16/8/10

ĐẠO ĐỂ LÀM GÌ ?

LM Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
Chuyện lạ đời chưa từng xảy ra
Hình như cho đến nay, chưa hề có một cuộc lễ nào của Công Giáo, mà Ban Tổ Chức phải ra thông cáo thận trọng dặn dò các tín hữu đi tham dự thánh lễ: “đừng mang theo những gì không cần thiết”, như trường hợp lễ nhậm chức Phó Tổng Giám Mục Hà Nội của Đức Cha Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn ngày 07-05-2010 vừa qua. Nay thì Ban Tổ Chức có thể thở phào nhẹ nhõm, vì đã không có gì đáng tiếc xảy ra. Ta hãy thử xem có thể học được gì từ buổi lễ khác thường này.
Chiên chứ không phải cừu

Sở dĩ đã không có gì đáng tiếc xảy ra vì giáo dân Việt Nam vốn có tinh thần kỷ luật rất cao. Ngay cả lúc xảy ra những vụ dầu sôi lửa bỏng như Thái Hà hay Tam Toà, họ vẫn biết tự chế. Nhưng cái mới, cái lạ là ngày nay giáo dân, tuy là những con chiên, nhưng không còn chấp nhận là những con cừu, ai nói gì cũng nghe, ai bảo sao cũng được. Cứ đọc bao nhiêu bài viết trên mạng trong thời gian vừa qua thì thấy rõ. Những khi cần, và có dịp để bày tỏ ý kiến, giáo dân không còn sợ nữa. Và họ có dư thừa sáng kiến để bày tỏ nguyện vọng của mình, tình cảm của mình. Lễ nhậm chức Giám mục Phát Diệm của Đức Cha Nguyễn Năng đã là một ví dụ. Nay đến lễ nhậm chức Phó Tổng Giám Mục Hà Nội của Đức Cha Nhơn. Trước mặt tiền nhà thờ chính toà Hà Nội, ta thấy một biểu ngữ nền đỏ chữ vàng Hân hoan chào mừng Đức Tân TGM Phó Phêrô. Biểu ngữ này chắc chắn là của Ban Tổ Chức. Nhưng tội nghiệp cho cái biểu ngữ đó: nó mới lẻ loi làm sao, đơn độc làm sao, giữa một rừng biểu ngữ nền vàng chữ đỏ:
– Tôn vinh Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt
– Chúng con yêu mến Đức Tổng Giu-se
– Chúng con đồng hành với Đức Tổng Giu-se
– Đức Tổng Ngô Quang Kiệt mới là người chủ chăn đích thực
– Đức Cha Giu-se Ngô Quang Kiệt mãi mãi là Tổng Giám Mục của chúng con
– Tinh thần Ngô Quang Kiệt bất diệt, v.v…
Được biết là trước lễ nhậm chức này, đã có một thỉnh nguyện thư với trên 15,000 chữ ký (nếu có thời gian và điều kiện để gom chữ ký, chắc con số này sẽ tăng lên rất nhiều lần). Nội dung thư này là xin Đức Giáo Hoàng đừng chấp nhận đơn xin từ chức của Đức Cha Ngô Quang Kiệt, nhưng tiếp tục giữ ngài lại trong chức vụ Tổng Giám Mục Hà Nội. Nghe đâu có vị quan chức người Việt bên Vatican nghe biết sự việc, đã vội bắn tiếng: làm như thế là chống đối Toà Thánh! Đúng là trò nhát con nít, vì bày tỏ nguyện vọng và chống đối là hai việc khác nhau. Và những con người nặng óc giáo sĩ trị, thì chỉ muốn giáo dân mãi mãi là những trẻ vị thành niên, và rất sợ những tín hữu trưởng thành. Nhưng điều đáng ngạc nhiên, mà lại rất đáng mừng, là hôm nay giáo dân, rõ ràng nhất là tại Hà Nội, không chỉ biết vâng lời, nghĩa là tuân lệnh, nhưng còn biết đối thoại, biết bày tỏ ý kiến của mình, biết đề đạt nguyện vọng của mình.
Trên bậc thang quyền bính, thì giám mục, đến linh mục, rồi mới đến giáo dân. Nhưng những gì ta chứng kiến trong cuộc lễ hôm nay cho ta hiểu tại sao Đức Cha Lê Đắc Trọng, về cuối đời, lại nhận định: giáo dân hơn linh mục, linh mục hơn giám mục. Giá mà nhận định này cũng là nhận định nếu không phải của mọi giám mục, thì cũng là một số nhiều nhiều, và nhận định đó được đưa ra sơm sớm trước khi gần nhắm mắt, thì phúc cho Giáo Hội biết chừng nào !
Dấu ấn Ngô Quang Kiệt
Câu hỏi đặt ra là do đâu mà Đức Tổng Kiệt lại được giáo dân ngưỡng mộ, kính yêu đến như vậy. Ngài không thuộc hàng khoa bảng, bằng cấp cùng mình, không phải là người có tài hùng biện để thu hút, mê hoặc người nghe. Năm năm làm Tổng Giám Mục Hà Nội là thời gian quá ngắn để đáng được lưu danh bằng cách đặt tên mình cho một công trình kiến trúc như hội trường tại một Trung Tâm Mục Vụ. Thế nhưng cứ nhìn rừng biểu ngữ được giương cao, nhìn những tấm hình của ngài được các tín hữu ôm trước ngực một cách vừa kính cẩn, vừa trìu mến, ta có thể hiểu được dấu ấn Đức Tổng Kiệt để lại trong óc, trong tim người giáo dân Hà Nội sâu đậm đến mức nào. Có lẽ tấm biểu ngữ “Tinh thần Ngô Quang Kiệt bất diệt” đã gói ghém mọi lý do của lòng cảm phục sâu sắc và yêu mến thiết tha mà giáo dân Hà Nội dành cho ngài. Tinh thần Đức Tổng Kiệt được thể hiện qua cách ngài làm mục vụ: không quản ngại đến chia sẻ với người dân khi họ gặp khó khăn thử thách, chẳng hạn lúc xảy ra thiên tai, đến thăm viếng ủi an khi họ bị đập đánh, bị thương tật, mạnh dạn tuyên bố sẵn sàng thay thế cho ai vì nghe lời ngài kêu gọi cầu nguyện mà phải đi tù.
Liều chết vì đoàn chiên
Nhưng có lẽ quan trọng nhất là Đức Tổng Kiệt đã dám đứng về phía người nghèo, người bị lường gạt, bị bóc lột, bị áp bức, để dõng dạc tuyên bố trước bạo quyền: Tự do tôn giáo là quyền chứ không phải là ân huệ xin-cho. Tìm ra được một gương mặt quả cảm trong hàng ngũ lãnh đạo hôm nay là chuyện quá hiếm. Ngài không ngoảnh mặt lên trời mà nói sảng, không dừng lại nơi những lý thuyết cao xa, những nguyên tắc trừu tượng. Khi mục tử bất chấp hiểm nguy cho tính mạng, can đảm đứng ra bênh vực đoàn chiên, thì lòng kính trọng và ưu ái được dành cho ngài chẳng có gì khó hiểu. Mục tử không phải là kẻ chăn thuê, chính Đức Giê-su đã từng cảnh báo (Ga 10,12). Đức Tổng Kiệt đã thể hiện lời giáo huấn của Chúa Giê-su: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Nay ngài ra đi, nhưng tinh thần của ngài sẽ tồn tại mãi.
Lời người ra đi
Trong buổi lễ nhậm chức, Đức Tổng Kiệt là người giới thiệu Tân Tổng Giám Mục Phó. Nghe giọng nói đĩnh đạc, đanh thép của Đức Tổng Kiệt, ta không thể nghĩ đó là giọng nói của một người mệt mỏi vì mất ngủ triền miên. Lời giới thiệu của ngài ngắn gọn, nhưng đầy đủ những điều cần nói, và nói rất hay. Một áng văn tuyệt vời! Quá nhiều thiệt thòi và quá nhiều đau khổ, đó là nhận định của ngài về Tổng Giáo Phận Hà Nội. Tuy là gốc Bắc, nhưng ngài sinh trưởng ở miền Nam. Ra làm giám mục Lạng Sơn, rồi về Hà Nội, ngài có điều kiện để so sánh xã hội và nhất là Giáo Hội ở hai miền Nam Bắc. Nếu hỏi: Quá nhiều thiệt thòi, quá nhiều đau khổ do đâu, thì câu trả lời là quá rõ: là vì miền Bắc hơn miền Nam 30 năm xã hội chủ nghĩa (từ 1945 đến 1975). Đứa con trong gia đình chịu thua thiệt thì cha mẹ phải thương hơn, phải quan tâm chăm sóc hơn. Như thế nào? Thì đây câu trả lời: “Từ nay ngài (Đức Tân Tổng Giám Mục Phó) không chỉ đồng cảm hay đồng hành với anh chị em nhưng sẽ đồng sinh đồng tử với anh chị em, với giáo phận. Đây không phải là một kiểu nói bóng bảy của một người làm văn, mà là xác tín sâu xa, hơn thế nữa là kinh nghiệm xương máu của người mục tử sắp phải chia tay với đoàn chiên, và cũng là một lời cầu chúc, một lời nhắn gửi, nếu không nói là một lời trối trăn cho người đến thay thế.
