằm xuống sau ba năm, tám tháng đấu tranh không nhượng bộ trong gọng kìm Việt Cộng.

Ngày 30 Tết, năm Mậu Ngọ (dương lịch: 1978)

Gần một tháng trước Tết Mậu Ngọ tôi bị chuyển về phòng 1, gác 1, khu BC. Ba phòng 2, 3, 4 bỏ trống. Chỉ riêng phòng 1 có "khách hàng". Bác Sĩ Quát và tôi gặp lại nhau ở đó. Trong mấy ngày Tết, kỷ luật nới lỏng, mọi người được đi lại thăm bạn bè ở các phòng khác, gác khác trong cùng một khu. Bác Sĩ Quát và tôi không ra khỏi gác 1. Chúng tôi thường đi bộ dọc hành lang trống vắng vẻ, Bác Sĩ Quát bắt nhịp đi theo tiếng chống nạng của tôi lúc đó chân bị tê liệt. Mấy ngày Tết quả là một dịp hiếm có để có thể nói với nhau nhiều chuyện, khỏi sợ bị để ý hay soi mói quá đáng. "Ăng ten" cũng phải ăn Tết chứ! Bác Sĩ Quát đã tóm lược cho tôi nghe cuộc "phiêu lưu" của ông và gia đình. Tôi có hỏi ông về thời gian ông giữ tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát, đường Võ Tánh. Ông kể:

"Chúng bắt tôi viết bản tự khai tất cả những gì tôi làm khi tôi giữ chức Thủ tướng. Bản viết của tôi không dài quá một trang tôi viết vắn tắt là trong thời gian tôi ở cương vị Thủ tướng, tôi lãnh đạo việc nước, tôi chỉ đạo cuộc chiến chống Cộng. Tất cả mọi cấp, từ cấp thấp nhất, đến cao nhất gần gũi với Thủ tướng ở mọi ngành quân, dân, chính đều làm việc theo chỉ thị và mệnh lệnh của tôi. Một mình tôi trách nhiệm. Chúng không bằng lòng, bắt tôi viết lại. Tôi viết y như trước. Cù cưa như vậy đến hơn một tháng, gần hai tháng. Chúng bèn chuyển sang thẩm vấn. Hỏi câu nào tôi trả lới vắn tắt: Tôi trách nhiệm. Chúng đủ trò áp lực như anh biết đấy. Sau đó, để bớt căng thẳng, tôi nhận viết. Vả lại, thú thực lúc đó nhịp tim đập của tôi loạn xạ đã nhiều ngày, và tôi không có thuốc trợ tim. Tôi cảm thấy chóng mệt. Tôi cứ từ từ viết được hơn 70 trang, trong đó tôi nêu một số nhận định về thời cuộc, đưa ra một số đề nghị kiến thiết quốc gia. Trên trang nhất, tôi đề tên người nhận văn bản của tôi là Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Chúng bắt tôi xóa, chỉ được viết là bản tự khai. Tôi không chịu. Sau cùng chúng cũng nhận tập viết của tôi."

Tôi hỏi Bác Sĩ Quát: "Anh có tin là chúng chuyển tập viết của anh tới Nguyễn Hữu Thọ không? - Tôi ngờ lắm. Ông đáp. Nhưng không sao. Tôi mượn cớ đề tên Nguyễn Hữu Thọ để ngầm bảo chúng rằng tôi không biết tới Hà Nội trong khi tất cả chúng ta đều rõ là Nguyễn Hữu Thọ và Mặt trận Giải phóng Miền Nam chỉ là công cụ của Hà Nội và Hà Nội thừa biết điều đó hơn ai hết."

Tôi bật cười, Bác Sĩ Quát cũng cười theo. Chúng tôi hiểu nhau. Trong buồng có một vài bạn tù đứng đắn, chúng tôi có thể nói chuyện thẳng thắn, cởi mở, không nghi ngại. Tôi nhớ một lần, vẫn trong dịp Tết Mậu Ngọ, chúng tôi năm người đứng nói chuyện gần ở một góc hành lang, câu chuyện loanh quanh thế nào mà dẫn đến việc một bạn tù hỏi Bác Sĩ Quát về một vài cộng sự viên thân cận nhất của ông mà ông thật tâm tác thành cho: "Có thật hay không, tiếng đồn có người đá ngầm anh khi có dấu hiệu anh trên đà xuống dốc?" Bác Sĩ Quát mỉm cười, trả lời, giọng bình thản: "Tôi đã có nhiều dịp gần cụ Trần Trọng Kim khy sinh thời cụ. Tôi nhớ mãi một lời cụ dậy: sống ở đời phải cho nó chững. Tôi thường kể lại cho các con, cháu trong nhà nghe lời của cụ Trần, kẻo uổng." Câu nói của Bác Sĩ Quát không trả lời thẳng vào câu hỏi của anh bạn. Nhưng có vẻ như mấy bạn biết thưởng thức câu trả lời đó vì họ cười ha hả.

Sau Tết, chúng tôi bị chuyển sang phòng 5, gác 1, khu ED. Ðược vài hôm, phòng nhận thêm một tù nhân từ biệt giam qua. Người này, khi nhận thấy Bác Sĩ Quát thì tỏ vẻ lúng túng, ngượng ngập. Có chi lạ đâu? Hắn là Nguyễn Ngọc Liên, người mời chèo Bác Sĩ Quát vào khu để rồi rơi vào bẫy sập ở Biên Hòa. Trong phòng ngoài Bác Sĩ Quát và tôi, không một ai khác biết mối liên hệ giữa Bác Sĩ Quát và hắn. Bác Sĩ Quát cư xử rất tự nhiên, không tỏ vẻ gì khó chịu bực tức, nóng nẩy. Riêng tôi cũng không để lộ cho tên Liên rõ là tôi biết chuyện của hắn. Cuộc sống ở Chí Hòa đơn điệu, buồn tẻ, ngột ngạt.

Ngày này sang ngày khác, mọi người như chết đi trên 2/3 manh chiếu của mình. Không bao giờ tôi nghe thấy Bác Sĩ Quát thốt lên dù chỉ nửa lời than van về số phận của mình hay của gia đình về sự mất mát tài sản mà Việt Cộng đã tịch thu toàn bộ chỉ để lại cho ông hai bàn tay trắng. Ông sống lặng lẽ, trầm ngâm, kín đáo. Nhiều lần, cán bộ Việt cộng cố ý công khai làm nhục ông trước mặt mọi người. Ông giữ im lặng, cái im lặng kẻ cả. Không ai nhận thấy ở ông một vẻ gì kiêu kỳ, của một người đã từng giữ những chức vụ cao sang trong chính quyền cũ.

Ông biết hòa mình một cách đúng mức. Với anh em cùng cảnh ngộ và cái đúng mức không gượng ép ấy tự nhiên bảo vệ tư thế riêng của ông bằng một khoảng cách mà chẳng ai dám nghĩ muốn vượt qua. Ngay đối với tên Liên mà nhiều yếu tố trong vụ Biên Hòa đủ để được xứng đáng nhãn hiệu "tên phản bội, tên lừa bịp", ông vẫn giữ được cách lịch sự bao dung buộc kẻ kia tự mình phải có thái độ ăn năn, kính cẩn đối với ông. Thế nên tôi rất hiểu tâm địa ông khi ông thều thào: "Thôi! Bỏ đi!" để trả lời câu hỏi dồn ông về tên Liên bên chiếu bệnh. Ông biết vì ông mà vợ, con, cháu ông đang dũng cảm chịu khổ, chịu nhục, chịu thiếu thốn ở khu phụ nữ. Ông biết một cháu nội gái của ông, con gái đầu lòng của Huy Anh, mới ba tháng đã "được" Việt cộng bỏ tù vì bố mẹ và đang thiếu sữa.

Ông biết chừng nào Việt Cộng chưa bẻ gãy được ý chí đối kháng thầm lặng của ông thì gia đình ông, đa số là phụ nữ và con nít vần là những con tin hữu hiệu trong tay Việt Cộng dùng làm lợi khí đe dọa, đầy đọa tinh thần ông, nghiền nát những gì là nhân tính trong ông, buộc ông phải thốt lên một lời quỵ lụy quy hàng, Nhưng ông đã đứng được đầu gió.
Vì ông đã cứng.

***

Tôi thường nghĩ, trong suốt cuộc đời tham chính, thành tựu của Bác Sĩ Phan Huy Quát có ý nghĩa lớn lao nhất, có ích cho quốc dân nhất, do đó quan trọng vào bậc nhất vì trực tiếp liên quan sâu sắc nhất đến tiền đồ tổ quốc, là ông đã giành được chủ quyền cho ngành giáo dục Việt Nam, khi ông được Cựu Quốc Trưởng Bảo Ðại phong ông làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục trong chính phủ đầu tiên của Quốc gia Việt Nam mới được Pháp thừa nhận nền độc lập. Do lòng trí kiên nhẫn, thái độ khéo léo, mềm dẻo nhưng không thiếu cương quyết trong thương thảo rất khó khăn, nhiều khi đến độ rất căng thẳng với phái đoàn Pháp mà một số thành viên lại là thầy học cũ của ông ở Ðại học Y khoa Hà Nội. Ông đã thuyết phục được phía Pháp trao trả Việt Nam trọn quyền của ngành giáo dục. Ông đã đặt nền móng vững chắc cho việc dùng Việt ngữ là ngôn ngữ chính trong mọi giáo trình, mở đầu kỷ nguyên cải cách giáo dục toàn diện từ tiểu học, qua trung học, lên tới đại học và trên đại học mang tính chất hoàn toàn quốc gia mà dấu ấn căn bản và nguyên tắc đó không một ai, sau ông, có thể thay đổi được. Pháp ngữ đã lui xuống thứ hạng như bất cứ sinh ngữ nào khác được giảng dậy trong mọi cấp học trình. Thành quả tranh đấu gay go trong thầm lặng nhưng thật rực rỡ của ông với Phái đoàn Pháp và công cuộc tiến hành cải cách giáo dục của ông đã được báo chí thời đó xưng tụng và mệnh danh một cách rất xứng đáng là "Kế hoạch giáo dục Phan Huy Quát." Tên tuổi ông đã gắn liền với tương lai của biết bao thế hệ nam, nữ, thanh, thiếu niên trong lãnh vực giáo dục nó là chìa khóa của tiến bộ văn minh và phát triển văn hóa cho đất nước, cho dân tộc.
Thành công nào có thể đẹp hơn, lâu bền hơn thành công của ông trong sự nghiệp giáo dục đào tạo con người?