“Chàng rể” mới
Chiếc nhẫn của giám mục biểu trưng sự gắn bó keo sơn của giám mục với giáo phận của mình, cũng như chiếc nhẫn cưới của cô dâu hay chàng rể. Trong Thánh lễ nhậm chức ngày 7 tháng 5, trông dáng dấp “chàng rể” 72 tuổi, bước chân nặng nề, vẻ mặt căng thẳng, mắt nhìn xuống đất, ta không thấy được vẻ tự tin của người chủ đi về nhà mình. Đọc bài chia sẻ của ngài, ta có cảm tưởng ngài đang đi dây: cố gắng thế nào cho khỏi ngã, khỏi té: một bài chia sẻ Lời Chúa mang tính kinh điển có thể áp dụng cho bất cứ dịp lễ nào. Trong hoàn cảnh khó khăn tế nhị hôm nay, ta không thể đòi hỏi ngài nhiều hơn nữa. Trước cũng như sau Thánh Lễ, nhìn ngài bước đi lầm lũi, trông thật cô đơn. Giá mà kỳ đại hội các giám mục tại Xuân Lộc tháng 10 năm 2008 mà các thành viên trong Hội Đồng, đứng đầu là Đức Cha Chủ Tịch, nghĩ đến giám mục cô đơn Ngô Quang Kiệt, thì ngày hôm nay, Đức Tân Phó Tổng Giám Mục Hà Nội đã không phải cô đơn như thế. Nhưng dù sao thì sự cũng đã rồi!
Người chịu lắng nghe để rút kinh nghiệm
Bài diễn văn thứ ba của buổi lễ là của Đức Cha Nguyễn Chí Linh, giám mục giáo phận Thanh Hoá, Phó Chủ Tịch HĐGM/VN. Bài của Đức Cha Linh vừa tạo được sự ngạc nhiên và thích thú, vừa khơi lên niềm hy vọng giữa lúc bao người đang hồi hộp lo âu, băn khoăn tự hỏi: mai này, khi HĐGM/VN và ngay cả Toà Thánh Vatican đã mất nhiều uy tín, trong tình trạng yếu kém vì chia rẽ, lãnh đạo chịu khuất phục kẻ thù, liệu Giáo Hội sẽ đi về đâu? Bài của Đức Cha Linh không có vẻ gì là lên tiếng cũng như không lên tiếng. Ngài không né tránh, nhưng dám nhìn thẳng vào vấn đề. Đức Cha đã quan tâm theo dõi thời cuộc, không coi thường truyền thông, biết lắng nghe cả những tiếng nói ngược chiều, không vội vàng kết án, nhưng nhìn nhận vai trò tích cực và thiện chí xây dựng ngay cả những người dám phê bình chỉ trích. Ngài nói: “Điểm tích cực đầu tiên là mọi thành phần Dân Chúa đã có cơ hội nói lên nguyện vọng của mình một cách chân thành, đồng thời cũng có kinh nghiệm sâu sắc hơn về vai trò và sứ mệnh của các phương tiện truyền thông thời hiện đại. Kỷ niệm 50 năm thành lập, Hàng Giáo phẩm Việt Nam bước vào một giai đoạn mới qua đó, các bậc chủ chăn được lắng nghe tiếng nói cộng đồng Dân Chúa cách phong phú và cụ thể hơn, đồng thời cũng học được bài học biện phân cách bình tĩnh hơn đối với những thông tin mỗi lúc một đa dạng, đa chiều và phức tạp hơn. Điểm tích cực thứ hai là dù khác biệt, thậm chí có khi là đối lập, nhưng tất cả mọi quan điểm đều có một mẫu số chung là lòng yêu mến Giáo Hội. Suy nghĩ và cách biểu hiện khác nhau, nhưng lòng yêu mến vẫn là một. Trong bối cảnh và tinh thần Năm Thánh 2010, chúng ta hãy xem đây là cơ hội sống tình hiệp thông cách đặc biệt hơn: chúng ta cần phải can đảm hơn khi đối diện với các dị biệt, chúng ta cần phải mổ xẻ chuyện Giáo Hội cách rốt ráo hơn, công khai hơn, nhưng đồng thời trải nghiệm được cái giá phải trả để bảo vệ tình huynh đệ trong đại gia đình Giáo Hội.” Bản thân tôi, và chắc nhiều người khác cũng vậy, nghe bài diễn văn này xong, cảm thấy phấn khởi.
Nhưng rồi tôi lại tự hỏi: liệu Đức Cha Phó Chủ Tịch HĐGM/VN có phản ánh quan điểm của HĐGM/VN vào thời điểm này sau khi đã rút tỉa kinh nghiệm từ nhiều bài học đắt giá, hay đây chỉ là quan điểm của cá nhân ngài? Liệu suy nghĩ này sẽ tồn tại được bao lâu, có sẽ được thể hiện qua những việc làm cụ thể, hay rồi khi cuộc lễ đã tàn thì đâu lại vào đó ? Tâm trạng hoài nghi của tôi chẳng phải không có cơ sở, vì cách đây đúng một năm Đức Cha Nguyễn Văn Khảm đã có một bài viết mang tựa đề “Quan điểm Công Giáo về trách nhiệm của Giáo Hội trước các vấn đề xã hội” trong đó có những lời khẳng định rất mạnh mẽ, tỷ dụ như: “Các vấn đề chính trị và xã hội liên quan đến khía cạnh đạo đức là trách nhiệm đặc thù của Giáo Hội, chẳng hạn chiến tranh, tham nhũng, phá thai, gian dối…”. Thế nhưng một năm đã trôi qua, bài viết của Đức Cha Khảm chỉ nằm trên giấy.
Trở lại với bài diễn văn của Đức Cha Phó Chủ Tịch HĐGM/VN, ta chỉ có thể cầu mong cho thiện ý của ngài, cách nhìn, cách đánh giá tích cực của ngài thực sự phản ánh một thay đổi, tuy muộn màng, của hàng giáo phẩm Việt Nam đối với truyền thông, đối với công luận, để nhìn nhận vox populi, vox Dei, ý dân là ý Trời. Chỉ có vậy mới có thể mong rằng từ cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay, Giáo Hội Việt Nam có thể vươn mình đứng dậy, khởi đầu bằng việc sám hối.
Tin giờ chót
Tôi viết bài này khi Đức Tổng Kiệt đang trong máy bay rời khỏi Việt Nam. Là chứng nhân của Chúa Ki-tô, chứng nhân của sự thật, của công lý, cây tùng cây bách Ngô Quang Kiệt không chỉ bị đốn ngã, bị trốc gốc, mà còn phải bứng đi cho khỏi nước Việt Nam, cho khuất mắt nhà cầm quyền Hà Nội. Cây phải đốn vì cây bị bệnh, nhưng đó chỉ là cái cớ. Điều đáng nói là cây bị đốn cách hợp pháp, với phép lành của Toà Thánh Vatican, và ít nhất là với sự đồng tình của HĐGM/VN. Nhà cầm quyền Việt Nam có thể an lòng: từ nay sẽ không có giám mục nào đứng ra kêu gọi cầu nguyện như Đức Tổng Kiệt nữa. Và có xảy ra điều gì thì cũng sẽ là chuyện địa phương thôi. Nguyên tắc đã có sẵn rồi.
Kết luận
Những diễn biến vừa qua cho thấy rằng: Chuyện bắt đạo kiểu xưa đã qua rồi. Đức Tổng Kiệt rời Hà Nội để một vị khác đến, không đơn thuần chỉ là chuyện thay đổi nhân sự. Nay thì không ai “bắt đạo” đâu. Nhưng đạo muốn tồn tại thì phải “biết điều”! Sẽ có những cuộc lễ linh đình trọng thể, với đầy đủ trống phách, với các tư tế mũ cao áo rộng, sẽ có những cơ sở hoành tráng nếu có tiền (nghe đâu Trung Tâm Hành Hương La Vang dự kiến tốn đến 25 triệu Mỹ Kim trên miền đất “chó ăn đá gà ăn sỏi”). Miễn là đạo đừng ra khỏi nhà thờ, đừng đụng chạm gì đến chế độ độc tài, bất nhân, mặc cho xã hội hoàn toàn băng hoại, dân nghèo bị nghiền nát, trong khi một nhóm tư bản đỏ tự do tung hoành, mặc cho dân tộc ngày càng chui đầu vào vòng nô lệ giặc Tàu, nợ nần quốc gia cứ cao như núi, vì người đi vay biết chắc: người trả sẽ không phải là mình… Trong một xã hội như thế mà người có đạo chỉ vòng tay ngậm miệng đứng nhìn, thì câu hỏi đặt ra là: đạo để làm gì ?
Sài-gòn, ngày 13 tháng 05 năm 2010
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm
pascaltinh@gmail.com

Đảng lệ đè lên Luật Pháp hay “Ô dù” của Nguyễn Bá Thanh

By HoangHac • May 24th, 2010 • Category: Tin & Bài về Việt Nam
nguyenbathanh944Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi bảo kê bỏ tù những người tố cáo Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh tham nhũng hay Đảng lệ đè pháp luật?