***
Một phòng lẻ loi dành cho lính gác ở ngoài vòng rào trại giam Chí Hòa đã được quét dọn khá tươm tất. Giữa phòng, một tấm ván gỗ khổ hẹp đặt trên đôi mẻ. Trên tấm ván một hình người nằm ngửa, chân duỗi thẳng, hằn rõ dưới tấm mền mỏng phủ kín từ đầu xuống chân.
Thi thể Bác Sĩ Phan Huy Quát, cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa nằm đó, cô đơn, lạnh lẽo giữa một buổi trưa hè nắng gắt, oi nồng. Cùng với tấm ván và đôi mẻ, thi thể ông là tĩnh vật trang trí độc nhất của căn phòng lính gác quạnh hiu. Chung quanh không một bóng người. Cái tĩch mịch của căn phòng như muốn thét lên mà bị nghẹn.
Tang gia được chính quyền Việt Cộng hứa cho phép quàn thi hài Bác Sĩ Quát tại chùa Xá Lợi. Ðến phút chót Việt Cộng bội hứa như chúng vẫn có thói quen đó đã trở thành quán tính. Chúng buộc tang gia phải chôn cất ngay ngày hôm sau tức là ngày 28 Tháng Tư 1979. Tìm hiểu ra mới biết ngày 28 là ngày ông Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc tới Saigon: cho đem thi hài Bác Sĩ Quát về quàn tại Chùa Xá Lợi có thể gây ra nhiều phiền phức, rối ren không lường được. Quái thật! Một chế độ luôn luôn tự vỗ ngực lớn tiếng huênh hoang ta đây "Anh hùng nhất mực" và "ra ngõ là gặp anh hùng" lại sợ đủ thứ!
Sợ từ đứa bé sơ sinh sợ đi nên phải bắt nó vào tù với mẹ nó cho chắc!
Sợ từ cái xác chết sợ đi, nên bắt chôn ngay sợ xác chết "thần giao cách cảm" với Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc thì rầy rà to. Ðám tang bị hối thúc rồi cũng chu toàn nhờ sự tận tình giúp đỡ của thân bằng, quyến thuộc.
Sau tang lễ đơn sơ, còn sót lại là nghi vấn về cái chết của vị Cựu Thủ tướng. Hồ sơ bệnh lý do Việt cộng chính thức đưa ra là "nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não cùng viêm gan siêu vi trùng".
Hồ sơ vẫn nguyên vẹn là một nghi vấn.

***
Nếu tôi biết hát, tôi sẽ cất giọng ca vừa đủ nghe tù khúc:
"Anh nằm đây,
Bạn bè anh cũng nằm đây..."
Gọi là một chút để ấm lòng người đã khuất.

Nguyễn Tú

Ký giả Nguyễn Tú, nguyên đặc phái viên chiến trường Nhật báo Chính Luận tại Việt Nam trước 1975, cũng như của nhiều báo ngoại quốc, đã bị giam hơn mười năm trong lao tù Cộng Sản. Ông vượt biên tới Hong Kong năm 1990 và sau đó tới Hoa Kỳ.

Công ty Innov Green (IG) đã bắt đầu áp đặt… chủ quyền?

Nguyễn Hữu Quý
Đăng bởi bvnpost on 20/11/2010

Sự kiện các tỉnh biên giới nước ta cho các công ty IG thuộc các quốc tịch Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan thuê đất để trồng rừng trong thời hạn 50 năm, được báo Vietnamnet làm thành “thiên phóng sự” dài kỳ, bắt đầu từ ngày 01/3/2010 đến 01/4/2010 còn chưa hết tranh cãi ngay tại nghị trường Quốc hội, thì hôm 16/11/2010 báo Vietnamnet đã trở lại đề tài này, điểm bắt đầu là Công ty Innov Green Nghệ An (http://vietnamnet.vn/xahoi/201011/innovGreen-dang-lam-gi-tren-bien-gioi-Viet-Nam-947654/).

Theo đó, báo Vietnamnet trong bài “Innov Green đang làm gì trên biên giới Việt Nam” nhấn mạnh: “Sau gần nửa năm kể từ khi Công ty Innov Green Nghệ An triển khai trồng rừng trên diện tích đất rừng được tỉnh Nghệ An cho thuê, vùng đất vốn im lìm, nằm sâu trong núi rừng Cắm Muộn có sự thay đổi lớn”.

Theo nội dung của bài báo, những “sự thay đổi lớn” được tóm tắt như sau:

1. Khi được hỏi về tiến trình trồng rừng của IG, ông Lô Văn Vinh, Chủ tịch UBND xã Cắm Muộn cho biết: “Đến nay vẫn chưa có gì thay đổi, họ vẫn tiếp tục trồng cây, đường mở rộng hơn”.
2. “Công ty đó vẫn không có sự liên hệ nào với địa phương. Cấp trên cũng không có một văn bản nào hướng dẫn, chỉ đạo đối với chính quyền xã”, ông Vinh nói.
3. Vị chủ tịch xã tiếp tục cho hay: “Từ cái lần trước các anh đến thăm với bà con nơi đây, đến tận bây giờ về phía Công ty Innov Green đem dự án vào trồng rừng đưa ra nhiều lời hứa sẽ đầu tư cho xã, tạo công ăn việc làm cho bà con dân bản… nhưng tất cả đến nay chỉ là lời hứa suông”.
4. Bất ngờ năm 2007, Cty IG “đổ bộ” về bản làng, họ thuê đất, đốt rừng đầu nguồn và trồng rừng mới. Đến thời điểm hiện nay IG đã cơ bản đốt xong rừng ở 3 bản Cắm và chủ yếu là trồng cây keo đơn thuần.
5. Người dân cả 3 bản Cắm “hết đường” lên rừng sản xuất nay phải xuống suối làm vàng: “Cán bộ coi, bây giờ không còn đất sản xuất nữa, lên rừng hái lượm thì công ty nước ngoài họ đuổi. Ngày trước mùa này thì lên rừng đi hái quả Cà, cây Măng, cây Mây, lá rừng kiếm tiền chứ không đi làm vàng đâu, vàng mùa này ít lắm. Ta không muốn chết đói nên phải xuống sông làm vàng thôi”, anh Vi Văn Thái một người dân làm vàng ở 3 bản Cắm nói.
6. Trở lại đây sau hơn 4 tháng, chúng tôi hoàn toàn bất ngờ bởi sự thay đổi nhanh chóng. Con đường mòn xuyên rừng đã được Innov Green đào bới, làm thành một con đường lớn có chiều rộng khoảng 5 m.
Nhìn dấu vết của sự tác động bằng cơ giới, ai cũng có thể hình dung ra cả một quá trình miệt mài và phải tiêu tốn rất nhiều tiền bạc để có được con đường mới này. Có những đoạn vách núi cheo leo, hiểm trở mà con đường mòn trước đây chỉ vắt qua đủ cho một người đi bộ, nay đã bị máy móc đào sâu, khoét vào lòng núi để mở rộng cho xe ô tô chạy dễ dàng.
7. “Chỉ còn mùa này nữa thôi, Công ty nước ngoài họ không cho vào rừng của họ nữa, họ bảo đây là đất của họ rồi,  không cho ta vào đi hái quả Cà nữa đâu. chắc là dân bản ta chết đói cả thôi cán bộ ơi”. Chị Vi Thị Vân vừa đi hái lượm quả Cà từ trên rừng về trăn trở cho biết.
8. Không chỉ mất đất sản xuất, mà diện tích chăn nuôi trâu bò, lợn gà cũng bị bóp nhỏ lại. Khiến người dân khi chăn nuôi thả rông trâu bò cũng bị chính IG "truy sát" cho đến chết khi chăn thả trong rừng.
Khoảng trung tuần 6/2010 đến nay, người dân và chính quyền xã Cắm Muộn đang “nóng” lên vì công nhân công ty này đã đánh cho đến chết một con trâu của ông Vi Văn Dũng ở bản Cắm. Lý do là con trâu đi tìm cỏ, chạy vào vườn ươm cây giống của Cty IG.
9. Chủ tịch xã Cắm Muộn, ông Lô Văn Vinh nói: “Phía Công ty IG không thực hiện đúng hợp đồng ban đầu là xây các công trình phúc lợi cho dân bản như: làm đường, xây nhà văn hóa, tạo điều kiện cho con em đi học và đặc biệt là lấy lao động ở xã chứ không lấy lao động từ ngoài vào để làm việc cho Innov Green.
Nhưng đến hiện nay, họ chỉ lấy người ở các huyện khác Quỳ Châu, Quỳ Hợp và thậm chí là thuê lao động người Mông ở tỉnh Hà Giang vào đây để làm việc. Họ cho 50 người Mông ở tỉnh Hà Giang vào làm mà không có giấy tờ gì hết, khi đưa người vào làm cũng không hề thông qua chính quyền địa phương chi hết”.
Anh Vi Thắng cán bộ tư pháp xã cho biết: “Tổng diện tích trên giấy tờ cho IG thuê là hơn 600 ha, nhưng mới đây xã và huyện đi đo lại thì con số đó đã lên đến 900 ha. Hiện nay cũng chưa thấy cấp trên can thiệp để đòi lại số đất đã bị chiếm”.
[hết trích dẫn].