Dù muốn hay không, Ban lãnh đạo Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam cũng đã phải thừa nhận “Tham nhũng là quốc nạn” với việc lập ra cả một Ban chỉ đạo trung ương chống tham nhũng do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cầm chịch có chân rết trong tất cả các Bộ, ngành và địa phương. Điều này không chỉ cho thấy tham nhũng có phạm vi toàn Việt mà còn cho thấy cuộc chiến chống tham nhũng là Một mất một còn.
Chỉ lấy ví dụ ở Đà Nẵng, đáng tiếc là các thế lực tham nhũng và bao che tham nhũng đang thắng thế với việc những người tố cáo hành vi “nhận hối lộ” của Bí thư thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc Hội Nguyễn Bá Thanh, bị Hội đồng xét xử Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao do thẩm phán Trần Mẫn làm Chủ tọa bỏ tù vào cuối tháng 12 năm ngoái do đã “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”?!
Mọi chuyện bắt đầu từ Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Lãnh đạo Viện KSNDTC và Công văn số 77/KSĐT/KT ngày 01/11/2000 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Viện trưởng Viện KSNDTC và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Phan Diễn đề nghị xử lý Nguyễn Bá Thanh về tội nhận hối lộ của Phạm Minh Thông, Giám đốc Công ty hợp doanh xây lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng, Nguyễn Hưng, Chỉ huy phó Công trình đường Bắc Nam.
Đặc biệt Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rõ: “Thông khai có đưa cho ông Nguyễn Bá Thanh – Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông Thanh là Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích lại cho ông 5% trên số vốn do công trình xây dựng bằng vốn ngân sách và 150.000đ/m2 trên số mét vuông đất do Ủy ban nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Na… Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, vào chiều ngày 31/10/2000 sau khi phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, thì có 5/7 thành viên Ủy ban kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông, Nguyễn Hưng phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội: Nhận hối lộ. Do đó nếu vụ án dừng lại chỉ xử lý quy buộc số tiền trên cho Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng mà không điều tra, xử lý đối tượng nhận tiền thì sẽ oan cho người đưa tiền, trong khi đó người đòi hối lộ thì vô can, dư luận nhân dân không đồng tình và vụ án không được giải quyết triệt để và thỏa đáng”.
Do hai công văn này cùng với những lá đơn tố cáo hành vi tham nhũng của Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh được một công dân thành phố Đà Nẵng là Đinh Công Sắt lưu hành trong dân chúng mà trong mắt Công an thành phố Đà Nẵng là hành vi xâm hại đến uy tín, danh dự của Nguyễn Bá Thanh nên vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” đã được khởi tố. Trong số các bị can rồi tiếp đó là bị cáo ngoài Thiếu tướng Trần Văn Thanh, Chánh Thanh tra Bộ Công an, người đã tổ chức điều tra hành vi “nhận hối lộ” của Nguyễn Bá Thanh, còn có một cán bộ công an khác là Trung tá Dương Tiến, Trưởng Đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh.
Nếu như Thiếu tướng Trần Văn Thanh đã là nạn nhân của sự trả thù tư pháp phi nhân chưa từng thấy trong lịch sử thế giới hiện đại khi ông bị Chánh án Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng Nguyễn Văn Quận điệu ra nơi xét xử khi đang hôn mê và bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao xử 12 tháng tù treo, Trung tá Dương Tiến bị Tòa án thành phố Đà Nẵng kết án 17 tháng 5 ngày tù giam và bị Hội đồng xét xử phúc thẩm y án, đúng bằng thời gian ông bị giam cầm trái pháp luật. Và phân tích sau đây chỉ riêng những hành vi phản pháp luật thể hiện trong bản án hình sự phúc thẩm đối với Trung tá Dương Tiến cũng đã đủ cho thấy thế lực tham nhũng có tính hệ thống trả thù những người chống tham nhũng điên cuồng và hèn hạ đến mức nào.
Hội đồng xét xử phúc thẩm đã kết án Trung tá Dương Tiến với lời buộc tội sau đây:
Tại đơn kháng cáo kêu oan cũng như tại phiên tòa sơ thẩm trước đây và phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo chỉ thừa nhận vào ngày 14/5/2007, tại Văn phòng đại diện báo Công an TP. Hồ Chí Minh tại Hà Nội, bị cáo có giao cho Đinh Công Sắt tài liệu gồm: công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 và công văn số 77/KSĐT-KT ngày 01/11/2000 của VKSND TP. Đà Nẵng gửi lãnh đạo VKSNDTC và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, nội dung công văn có nêu kết quả điều tra vụ án Phạm Minh Thông, trong đó có một số lời khai của Phạm Minh Thông có liên quan đến lãnh đạo thành phố Đà Nẵng; bị cáo không thừa nhận có bảo Đinh Công Sắt đem tài liệu về phát tán cho dân Đà Nẵng đọc.
Xét thấy, vụ án Phạm Minh Thông và vụ án Nguyễn Hưng đã được Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm từ năm 2002, án đã có hiệu lực pháp luật, không có cán bộ lãnh đạo nào của thành phố Đà Nẵng liên quan đến bản án đã xét xử. Do đó mọi hành vi nhằm xúc phạm đến uy tín, danh dự lãnh đạo thành phố Đà Nẵng trong vụ án trên là phạm pháp.
Tại các biên bản ghi lời khai và tại các bản tường thuật trong giai đoạn điều tra cho thấy bị cáo Dương Tiến khi cung cấp hai công văn 73,77/KSĐT-KT nói trên đã bảo với Đinh Công Sắt đem đi photocopy nhiều bản, mang về cho dân Đà Nẵng đọc. Lời khai này phù hợp với lời khai của Đinh Công Sắt. Tài liệu này cùng với một số tài liệu khác sau đó đã được Sắt phát tán nhiều nơi, cho nhiều người tại địa bàn thành phố Đà Nẵng vào các ngày 15,16,17,18/5/2007 gần ngày bầu cử Quốc hội khóa 12 nhằm mục đích làm ảnh hưởng, gây khó khăn cho công tác bầu cử tại địa phương, làm giảm uy tín ứng cử viên đại biểu Quốc hội. Hành vi của bị cáo Dương Tiến và Đinh Công Sắt đã làm cho một bộ phận cử tri hoang mang, khiến chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan có trách nhiệm trong công tác chuẩn bị bầu cử cũng như giới thiệu ứng cử viên phải huy động lực lượng cho việc khắc phục hậu quả, thu hồi tài liệu mà các bị cáo tán phát và trấn an dư luận nhằm đảm bảo cho công tác bầu cử được diễn ra thuận lợi.
Về việc bị cáo Dương Tiến và Luật sư cho rằng công văn 73,77 không có dấu mật, công khai, ai đọc cũng được là điều không thể chấp nhận. Bởi lẽ bị cáo là công an, đồng thời giữ chức vụ Trưởng Văn phòng đại diện của một tờ báo ngành công an, bị cáo phải nhận thức rõ nội dung 2 công văn trên có đề cập đến cá nhân lãnh đạo địa phương, vì vậy chỉ có người có thẩm quyền mới được biết.
Việc Dương Tiến đã chủ động gọi cho Đinh Công Sắt ra Hà Nội để cung cấp 2 công văn trên, hỗ trợ tiền cho Sắt làm chi phí đi lại, bảo Sắt mang về tán phát đã thể hiện rõ mục đích, ý thức phạm tội của bị cáo. Do biết đây là hành vi vi phạm pháp luật nên bị cáo đã dặn Sắt “Phải cẩn thận”. Sau đó ngày 17/5/2007, bị cáo vào Đà Nẵng gặp Đinh Công Sắt để nắm tình hình dư luận Đà Nẵng sau khi Sắt tán phát tài liệu như lời khai tại bút lục 912, ngày 04/3/2008. Trong vụ án này, Dương Tiến và bị cáo Đinh Công Sắt là đồng phạm về hành vi tán phát tài liệu 2 công văn 73,77/KSĐT-KT tại thời điểm gần đến ngày bầu cử Quốc hội khóa 12, làm ảnh hưởng đến hoạt động của Nhà nước, tổ chức xã hội địa phương về công tác bầu cử, làm ảnh hưởng đến uy tín của người khác. Dương Tiến là đồng phạm với Đinh Công Sắt về hành vi trên. Án sơ thẩm không quy buộc bị cáo Tiến là đồng phạm với Trần Văn Thanh và Nguyễn Phi Duy Linh.
Với những căn cứ trên, xét án sơ thẩm áp dụng Khoản 1 Điều 258 BLHS để xử phạt Dương Tiến về “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” là có căn cứ, đúng tội. Do đó, cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo cũng như quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo”.
Thế nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đã cố tình kết án oan Trung tá Dương Tiến vì vụ án hình sự này không có người bị hại như chứng minh sau đây.
Điều 8 BLHS quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân…”, Điều 51 BLTTHS quy định: “Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Rồi các Điều 68, 137 BLTTHS quy định về lời khai của người bị hại, Điều 191 BLTTHS quy định sự có mặt của người bị hại tại phiên tòa… Như vậy, theo pháp luật hình sự, tội phạm được xác định bởi người bị hại, không có người bị hại thì không có tội phạm.
Chắc chắn “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” không thuộc các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe và vì thế người bị hại bởi tội phạm này chắc chắn không chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự, đồng nghĩa với việc người bị hại phải lên tiếng về tội phạm bằng cách này hay cách khác.
Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Lãnh đạo VKSNDTC và Công văn số 77/KSĐT/KT ngày 01/11/2000 của Viện KSND thành phố Đà Nẵng gửi Đ/c Viện trưởng VKSNDTC và Đ/c Phan Diễn, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng đều đề cập đến việc Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng đã nhận hối lộ của Phạm Minh Thông, Giám đốc Công ty hợp doanh xây lắp và kinh doanh nhà Đà Nẵng, Nguyễn Hưng, Chỉ huy phó Công trình đường Bắc Nam.
Đặc biệt Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rõ: “Thông khai có đưa cho ông Nguyễn Bá Thanh – Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông Thanh là Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích lại cho ông 5% trên số vốn do công trình xây dựng bằng vốn ngân sách và 150.000đ/m2 trên số mét vuông đất do Ủy ban nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Nam… Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên, vào chiều ngày 31/10/2000 sau khi phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, thì có 5/7 thành viên Ủy ban kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông, Nguyễn Hưng phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội: Nhận hối lộ. Do đó nếu vụ án dừng lại chỉ xử lý quy buộc số tiền trên cho Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng mà không điều tra, xử lý đối tượng nhận tiền thì sẽ oan cho người đưa tiền, trong khi đó người đòi hối lộ thì vô can, dư luận nhân dân không đồng tình và vụ án không được giải quyết triệt để và thỏa đáng”.
Như vậy, theo quan điểm của Hội đồng xét xử phúc thẩm, việc Trung tá Dương Tiến, cung cấp 02 công văn 73,77/KSĐT-KT của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng cho Đinh Công Sắt là hành vi “xúc phạm đến uy tín, danh dự” của Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy ĐCSVN thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng và do đó Nguyễn Bá Thanh là “người bị hại”. Thế nhưng, trong toàn bộ hồ sơ của vụ án phần liên quan đến Trung tá Dương Tiến không có bất cứ dấu vết nào dù là nhỏ nhất cho thấy Nguyễn Bá Thanh là “người bị hại”, chẳng hạn như: đơn tố cáo, lời khai của chính Nguyễn Bá Thanh tại Cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của Trung tá Dương Tiến. Mà đã không có “người bị hại” thì không thể có việc Trung tá Dương Tiến phạm tội.
Tóm lại, chỉ riêng việc không có “người bị hại” trong vụ án hình sự này cũng đã đủ chứng minh Trung tá Dương Tiến hoàn toàn vô tội. Do đó, việc Hội đồng xét xử phúc thẩm đưa vụ án ra xét xử mà lẽ ra phải đình chỉ theo Khoản 2 Điều 239 (Kháng cáo kháng nghị những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm) Bộ Luật TTHS và hơn thế nữa, kết án Trung tá Dương Tiến dứt khoát là hành vi phạm “Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” quy định tại Điều 294 và “Tội ra bản án trái pháp luật” quy định tại Điều 295 Bộ Luật Hình sự!
Như vậy, người viết bài này đã chứng minh xong sự vô tội của Trung tá Dương Tiến cũng như chứng minh xong tội phạm “Truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” của Hội đồng xét xử phúc thẩm – Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng do Thẩm phán Trần Mẫn làm Chủ tọa. Tuy nhiên, điều nghiêm trọng hơn rất nhiều là Hội đồng xét xử phúc thẩm kết án oan Trung tá Dương Tiến không hẳn do dốt nát về nghiệp vụ hoặc do có vấn đề về tâm thần mà là do cố ý hãm hại người vô tội nhằm bao che hành vi “nhận hối lộ” của Bí thư Thành ủy Đảng cộng sản Việt Nam, Đại biểu Quốc hội, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh.
Thực vậy, có cả một loạt chứng cứ chứng minh nhận định này.
1. Hội đồng xét xử phúc thẩm bịa đặt căn cứ để kết tội
Pháp luật quy định các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có thể điều tra, kiểm sát, xét xử trên cơ sở các quy định của pháp luật. Thế nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đưa ra ít nhất 02 căn cứ không có trong bất kỳ văn bản pháp luật nào để kết tội Trung tá Dương Tiến.
Tại bản án phúc thẩm có ghi: “Xét thấy, vụ án Phạm Minh Thông và vụ án Nguyễn Hưng đã được Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm từ năm 2002, án đã có hiệu lực pháp luật, không có cán bộ lãnh đạo nào của thành phố Đà Nẵng liên quan đến bản án đã xét xử. Do đó mọi hành vi nhằm xúc phạm đến uy tín, danh dự lãnh đạo thành phố Đà Nẵng trong vụ án trên là phạm pháp”.
Ngoài ra, tại bản án phúc thẩm còn ghi: “bị cáo Dương Tiến và Luật sư cho rằng công văn 73,77 không có dấu mật, công khai, ai đọc cũng được là điều không thể chấp nhận. Bởi lẽ bị cáo là công an, đồng thời giữ chức vụ Trưởng Văn phòng đại diện của một tờ báo ngành công an, bị cáo phải nhận thức rõ nội dung 2 công văn trên có đề cập đến cá nhân lãnh đạo địa phương, vì vậy chỉ có người có thẩm quyền mới được biết”.
Sự bịa đặt của Hội đồng xét xử phúc thẩm được thể hiện như sau:
Thứ nhất, không có bất cứ văn bản pháp luật nào quy định bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật đối với người không phải là bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm muốn bản án hình sự phúc thẩm vụ án Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng có hiệu lực pháp luật với Nguyễn Bá Thanh thì nhân vật này bắt buộc phải là bị cáo trong vụ án này. Thế nhưng Nguyễn Bá Thanh không phải là bị cáo trong vụ án vì chưa bị Công an thành phố Đà Nẵng khởi tố bị can để điều tra để rồi bị Viện kiểm sát truy tố ra Tòa án để xét xử về “Tội nhận hối lộ” quy định tại Điều 279 Bộ Luật Hình sự!
Nói cách khác, muốn pháp luật xác nhận Nguyễn Bá Thanh không phạm “Tội nhận hối lộ” của Phạm Minh Thông và Nguyễn Hưng thì cách duy nhất là phải khởi tố bị can và truy tố Nguyễn Bá Thanh ra Tòa án để rồi Hội đồng xét xử tuyên Nguyễn Bá Thanh không phạm tội sau khi bác bỏ những chứng cứ buộc tội của đại diện Viện kiểm sát thực hiện công tố đối với nhân vật này. Đó chính là điều mà Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà đã không dưới 2 lần cấp thiết đề nghị ngay giữa phiên tòa trước một cử tọa đông đảo nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đã cố tình lờ đi.
Thứ hai, không có bất cứ quy định pháp luật nào cấm công dân tiếp tục tố cáo hành vi phạm pháp của lãnh đạo thành phố Đà Nẵng nói chung, hành vi phạm pháp của Nguyễn Bá Thanh nói riêng với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ngay cả trong trường hợp Nguyễn Bá Thanh với tư cách bị cáo được Tòa án tuyên vô tội như giả thiết nêu trên.
Nhân đây cần khẳng định rằng chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân chứ không phải là việc riêng của chính quyền và các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng nghĩa hoạt động của các cơ quan này phải chịu sự giám sát chặt chẽ của người dân và của xã hội thông qua báo chí. Để nói việc Trung tá Dương Tiến đưa cho Đinh Công Sắt xem hai công văn số 73 và 77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng là hoàn toàn chính đáng và cần thiết, không chỉ trao đổi thông tin để chống tham nhũng có hiệu quả hơn mà còn để giám sát chính quyền nói chung, cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng trong đấu tranh chống tham nhũng!
Theo Khoản 3 Điều 8 BLHS thì “Tội nhận hối lộ” là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm này quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 23 BLHS là 20 năm. Do Nguyễn Bá Thanh chưa bị Công an thành phố Đà Nẵng khởi tố để điều tra về hành vi nhận hối lộ như Viện KSND thành phố Đà Nẵng đề xuất tại 02 công văn 73 và 77/KSĐT-KT nên việc công dân phẫn nộ, tiếp tục tố cáo hành vi phạm pháp này của Nguyễn Bá Thanh không những là bình thường mà còn rất cần thiết để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý Nguyễn Bá Thanh một cách triệt để bằng biện pháp tư pháp.
Tóm lại, tố cáo là quyền công dân được Hiến pháp và Luật khiếu nại, tố cáo bảo hộ. Do đó việc Hội đồng xét xử phúc thẩm xét xử và kết án những người liên quan đến việc tố cáo Nguyễn Bá Thanh nhận hối lộ rõ ràng là hành vi cản trở việc tố cáo và cản trở việc xử lý ông Thanh theo pháp luật và vì vậy phạm “Tội xâm phạm quyền khiếu nại tố cáo” quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 132 Bộ Luật Hình sự.
Sự bịa đặt của Hội đồng xét xử phúc thẩm được thể hiện như sau:
Thứ nhất, không có bất cứ quy định pháp luật nào cấm công dân đọc công văn có dấu “Mật” của các cơ quan Nhà nước huống chi công văn không có dấu “Mật” như hai công văn số 73 và 77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Thứ hai, không có bất cứ văn bản pháp luật nào quy định công văn đề cập đến cá nhân lãnh đạo chính quyền địa phương chỉ người có thẩm quyền mới được biết.