Những việc làm trên của IG Nghệ An cho thấy:
a. UBND tỉnh Nghệ An là pháp nhân ký cho thuê đất, nhưng đến nay không có một mối liên hệ nào với huyện và xã để quản lý; đây là việc làm vô trách nhiệm, bỏ mặc để cho IG có cơ hội để lộng quyền.
b. Việc Công ty IG Nghệ An chỉ lấy người tỉnh ngoài vào làm việc mà không lấy người địa phương, phải chăng họ đang làm một điều gì mờ ám trên địa bàn? Việc không lấy người địa phương, có phải là họ sợ lộ những việc làm phi pháp của họ, đặc biệt về mặt an ninh lâu dài của đất nước?
c. Ai là người chịu trách nhiệm giao đất mà hôm nay IG đã lấn chiếm vựợt 300 ha, thì ai là người giải quyết số diện tích mà IG đã khai phá vượt hợp đồng nói trên? Liệu rằng có kế hoạch để thu hồi và phạt IG hay không, hay là “sống chết mặc dân, tiền thầy bỏ túi”?
d. Cần phải xem xét một cách tổng thể mối liên hệ giữa địa bàn huyện Quế Phong – Nghệ An, với tình hình di dân của TQ đang thực hiện tại Lào ở khu vực này, đây là mặt trận liên hoàn để TQ bao vây VN từ 3 phía (phía Bắc, phía Tây và Biển Đông); những người có chủ trương và cho thuê rừng có quan tâm đến vấn đề này không?!
e. IG đang thực hiện chủ quyền tại diện tích họ đã thuê; đẩy nhân dân địa phương ra khỏi vùng đất mà ngàn đời nay họ đã sinh sống và bảo vệ chủ quyền đất nước.
g. Đất cho thuê chỉ có 500 đồng/m2; nhưng hậu quả về các trận lũ lụt vừa qua ở địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh là cái giá phải trả cả về mạng người và tài sản quốc gia.

Như vậy, việc cho nước ngoài thuê đất trong thời gian là 50 năm, hậu quả là khôn lường xét trong hiện tại cũng như trong tương lai; vì vậy, đề nghị Quốc hội phải có giải pháp thích hợp để tránh một nguy cơ bị xâm lược mà VN không có cơ hội chiến thắng trong cuộc chiến này; đồng thời, làm rõ trách nhiệm của những người đã ban hành chủ trương và ký cho thuê đất như vậy.

N. H. Q.
16.11.2010
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

----------------------------------------

InnovGreen đang làm gì trên biên giới VN?

Cập nhật lúc 13:38, Thứ Ba, 16/11/2010 (GMT+7)

Cập nhật lúc 08:31, Thứ Tư, 17/11/2010 (GMT+7)

Cập nhật lúc 09:17, Thứ Năm, 18/11/2010 (GMT+7)

Cập nhật lúc 07:19, Thứ Sáu, 19/11/2010 (GMT+7)

.
.
.

KHI CÁI ÁC ĐÃ TRỞ THÀNH BÌNH THƯỜNG (Song Chi)

Song Chi

Có những ngày tôi không muốn đọc báo Việt Nam kể cả trong và ngoài nước, bởi vì cứ đọc mãi những tin tức về tình hình chính trị xã hội văn hóa ở Việt Nam, lại càng thấy lòng nặng trĩu. Ngay trên những trang báo “lề phải”, rõ ràng đã thấm nhuần những lời huấn thị của Đảng đồng thời hiểu rất rõ thân phận của báo chí trong một chế độ độc tài nên luôn luôn cố gắng “xấu che tốt khoe”, cố gắng tìm cho ra những thành tích, thành tựu của Đảng và nhà nước để tụng ca mọi lúc có thể, nhưng mặc dù vậy, những điểm tươi sáng vẫn chiếm tỷ lệ rất ít trên bức tranh toàn cảnh của xã hội Việt Nam. Cái xấu cái ác, sự bất công phi lý, những hành vi sai trái ngang ngược chà đạp lên luật pháp từ nhẹ đến cực kỳ nghiêm trọng, đi ngược lại những tiêu chuẩn nhất định của mọi xã hội văn minh dân chủ tiến bộ nói chung…càng ngày càng nhiều, xảy ra ở khắp mọi nơi, mọi lĩnh vực, với đủ mọi tầng lớp trong xã hội.

Thật ra xã hội nào mà chẳng có cái xấu cái ác, sự bất công. Nhưng trong những xã hội có những thể chế chính trị độc tài với những hình thức, mức độ khác nhau như Miến Điện, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Hàn, Eritrea, Iran, Iraq, Ả rập Xê-út, Somalia, Sudan, Venezuela…cái xấu, cái ác, cái bất công có điều kiện sinh sôi nảy nở và tồn tại một cách ngang nhiên hơn. Nhất là khi sự độc tài của chế độ lại đi kèm với một môi trường xã hội mà trong đó “quan trí” lẫn “dân trí” chưa cao, thì mức độ dã man của con người càng đáng sợ.

Cứ theo dõi tình hình xã hội Việt Nam thì thấy sự vô cảm, dã man, sự coi thường nhân phẩm, danh dự, sinh mạng của con người đối với đồng loại ngày càng trở nên không thể tưởng tượng nổi.

Ở Mỹ hay các nước phương Tây vẫn có những kẻ giết người hàng loạt, những kẻ tâm thần, bệnh hoạn, biến thái các kiểu, thích hành hạ nạn nhân của mình theo những cách “sáng tạo” nhất, thậm chí còn ăn thịt nạn nhân sau khi giết chết…
Có thể Việt Nam chưa có những trường hợp kiểu như vậy. Nhưng đó là những kẻ bệnh hoạn, bất bình thường. Điều đáng nói ở Việt Nam là sự vô cảm, độc ác có thể xảy ra ở những người bình thường nhất, trong những hành vi đời thường nhất.

Sự vô cảm, ác độc có thể xảy ra ngay trong lứa tuổi học sinh lẽ ra rất hiền hòa, ngây thơ, trong sáng. Dư luận đã từng phải lên tiếng báo động về hiện tượng không chỉ xảy ra một lần, các nữ sinh đánh nhau tàn tệ rồi quay thành video trong lúc có những em học sinh khác thản nhiên chứng kiến, không can thiệp! Dã man hơn, có một video clip không biết của ai quay và tung lên mạng, cảnh một người mặc sắc phục bộ đội, bị tai nạn giao thông cán đứt nửa người từ trên đùi trở xuống nhưng vẫn tỉnh táo, đang ngắc ngoải trong lúc chờ xe cứu thương tới. Trong video clip có thể thấy rõ rất nhiều người bu quanh nạn nhân, đứng nhìn, và có những người đã lấy điện thoại di động ra quay. Thật kinh sợ việc ai đó có thể bình tĩnh quay đồng loại của mình trong một hoàn cảnh thương tâm như vậy.

Báo chí đã từng nói rất nhiều về việc những tài xế coi thường tính mạng người khác. Việc những chiếc xe bus, xe tải, xe ben…chạy nhanh, phóng ẩu, gây tai nạn chết người là chuyện như cơm bữa. Ai sống trong các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội…thì đều chứng kiến xe bus đã trở thành những hung thần trên đường phố như thế nào. Nhiều khi xe dừng, người chưa kịp xuống hoặc vừa bước lên là xe đã chạy, nên mới có những trường hợp như một phụ nữ ở Hà Nội trong lúc đang bước xuống xe, cánh cửa xe bus đột nhiên đóng mạnh, đập vào mặt khiến bà ngã xuống và bị bánh sau xe bus chồm tới cán nát ngực, thương tích trầm trọng (tháng 11.2010); trước đó thì một nữ sinh cũng ở Hà Nội, do kẹt chân vào cánh cửa xe, bị xe kéo đi, khi nạn nhân và người đi đường la lên, xe không ngừng hẳn mà lại mở cửa nhả chân cô gái ra nên nạn nhân bị bánh sau chiếc xe cán nát đùi, gãy xương chậu. Những tai nạn xuất phát từ sự vô tâm đến nhẫn tâm này rất thường thấy. Nhưng có những trường hợp không phải là tai nạn mà là cố tình giết người. Đọc những bài báo viết về vụ tài xế xe container Đặng Hữu Anh Tuấn ba lần cán chết một cô gái ở TP.HCM (tháng 5.2008) hay vụ một chiếc “xe điên” do kỹ sư Nguyễn Minh Trí cố tình cán qua người nạn nhân sau khi đã tông ngã xe và người ra đường (tháng 9.2010), mà thấy rợn người.

Vì sao con người có thể dã man đến mức coi mạng người không có nghĩa lý gì, như vụ một tay quản lý của một trang trại cà phê ở Ban Mê Thuộc thản nhiên để mặc cho đàn chó becgie cắn xé đến chết một phụ nữ mà không cứu (tháng 1.2010), và kể cả tay giám đốc trang trại này, nuôi cả một đàn chó dữ có thể ăn thịt người để đối phó với những người dân nghèo vào mót quả cà phê? Hay những người dân ở xã Hưng Đông, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đã đánh đến chết hai thanh niên và thiêu cả xác lẫn xe chỉ vì hai người này đã ăn trộm chó!(tháng 9.2010)

Hiện trường vụ giết người trộm chó tại thành phố Vinh, Nghệ An. Nguồn: tuanvietnam.vn

Có còn chút nhân tính nào ở những con người mà trong cuộc sống, vẫn hết sức bình thường, không có bất cứ dấu hiệu gì của bất cứ loại bệnh tâm thần nào như vậy?