Tóm lại, chỉ trong trường hợp tài liệu có dấu “Mật” bị lọt ra ngoài xã hội thì mới có thể truy cứu trách nhiệm và người bị truy cứu trách nhiệm là người có thẩm quyền đã để lọt tài liệu đó ra ngoài chứ tuyệt nhiên không thể truy cứu trách nhiệm người dân hay người không có thẩm quyền đã đọc tài liệu đó.
2. Hội đồng xét xử phúc thẩm tự mâu thuẫn khi một mặt, mặc nhiên thừa nhận Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh có hành vi “nhận hối lộ” như kết luận của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại 02 công văn số 73 và 77/KSĐT-KT nhưng mặt khác, lại kết luận việc lưu hành 02 công văn này xúc phạm danh dự, uy tín của Nguyễn Bá Thanh.
Nếu Hội đồng xét xử cho rằng việc lưu hành 02 công văn số 73 và 77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng là hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh thì người có hành vi này phải biết rõ những điều mà họ loan truyền, lưu hành là bịa đặt, tương tự hành vi của người phạm “Tội vu khống” quy định tại Điều 122 Bộ Luật Hình sự.
Thế nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đã không đả động một chút nào đến nội dung của 02 công văn này, tức mặc nhiên thừa nhận việc Nguyễn Bá Thanh nhận hối lộ không phải là bịa đặt, tức có thực.
Điều đáng lưu ý là ngoài hai công văn 73,77 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng, theo Thiếu tướng Trần Văn Thanh, Chánh Thanh tra Bộ Công an tại Bản trình bày ngày 03/11/2008 làm theo yêu cầu của tổ công tác liên ngành kèm theo công văn 3429/VKSTC-V2 ngày 30/10/2008 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, còn có nhiều văn bản của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác xác nhận các đơn tố cáo về hành vi tham nhũng của Nguyễn Bá Thanh của một số công dân thành phố Đà Nẵng (trong đó có đơn tố cáo của Đinh Công Sắt) là có cơ sở và đề xuất xử lý hình sự Nguyễn Bá Thanh như:
- Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ ngày 26/10/2007 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Thủ tướng Chính phủ và Thường trực Ban bí thư và Báo cáo số 38/BC-VPBCĐ ngày 07/4/2008 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng đề xuất xử lý Nguyễn Bá Thanh theo quy định của pháp luật.
- Kết luận thanh tra số 524/KLTT-BCA (V24) ngày 06/6/2008 của Bộ Công an xác định có đủ căn cứ để khởi tố vụ án và bị can đối với Nguyễn Bá Thanh và việc Công an thành phố Đà Nẵng không khởi tố để điều tra là vi phạm Điều 103, 104 BLTTHS, có dấu hiệu vi phạm Điều 294 BLHS.
3. Hội đồng xét xử phúc thẩm cố ý vi phạm tố tụng hình sự do đã không triệu tập ông Nguyễn Trịnh Thăng tham gia tố tụng với tư cách nhân chứng duy nhất cuộc gặp giữa Đinh Công Sắt và Trung tá Dương Tiến, ngày 14/5/2007 tại Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội.
Ngày 11/01/2010, ông Nguyễn Trịnh Thăng, thường trú tại Tổ 42 An Hòa, phường An Hải Bắc, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã viết Đơn gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tố cáo Hội đồng xét xử sơ thẩm – Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng do Thẩm phán Nguyễn Thành làm Chủ tọa và Hội đồng xét xử phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng do thẩm phán Trần Mẫn làm Chủ tọa đã cố ý gạt bỏ ông Thăng với tư cách nhân chứng để kết án oan Trung tá Dương Tiến cho bằng được. Nội dung Đơn tố cáo như sau:
“Vào ngày 14/05/2007, ông Sắt gọi điện thoại cho tôi báo ông Sắt đã ra đến Hà Nội và đề nghị tôi cùng đến gặp ông Dương Tiến tại Văn phòng đại diện báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội. Khoảng 5 đến 6 giờ tối cùng ngày tôi và ông Sắt được ông Dương Tiến tiếp tại phòng khách của Văn phòng và ông Sắt có đưa cho ông Dương Tiến một tập tài liệu (nội dung tài liệu thì tôi không được biết). Do thấy hai người nói chuyện cho nên tôi xin phép ra ngoài khoảng 15 phút. Khi quay lại thì tôi thấy ông Sắt đang đọc hai tài liệu. Sau đó ông Sắt có đưa cho tôi xem qua thì tôi được biết đây là 02 Công văn số 73,77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đề nghị xử lý ông Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng lúc đó, do đã nhận hối lộ của Phạm Minh Thông. Đọc xong tôi trả lại hai tài liệu này cho ông Sắt. Lúc này ông Sắt nói với ông Dương Tiến cho ông Sắt mượn 02 Công văn số 73,77/KSĐT-KT của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng để đi photocopy và ông Dương Tiến đồng ý. Sau đó ông Sắt rủ tôi cùng đi đến một cửa hàng photocopy thuộc phường Cát Linh nhưng do cửa hàng đó đóng cửa nên ông Sắt bảo tôi vào quán uống nước đợi ông. Khoảng 20 phút sau ông Sắt quay lại và bảo tôi đi cùng để trả hai tài liệu trên cho ông Dương Tiến. Sau khi trả hai tài liệu, ông Sắt nói với ông Dương Tiến rằng ông Sắt không có tiền để về Đà Nẵng thì ông Dương Tiến đưa cho ông Sắt một triệu đồng để hỗ trợ. Sau đó tôi đưa ông Sắt ra ga Hà Nội để về Đà Nẵng, còn tôi thì vẫn ở lại Hà Nội.
Vào ngày 16-17/05/20007, ông Dương Tiến vào Đà Nẵng và ở tại khách sạn Xanh và có nhờ tôi chở đi xem một số dự án, công trình mà các công dân Đà Nẵng đang khiếu kiện mà ông Tiến đã phản ánh qua bài báo “Nguyên nhân nào một số công dân Đà Nẵng khiếu kiện gay gắt” đăng trên báo Công an thành phố Hồ Chí Minh ngày 10/05/2007. Tôi có chở ông đi một số nơi trong đó có dự án sân vận động Chi Lăng, dự án thủy sản Thọ Quang đường Liên Chiểu, Thuận Phước… Trong thời gian ở khách sạn Xanh, ông Dương Tiến nhận được một bản fax bài viết của ông Trần Đình Bá và có cho tôi và ông Sắt xem ngay tại quán cà fê của khách sạn. Xem xong, chúng tôi trả lại ông Dương Tiến bản fax đó.
Kết luận lại, tôi, Nguyễn Trịnh Thăng, một lần nữa khẳng định ông Dương Tiến không hề:
1. Bảo chúng tôi, Nguyễn Trịnh Thăng và Đinh Công Sắt phát tán 02 Công văn số 73 và 77 của Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng cho nhân dân Đà Nẵng đọc;
2. Vào Đà Nẵng chỉ để theo dõi, nắm tình hình dư luận về bài báo của ông viết về Đà Nẵng;
3. Cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của ông Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo.
Là người có mặt trong các cuộc gặp giữa ông Dương Tiến và ông Đinh Công Sắt nhưng tôi không hề được cấp Tòa sơ thẩm cũng như cấp Tòa phúc thẩm triệu tập tham gia tố tụng với tư cách nhân chứng. Điều này cho thấy cả hai cấp Tòa đã chủ định kết án oan ông Dương Tiến nên mới gạt tôi, Nguyễn Trịnh Thăng, nhân chứng chứng minh ông Dương Tiến vô tội, ra khỏi thành phần tham gia tố tụng trong vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.

4. Thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên Tòa phúc thẩm đã vi phạm nghiêm trọng Điều 218 (Đối đáp) Bộ Luật tố tụng hình sự.
Điều 218 (Đối đáp) Bộ Luật hình sự quy định:
“Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án.
Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận”.

Thế nhưng Thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên Tòa phúc thẩm đã liên tục vi phạm quy định tố tụng hình sự này:
Ø Khi Luật sư Nguyễn Thị Dương bắt đầu tranh luận thì ngăn Luật sư bằng cách nói là chưa đến phần tranh luận. Khi Luật sư đòi tranh luận, đối đáp với đại diện Viện kiểm sát thì lại nói là phần tranh luận đã qua rồi, Luật sư không được tranh luận nữa?!
Ø Nhiều lần cắt ngang, ngăn cản Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà thực hiện bào chữa thô bạo đến mức Luật sư phải tuyên bố thẳng thừng là Chủ tọa phiên tòa đã vi phạm nghiêm trọng Điều 218 Bộ Luật tố tụng hình sự thì mới chịu để Luật sư tiếp tục công việc của mình.
Ø Không yêu cầu Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Ø Nhiều lần trực tiếp tranh luận với Luật sư thay cho đại diện Viện kiểm sát, vi phạm tính khách quan của Hội đồng xét xử!!!
Ø Ra lệnh cho nhân viên kỹ thuật tắt micro mỗi khi Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà thực hiện công việc bào chữa nhằm ngăn cử tọa nghe được nội dung bào chữa liên quan đến hành vi “nhận hối lộ” của ông Nguyễn Bá Thanh!!!
8. Thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên Tòa phúc thẩm đã vi phạm nghiêm trọng tố tụng hình sự khi cho phép vị đại diện Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng – không phải là người tham gia tố tụng hình sự theo quy định tại Chương IV Bộ Luật tố tụng hình sự – lên án các bị cáo ngay giữa phiên tòa để bênh ông Nguyễn Bá Thanh.
Việc thẩm phán Trần Mẫn, Chủ tọa phiên tòa phúc thẩm cho phép đại diện Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng không phải là người tham gia tố tụng phát biểu ý kiến trong khi lại ngăn cản Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà là người tham gia tố tụng thực hiện quyền bào chữa được pháp luật tố tụng hình sự bảo hộ là bằng chứng không thể chối cãi về việc Hội đồng xét xử phúc thẩm cố ý làm trái luật pháp nhằm bao che hành vi “nhận hối lộ” của Nguyễn Bá Thanh và nhằm bao che hành vi “truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội” và hành vi “ra bản án trái pháp luật” của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng do thẩm phán Nguyễn Thành làm Chủ tọa.
Cũng cần nói thêm rằng việc thay Thẩm phán trước đó đã được giao nhiệm vụ Chủ tọa Hội đồng xét xử phúc thẩm bằng thẩm phán Trần Mẫn chuẩn bị nghỉ hưu và việc Thẩm phán họ Trần này đã phải tập dượt xử án vì đã lâu không ngồi tòa theo một nguồn tin đáng tin cậy càng chứng tỏ Thẩm phán này không có vai trò nào khác là tuyên một bản án “bỏ túi” hay được định sẵn để bỏ tù những người đã “dám” tố cáo hành vi tham nhũng của Nguyễn Bá Thanh!
Ngoài những hành vi cố ý xâm phạm pháp luật tố tụng nói trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm còn cố ý lờ đi những phản bác của Luật sư Nguyễn Thị Dương Hà đối với hành vi “viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng” và hành vi “cung cấp cho Đinh Công Sắt bài viết của nhà báo Trần Đình Bá với những nội dung không đúng sự thật để Sắt đọc, sử dụng cho mục đích khiếu nại, tố cáo” mà Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã buộc cho Trung tá Dương Tiến. Nói cách khác, Hội đồng xét xử phúc thẩm tìm mọi cách để bao che Bản án trái pháp luật của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.
Kết luận lại, bằng việc xâm phạm trắng trợn pháp luật tố tụng hình sự, bịa đặt chứng cứ để kết tội Trung tá Dương Tiến như trên đã chứng minh, Hội đồng xét xử phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng do thẩm phán Trần Mẫn làm Chủ tọa là điển hình xâm phạm hoạt động tư pháp, khép tội oan công dân nhằm bao che tham nhũng và trả thù người chống tham nhũng!
Không chấp nhận Bất công tột bậc này của những kẻ nhân danh Công lý tại Đà Nẵng, ngày 19/5 vừa qua, đúng sinh nhật lần thứ 120 của Hồ Chí Minh, người khai sáng Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, Trung tá Dương Tiến đã chính thức gửi Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trần Quốc Vượng “Đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án hình sự số 78/2009/HSPT ngày 07/12/2009 của Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng liên quan đến việc “nhận hối lộ” của Bí thư Thành ủy ĐCSVN, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Bá Thanh” với yêu cầu không gì rõ ràng hơn:
Thứ nhất, tuyên Trung tá Dương Tiến, tức Dương Ngọc Tiến, không phạm “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, đình chỉ vụ án và phục hồi cho Trung tá Dương Tiến mọi quyền và lợi ích hợp pháp.
Thứ hai, yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với các thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm – Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa ngày 6-7/8/2009 và Hội đồng xét xử phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng tại phiên tòa ngày 07/12/2009 về “Tội truy cứu trách trách nhiệm hình sự người không có tội” quy định tại Điều 295 Bộ Luật hình sự về “Tội ra bản án trái pháp luật” quy định tại Điều 295 Bộ Luật Hình sự.
Thứ ba, yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng về hành vi “nhận hối lộ” như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại Công văn số 73/KSĐT-KT ngày 31/10/2000.
Cũng chính việc Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng và Tòa phúc thẩm – Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng đã đạp lên luật pháp để bao che tham nhũng nghiêm trọng của Nguyễn Bá Thanh và đàn áp một cách tàn bạo những người tố cáo đã gây phẫn nộ cao độ trong nhân dân thành phố Đà Nẵng. Liên tục từ cuối năm ngoái khi phiên tòa phúc thẩm kết thúc, công dân Đà Nẵng đã liên tiếp viết Đơn tập thể gửi các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước tố cáo và yêu cầu xử lý theo quy định của pháp luật hình sự cả Nguyễn Bá Thanh lẫn các thế lực bao che nhân vật này mà cụ thể là Thẩm phán Nguyễn Thành, Phó chánh án Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, Chủ tọa Hội đồng xét xử sơ thẩm và và thẩm phán Trần Mẫn, Chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà nẵng, Chủ tọa Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.
Nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền là không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không được làm oan người vô tội nên người viết bài này thấy không có lý do gì để Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Trương Hòa Bình và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Trần Quốc Vượng có thể chần chừ trong việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án hình sự phúc thẩm để minh oan Trung tá Dương Tiến, Thiếu tướng Trần Văn Thanh – những sĩ quan công an xứng danh “Vì nhân dân phục vụ” – và các bị cáo khác trong cùng vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” là Nguyễn Phi Duy Linh và Đinh Công Sắt cũng như để trừng trị nghiêm khắc những kẻ đã dựng đứng lên vụ án này!
Mặc dầu vậy, ai cũng thấy rõ là việc trừng trị đến nơi đến chốn tham nhũng cũng như những thẩm phán “coi Pháp luật bằng vung” như Trần Mẫn là “bất khả thi” nếu như không vạch ra được thế lực “ô, dù” bao che cho cái lũ “thù trong” này. Bởi thế nhiều người cho rằng chính ông Nguyễn Văn Chi, Ủy viên Bộ chính trị, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương của Đảng là một trong số vai vế đã “bảo kê” ông Nguyễn Bá Thanh tham nhũng và do đó “bảo kê” luôn việc bỏ tù Trung tá Dương Tiến, Thiếu tướng Trần Văn Thanh… theo đúng nguyên tắc “Một mất Một còn” với 2 chứng cứ không dễ gì bác được:
Một là, kể từ sau Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ủy ban kiểm tra trung ương có thể nói là “độc quyền” hay “múa gậy vườn hoang” theo cách nói dân gian trong việc xử lý các cán bộ “có vấn đề” thuộc “diện Trung ương quản lý”, tức từ Phó chủ tịch tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương trở lên, sau khi những cơ quan khác của Đảng có cùng chức năng là Ban Nội chính trung ương, Ban bảo vệ chính trị nội bộ đã bị “xóa sổ”, hay nói đúng hơn là bị sáp nhập vào Văn phòng Trung ương Đảng.
Nói cách khác, Chủ nhiệm Nguyễn Văn Chi một khi “lắc đầu” thì dù Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng do Thù tướng đứng đầu có muốn xử lý cũng phải chào thua. Bằng chứng là Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ ngày 26/10/2007 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng gửi Thủ tướng Chính phủ và Thường trực Ban bí thư và Báo cáo số 38/BC-VPBCĐ ngày 07/4/2008 của Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng gửi Ban Bí thư Trung ương Đảng đề xuất xử lý ông Nguyễn Bá Thanh theo quy định của pháp luật cũng đã không “đè” nổi, “đánh xuôi” nổi Thông báo số 94TB/KTTW ngày 25/4/2007 của Ủy ban kiểm tra trung ương do Phó Chủ nhiệm Nguyễn Thị Doan, nay là Phó Chủ tịch Nước, ký thay Chủ nhiệm Nguyễn Văn Chi “thổi ngược”, phủi sạch trơn mọi tố cáo đối với ông Nguyễn Bá Thanh!
Hai là, Thẩm phán Trần Mẫn là em ruột bà Trần Thị Thủy mà bà Thủy lại chính là… vợ Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi!
Đó chưa kể “thâm giao” khó có thể không có giữa Nguyễn Bá Thanh và Chủ nhiệm Chi bởi ông Chi là Bí thư Quảng Nam – Đà Nẵng trong gần cả chục năm, từ 1986 đến 1994.
Để nói rằng, vẫn theo những ý kiến trên, oan khuất tày trời mà Trung tá Dương Tiến, Thiếu tướng Trần Văn Thanh và hai bị cáo khác của vụ án “Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” khó có thể được giải quyết chừng nào Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi vẫn còn tại vị, chừng nào Nhà nước nói chung, các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng, vẫn còn đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích của Tổ Quốc và Nhân Dân, tóm lại chừng nào Đảng lệ vẫn còn đè Pháp luật!
Thế nhưng tôi vẫn tin rằng lũ “nội xâm” như Nguyễn Bá Thanh và các thế lực “bảo kê” không thể tiếp tục tồn tại bởi Nước Nam này Hào Kiệt đời nào chẳng có, mảnh đất Đà Nẵng kia đâu có thiếu Anh Hùng, mà bắt đầu bằng tác giả của hai công văn 73,77/KSĐT-KT giờ đã thành huyền thoại: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng Nguyễn Quốc Dũng.