Sự độc ác bộc lộ ngay ở những người mà xã hội vẫn xem là những biểu tượng của lòng nhân từ, do nghề nghiệp và thiên chức của họ, ví dụ như nhà giáo, những cô bảo mẫu ở nhà trẻ, mầm non… Vậy mà có những người như cô bảo mẫu Lê Vi, trường mầm non Thiên Thơ, quận Phú Nhuận,TP.HCM, vì muốn cháu Đan Trân ngừng khóc đã dán băng keo vào miệng dẫn đến cái chết thương tâm của bé (năm 2007), bà bảo mẫu Quảng Thị Kim Hoa ở Biên Hòa, Đồng Nai đã đánh chửi tàn tệ các cháu nhỏ ở lứa tuổi mầm non mỗi ngày đến độ phãi lãnh án tù (năm 2008), cô giáo Trần Thị Xuân Nữ, Nhóm trẻ tư thục Hoa Lan, quận Tân Phú, TP.HCM đã nhốt bé Lê Quang Vinh vào thang máy vận chuyển thức ăn khiến bé bị thương tích khắp người (năm 2010)… Còn biết bao những vụ bạo hành khác cả về thể chất lẫn tinh thần, đã và vẫn đang diễn ra trong môi trường giáo dục, từ mẫu giáo đến tiểu học, trung học…mà báo chí và dư luận không hay biết? Thường gặp nhất là chuyện chửi mắng, xúc phạm học sinh bằng những lời lẽ nặng nề, như vụ cô giáo dạy tiếng Anh trường THPT chuyên Trần Phú, Hải Phòng mắng chửi học sinh bị các em ghi âm và tung lên mạng nên mới lộ ra chẳng hạn.

Bé Lê Quang Vinh 4 tuổi bị cô giáo nhốt vào thang máy thương tích đầy mình. Nguồn: tienphong.vn

Ngay trong một môi trường tưởng đâu phải là mái ấm cho những đứa trẻ bất hạnh không chốn nương thân, hóa ra cũng lại là địa ngục, như nhà mở Đồng Nai, nơi 4 đứa trẻ vì bị bạo hành quá mức gần đây đã phải bỏ trốn với thương tích đầy mình. Đáng nói hơn, nhà mở này không phải là một cơ sở tư nhân mà là một “Công trình Thanh Niên”, một mái ấm thiện nguyện trực thuộc quản lý của Tỉnh đoàn!

Hai trong bốn đứa trẻ vừa thoát khỏi địa ngục nhà mở Đồng Nai. Nguồn: vietnamnet.vn

Sự vô cảm, độc ác diễn ra ở những người vốn làm một cái nghề rất được tôn trọng khác: phóng viên, nhà báo. Trước đây tôi đã từng viết bài về đạo đức nghề báo ở Việt Nam bây giờ. Trong rất nhiều trường hợp, đặc biệt là quanh những vụ cướp, giết, hiếp…cách đưa tin, viết bài của nhiều phóng viên gây cho người đọc cảm giác về sự vô cảm, thiếu tính nhân văn. Qua một trường hợp báo chí khai thác xung quanh vụ hung thủ Nguyễn Đức Nghĩa giết người rồi chặt đầu để phi tang gần đây chẳng hạn. Báo chí nước nào thì cũng khoái khai thác những vụ cướp, giết, hiếp để thỏa mãn trí tò mò của người đọc. Nhưng cái cách các nhà báo bu xung quanh, chĩa máy vào bị cáo, canh từng giọt nước mắt của bị cáo, từng khoảng khắc đau khổ của người mẹ hung thủ hay người bố nạn nhân để đưa lên trang báo, phải nói là rất “phản cảm”. Chưa kể có cả tấm hình trong đó một phóng viên còn cười hớn hở trong khi giơ máy chụp được một kiểu ảnh ưng ý của bị cáo, người đang ngồi rũ ra trước bản án tử hình! Và ngay chính hung thủ Nguyễn Đức Nghĩa cũng là một ví dụ rõ nét về tội ác có thể được thực hiện ở một con người hoàn toàn bình thường, tỉnh táo, được ăn học tử tế, nhưng lại có thể có những hành vi cực kỳ man rợ.