Rất có thể tôi bị thuyết phục bởi bộc bạch này của người Viện trưởng – cựu chiến binh quả cảm ấy: “Tôi đã ký lệnh bắt nó rồi… Tôi đã nói thẳng với Nguyễn Bá Thanh rằng nếu mày không có quá nhiều tiền thì mày đã xanh cỏ với tao từ lâu rồi”!!
CHHV 23-5-2010
HT Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
Nguồn: Bauxit Việt Nam

Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý kiện nhà nước Cộng Sản Việt Nam

ĐƠN KIỆN SỐ 01
của Linh mục tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý
KIỆN NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM
về việc Nhà cầm quyền CSVN đã bắt giam giữ trái công luật quốc tế lần thứ 4
từ ngày 18-2-2007 đến thời hạn không rõ ràng
———–
Huế, Việt Nam, ngày 08 tháng 6 năm 2010
Kính gửi : – Tòa án Nhân quyền của Liên hiệp quốc, Thụy Sĩ.
- Các Tổ chức Nhân quyền quốc tế.
Đồng kính gửi : – Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam.
- Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam.
Kính thưa quí Vị,
Tôi là tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Linh mục thuộc Tổng giáo phận Huế, Giáo hội Công giáo Rôma, đang bị quản chế và điều trị bệnh tại Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam, muốn trình bày với quí vị các khiếu kiện sau đây :
I. Tiến trình chịu bất công : 4 lần, 17 năm tù giam và 7 lần, 14 năm quản chế :
1/- Ngày 18.8.1977 tôi bị NCQ CSVN bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế (18.8.1977 – 24.12.1977). Lý do là tôi phổ biến 2 bài phát biểu của Đức cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền rằng Việt Nam chưa có Tự do Tôn giáo thực sự, trong 2 Hội nghị do chính NCQ CSVN tổ chức năm 1977. Sau đó tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế gần 01 năm (1977-1978) và tại giáo xứ Đốc Sơ, Hương Sơ, Huế 2 năm (1981-1983).
2/- Cuối năm 1983 tôi bị NCQ CSVN kết án 10 năm tù, 3 năm quản chế và bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; 2 trại cải tạo K1, Thanh Cẩm, Thanh Hóa, và K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.1983 – 29.7.1992); cướp đoạt của tôi 4 thùng sách quí, một số máy ghi âm và phát thanh mà không có một biên bản nào. Lý do là ngày 13.8.1981, tôi đã hướng dẫn giáo hữu đứng bên lề đường nguyện kinh 4 lần, khi chúng tôi đi hành hương kính Đức Mẹ La Vang, nhưng bị Công an CSVN ngăn chặn, để khai thông tuyến giao thông cho các giáo hữu hành hương dịp Lễ Đức Mẹ Về Trời 15.8.1981. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 3 năm (1992-1995) và bị quản chế ở Nhà thờ Nguyệt Biều, Huế hơn 5 năm (1995-2001) vì đã viết bản Tuyên ngôn về thực trạng Giáo hội Công giáo Giáo phận Huế ngày 24.11.1994.
3/- Cuối năm 2001, tôi bị NCQ CSVN kết án 15 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.2001 -07.2.2005); cướp đoạt của tôi một số sách quí cũng không để lại một biên bản nào. Lý do là từ ngày 12-2-2001 đến ngày 17.5.2001, tôi đã hướng dẫn giáo hữu An Truyền, Phú An, Phú Vang, Thừa Thiên – Huế hiểu biết đôi chút về Tự do Tôn giáo, Tự do Ngôn luận, Tự do Ứng cử – Bầu cử, về Chính trị Công dân (bênh vực công lý, nhân quyền, nhân phẩm) khác với Chính trị Đảng phái (giành quyền quản lý và lãnh đạo Đất nước) như thế nào. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 2 năm (2005-2007) và bị quản chế ở Nhà thờ Bến Củi, Phong Xuân, Phong Điền, Thừa Thiên-Huế hơn 1 tháng (25.2.2007 – 29.3.2007).
4/- Ngày 30.3.2007, tôi bị NCQ CSVN kết án 8 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam. (29.3.2007 – 15.3.2010); cướp đoạt của tôi rất nhiều sách báo, tài liệu và máy móc (mà lần này tôi đang đòi lại như sẽ trình bày ở mục III.A.1.a, 1.b, 1.c, 2.a, 2.b, 2.c, 2.d. dưới đây). Lý do là từ ngày 07.02.2005 đến ngày 18.2.2007, tôi đã phổ biến các tài liệu phơi bày sự thật về Ông Hồ Chí Minh và các tài liệu về công lý, dân chủ, nhân quyền; biên soạn và phát hành bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận; đồng thành lập Khối 8406 với Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam ngày 8.4.2006; ủng hộ và giới thiệu đảng Thăng Tiến Việt Nam.
Vì tôi bị rối loạn huyết áp, dẫn đến tai biến mạch máu não 3 lần (25.5.2009; 12.7.2009; 13.11.2009), lần thứ 3, NCQ CSVN đưa tôi lên Hà Nội cấp cứu và ngày 15.3.2010 tạm đình chỉ thi hành án 12 tháng, đưa tôi về điều trị bệnh liệt nửa người bên phải do tai biến rối loạn huyết áp, tại Nhà hưu dưỡng Nhà Chung Tổng giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam.
Dưới chế độ CSVN, từ năm 1977 đến nay, tôi đã ở tù 4 lần, 17 năm; bị quản chế 7 lần, 14 năm. Theo pháp luật của NCQ CSVN, tôi vẫn còn phải ở tù 5 năm và bị quản chế thêm 5 năm nữa.
Sau 3 lần ở tù và 6 lần bị quản chế trước đây, tôi đã phớt lờ các bất công tôi phải gánh chịu, để dành thời giờ cho Sự nghiệp đấu tranh cho công lý, nhân quyền, tự do dân chủ cho Đồng bào Việt Nam. Nhưng lần này, tôi kính nhờ quí vị làm sáng tỏ các bất công tôi phải gánh chịu, để góp phần ngăn chặn NCQ CSVN tiếp tục đàn áp các Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình đang trực diện đấu tranh cho Công lý, Sự thật, Tự do, Dân chủ cho toàn Dân tộc Việt Nam.
II. Các cơ sở pháp luật để khởi kiện :
A. Căn cứ vào công pháp quốc tế :
1. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp quốc ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24.9.1982 qui định :
- Điều 19,2 : Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.
- Điều 22,1 : Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.
2. Tuyên ngôn Quốc tế bảo vệ những người đấu tranh cho nhân quyền ngày 09.12.1998 :
- Điều 5 : Nhằm thăng tiến và bảo vệ quyền con người và các tự do căn bản, mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền trên bình diện quốc gia hay quốc tế :
a) Hội họp và tụ họp một cách thuần hòa;
b) Thành lập những tổ chức, những hội đoàn hay những nhóm phi chính phủ, gia nhập và tham dự vào những tổ chức, những hội đoàn, những nhóm phi chính phủ ấy.
- Điều 7 : Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền dự kiến những nguyên tắc mới và những ý kiến trong lĩnh vực nhân quyền, thảo luận về nhân quyền và làm thăng tiến sự hiểu biết về nhân quyền.
- Điều 8,1 : Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác và trên căn bản không phân biệt đối xử, đều có quyền tham gia hữu hiệu vào chính quyền nước họ và vào việc quản lý việc công.
- Điều 8,2 : Nhất là quyền này bao hàm quyền, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đệ trình các cơ quan và các thiết chế quốc gia, cũng như các cơ cấu đảm lãnh việc công, những phê phán và những đề nghị nhằm cải thiện sự tiến hành các cơ quan này và báo hiệu về mọi mặt công tác của họ có nguy cơ gây trở ngại hay ngăn cản sự thăng tiến, bảo vệ và thực hiện nhân quyền cùng các tự do căn bản.
- Điều 12,1 : Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác đều có quyền tham gia các hoạt động hòa bình để đấu tranh chống mọi vi phạm nhân quyền và các tự do căn bản.
3. Luật Ký kết, Tham gia và Thực hiện Điều ước Quốc tế, do nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 24.6.2005, hiệu lực ngày 01.01.2006, qui định tại “Điều 6 điều ước quốc tế và qui định pháp luật trong nước” :
- 6,1 : Trong trường hợp văn bản qui phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của điều ước quốc tế.
- 6,2 : Việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thi hành điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định về cùng một vấn đề.
Nghĩa là mọi người lương thiện đều hiểu rất rõ về 2 điều luật trên đây rằng : Khi có điều nào trong Luật pháp của một Nước thành viên Liên hiệp quốc khác với hoặc mâu thuẫn với Công ước Quốc tế, thì phải áp dụng Công ước Quốc tế là Văn bản pháp lý có gí trị ràng buộc cao hơn.
B. Căn cứ vào nhân chứng lịch sử :
1. Karl Marx : Cách đây # 170 năm, Ông Karl Marx viết Bộ Tư Bản Luận, Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản tại thủ đô London, đế quốc Anh, không hề bị bắt.