Một thành phần khác trong xã hội Việt Nam rất bị mang tai mang tiếng về sự độc ác, tàn nhẫn đối với đồng loại là giới công an. Chỉ cần vào google gõ “công an đánh dân”, “công an đánh chết người” sẽ cho ra hàng loạt kết quả. Rất nhiều khi công an đánh người đến thương tật nặng nề, hoặc tử vong, chỉ vì những tội rất nhỏ như quên đội mũ bảo hiểm chẳng hạn. Có những trường hợp nạn nhân bị đưa về đồn thẩm vấn rồi bị dùng nhục hình đến chết chỉ trong một thời gian ngắn, khiến thân nhân của họ bức xúc phải làm lớn chuyện để đòi công lý cho người bị chết oan, mà vụ bạo động xảy ra tại Bắc Giang, tháng 7.2010 là một ví dụ. Có thể nói thẳng rằng ở Việt Nam bây giờ, hình ảnh các “công an nhân dân” đã trở thành biểu tượng của thói độc ác, côn đồ, những hung thần của nhân dân, những kẻ chỉ biết tuân theo lệnh Đảng và sẵn sàng chà đạp lên luật pháp, chà đạp lên nhân quyền, coi tính mạng nhân dân chả ra gì. Và khi xảy ra chết người thì việc xử lý thường rất qua loa, người dân cứ việc đi kiện, cứ việc dài cổ mà chờ công lý được thực thi!

Bạo động ở Bắc Giang ngày 25.7.2010 do người dân bức xúc trước việc công an đánh chết người vô cớ. Nguồn: ttxva.com

Tình trạng này khiến các tổ chức nước ngoài cũng phải lên tiếng. “Tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch (HRW) vừa lên tiếng yêu cầu chính phủ Việt Nam điều tra các vụ cáo buộc công an hành xử tàn bạo với dân.
Tổ chức có trụ sở chính tại New York viết trong một thông cáo ra vào tối thứ Tư, rằng họ có trong tay tài liệu về 19 vụ bạo hành liên quan công an Việt Nam, trong đó 15 người chết, trong một năm qua.
Ông Phil Robertson, Phó Giám đốc phụ trách Á châu của HRW , nói: "Thông tin về các vụ bạo hành của công an đang ngày càng nhiều một cách đáng báo động ở Việt Nam, gây quan ngại nghiêm trọng rằng các sai phạm này khá phổ biến và có tính hệ thống."
HRW kêu gọi chính phủ Viết Nam ra luật cấm công an lạm dụng quyền lực và bảo đảm rằng bất cứ công an viên nào có hành động như vậy sẽ bị kỷ luật, thậm chí truy tố hình sự.”
(BBC ngày 23.9.2010)
Cái ác diễn ra dưới mọi hình thức. Làm ăn cẩu thả, vô trách nhiệm dẫn đến sập cầu, sập nhà, sụp hố trên đường…gây chết người; gây ô nhiễm môi trường từ thức ăn đến nguồn nước, không khí…dẫn đến những cái chết từ từ vì các loại bệnh tật; phá rừng, không có kế hoạch trong việc xây bừa bãi các công trình thủy điện, rồi lại xả lũ vô trách nhiệm…làm lũ lụt ngày càng nặng, mỗi năm số người chết và mất tích ngày càng cao v.v… Và kinh khủng hơn, nhà nước này cỏn đang quyết tâm lao vào những dự án như khai thác bauxite ở Tây Nguyên bằng mọi giá, bất chấp những bằng chứng cảnh báo sờ sờ trước mắt từ tai họa bùn đỏ ở Hungary và lũ bùn ở Cao Bằng…là đỉnh điểm của sự tàn ác, vô lương tâm đối với chính đồng bào của mình.

Lũ lụt ở Quảng Bình, người dân cầu cứu khi nghe tiếng cano cứu nạn đi qua. Nguồn: tuoitre.vn

Trẻ em ở xã Điện Nam di chuyển bằng bè chuối giữa dòng nước lũ. Nguồn: zing.vn

Khi một xã hội mà cái ác diễn ra từ thấp đến cao, từ nhẹ đến cực kỳ nghiêm trọng, diễn ra dưới mọi hình thức, trong mọi lĩnh vực, với mọi con người bình thường nhất, mọi hành vi bình thường nhất và trở thành chuyện thường ngày trong mắt đám đông, thì xã hội ấy thực sự đang đi đến chỗ tự hủy hoại mình. Vì sao con người Việt Nam, xã hội Việt Nam lại có thể trở thành tàn tệ đi như thế, điều này thì hầu như ai trong chúng ta cũng có thể trả lời.

Một thể chế chính trị độc tài, thối nát chỉ quen dùng bạo lực để đối phó, trừng trị người dân, không có một cơ chế giám sát, phản biện, những lực lượng đối lập để kìm hãm, cũng không có một nền luật pháp độc lập để đủ sức răn đe những kẻ phạm pháp nên tội ác ngang nhiên tồn tại, đặc biệt là ở những thành phần có chức có quyền; trong khi đó giáo dục lại yếu kém, về mặt tinh thần, văn hóa thì sự thiếu vắng niềm tin vào cái thiện cộng với lỗ hổng hoàn toàn về triết học, mỹ học…khiến cho con người gần với phần con hơn phần người, lại thêm những bức xúc đời thường do phải quay cuồng với muôn ngàn nỗi lo từ sinh kế đến sự an toàn của bản thân…khiến con người dễ trở nên vô cảm và độc ác.

Còn lại, một câu hỏi không thể trả lời đó là người Việt Nam có thể chấp nhận một môi trường xã hội như vậy cho đến bao giờ?