2. Nhóm Nguyễn Ái Quốc : Cách đây # 100 năm, nhóm Nguyễn Ái Quốc gồm nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Hoàng Quang Giụ, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự, Nguyễn Tất Thành viết sách, báo chống lại chế độ thực dân Pháp ngay tại thủ đô Paris, không hề bị bắt.
3. Người Việt làm báo chống Thực dân Pháp ngay tại Việt Nam : Cách đây # 90 năm, cụ Huỳnh Thúc Kháng xuất bản báo “Tiếng Dân” ngay tại Huế năm 1927; Ông Nguyễn An Ninh xuất bản báo La cloche fêlée (Tiếng chuông rè, Tiếng chuông rạn) ở Sài Gòn năm 1923. Cả 2 Ông đều không bị Thực dân Pháp bắt vì dám làm báo chống lại Pháp. Thời đó, riêng tại Nam Kỳ, Việt Nam, các đảng viên cộng sản, nếu đấu tranh bất bạo động, dù công khai, vẫn không bị bắt.
Cho đến hôm nay, trong cả 4 lần tôi bị bắt, bị kết án, bị nhốt tù 17 năm và trong 7 lần bị quản chế 14 năm, 5 năm tù giam và 5 năm quản chế còn tạm đình chỉ thi hành, tôi đều hoàn toàn vô tội, vì tôi luôn chỉ làm những gì Công luật quốc tế cho phép mà Pháp luật NCQ CSVN phải áp dụng, nếu NCQ CSVN muốn còn là thành viên của Liên hiệp quốc. Trái lại, khi bắt giam, kết tội, quản chế tôi và chiếm đoạt các vật dụng của tôi, chính NCQ CSVN đã ngang nhiên vi phạm nghiêm trọng các Công ước quốc tế mà NCQ CSVN đã xin tham gia, ký kết và hứa sẽ thực hiện, nhưng không hề tuân giữ trong suốt 65 năm qua.
Vì thế, tôi kính nhờ quí vị giúp tôi sao cho thật hiệu quả trong việc đòi buộc NCQ CSVN phải nghiêm túc chấp hành thực hiện :
III. Mục tiêu khởi kiện Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam :
A. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả lại tôi :
1. Tu phục, Chuỗi kinh và kính mắt tôi đang mang trên người :
1.a. Một chiếc áo linh mục đen dài tôi đang mặc : Chiều 29.3.2007, một sĩ quan công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đến Phòng Thánh Nhà thờ Bến Củi mời tôi ra trụ sở thôn Bến Củi làm việc, tôi vừa mở cửa phòng tức khắc một lực lượng công an vũ trang hơn 30 người tràn vào phòng tôi, lấy một tấm vải lớn màu xanh da trời trùm tôi lại và ôm tôi nhét vào xe công an như một bao tải, chở ngay về trại tạm giam Thừa Phủ, Huế. Tại đây, họ lột áo linh mục, tước đoạt một tràng chuỗi Mân Côi và một cái kính viễn thị đeo mắt.
1.b. Một tràng chuỗi Mân Côi nói trên tôi dùng để nguyện kinh.
1.c. Một cái kính viễn thị đeo mắt nói trên tôi dùng để đọc sách báo.
2. Các vật dụng tôi đang sử dụng để phục vụ cho Công lý, Nhân quyền :
2.a. 6 máy Personal Computers (Laptops) hiệu HP, TOSHIBA, ACER mà # 20 Công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đã cướp đoạt của tôi tại phòng số 5, khu nhà Hưu dưỡng thuộc Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế tối 18-2-2007, có Linh mục An-tôn Nguyễn Văn Thăng, Thư ký Tòa TGM Huế chứng kiến và cùng ký tên vào biên bản.
2.b. 6 máy in Laser hiệu CANON trong trường hợp như trên.
2.c. 6 điện thoại di động hiệu NOKIA, SAMSUNG, MOTOROLA và # 120 Simcards trong trường hợp như trên.
2.d. Gần 200 sách, báo, bài viết (mỗi loại hàng chục bản) về Công lý, Nhân quyền, Dân chủ, Tự do, Bầu cử, sự thật về Ông Hồ Chí Minh và về đảng CSVN trong trường hợp nói trên. Khi cướp đoạt và mang đi, các Công an đã đựng số tài liệu này trong 6 thùng giấy lớn.
B. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải bồi thường :
1. Các thiệt hại vật chất :
1.a. Tất cả các vật dụng cá nhân của tôi đã nêu ở các tiểu mục 2.a, 2.b, 2.c, 2.d của mục III.A.2. trên đây.
1.b. Nếu các thiết bị và máy móc đó đã bị hư hỏng thì NCQ CSVN phải bồi hoàn cho tôi 200 triệu VNĐ theo thời giá hiện nay (2010).
1.c. Riêng các vật dụng ở các tiểu mục 1.a, 1.b, 1.c, 2d. của mục III.A.1.và 2. thì NCQ CSVN phải hoàn trả tôi đúng các vật dụng mà NCQ CSVN đã chiếm đoạt trái phép của tôi.
1.d. Về 3 năm ở tù biệt giam một mình, kèm theo bệnh rối loạn huyết áp phát sinh 4 lần (gần đây có thêm 1 lần vào tháng 5.2010) tai biến mạch máo não, làm tôi bị liệt nửa người bên phải, NCQ CSVN phải bồi thường cho tôi ít nhất là 10 tỉ VNĐ hiện hành.
2. Các thiệt hại tinh thần :
Chỉ cần một lời xin lỗi của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, 01 (một) VNĐ danh dự; chấm dứt mọi hành động đàn áp, bắt bớ, tù đày tất cả các Chiến sĩ Hòa bình đang đấu tranh cho Công lý, Tự do, Dân chủ cho Việt Nam và trả tự do ngay, vô điều kiện, tất cả các Chiến sĩ Hòa bình đang bị giam cầm trong các trại giam của Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam.
Nguyện xin Thiên Chúa luôn chúc lành trên thiện tâm phục vụ công lý hòa bình cho Nhân loại của tất cả quí vị.
Xin trân trọng kính chào và chân thành cảm ơn tất cả quí vị.
Khởi kiện từ Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế
69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam
ngày 08 tháng 6 năm 2010
(đã ký tên và đóng dấu)
Tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý
Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế, Việt Nam.

TÌM RA SỰ THẬT “THỰC”?

Linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh
Bối cảnh của một chuyến đi
Nhằm đánh dấu 350 năm thành lập hai giáo phận đầu tiên và 50 năm thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam, Năm Thánh 2010 đã khai mạc trọng thể tại Sở Kiện, Hà Nội dịp lễ các thánh Tử Đạo Việt Nam 24-11-2009. Chỉ hơn một tháng sau thì xảy ra vụ thánh giá Đồng Chiêm bị đập nát. Người tín hữu Công Giáo vừa bàng hoàng và phẫn nộ trước hành vi báng bổ của chính quyền cộng sản, vừa ngạc nhiên và đau đớn khi thấy tuyệt đại đa số các giám mục hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn hoàn toàn thinh lặng. Không một lời nói, không một cử chỉ hiệp thông với anh chị em giáo tỉnh Hà Nội. Tình trạng phân hoá trong nội bộ Công Giáo càng thêm trầm trọng và phơi bày công khai khi đức cha Phê-rô Nguyễn Văn Nhơn được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục (TGM) Phó Hà Nội với quyền kế vị, và chỉ mấy hôm sau là Đức TGM Giu-se Ngô Quang Kiệt rời khỏi Việt Nam giữa đêm hôm khuya khoắt, chẳng khác chi một kẻ tội đồ bị trục xuất khỏi quê hương.
Chính trong bối cảnh đó mà Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn (ĐHY), Tổng Giám Mục Sài Gòn, đã lên đường đi Rô-ma gặp các quan chức cấp cao của Toà Thánh, và sau khi trở về, đã có bài trả lời phỏng vấn liên quan đến chuyến đi; bài trả lời đó được đăng tài trên tuần báo Công Giáo & Dân Tộc, số 1762, tuần lễ từ 18-06 đến 24-06-2010. Xin được chia sẻ một vài suy nghĩ sau khi đọc bài trả lời phỏng vấn đó.
Tại sao đi? Đi để làm gì?
Đức Hồng Y nói: Trong tình hình một số ý kiến trên mạng hay qua truyền tai nhau, tạo nên dư luận gây ít nhiều hoang mang và bất ổn trong cộng đoàn Giáo hội và xã hội, ví dụ như một vài dư luận cho rằng có sự tắc trách của Bộ Truyền giáo, sự thoả hiệp của Bộ Ngoại giao, sự cấu kết của một ít nhân vật trong Giáo hội vì tư lợi, sự ngây ngô của Vatican…, một số giám mục đề nghị tôi đi tìm hiểu sự thật “thực” tận gốc rễ. Qua những lời trên đây, ĐHY vừa cho ta thấy nguyên nhân nào khiến ngài rời Việt Nam để có mặt tại Vatican từ ngày 30-05 đến 03-06-2010, vừa cho thấy mục tiêu của chuyến đi, đó là để tìm hiểu sự thật “thực” tận gốc rễ. Chuyến đi này không phải là một chuyện hoàn toàn cá nhân, nhưng còn theo lời đề nghị của “một số giám mục”. Các vị này là những ai, gồm bao nhiêu người, nắm chức vụ gì trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGM/VN), ngài không nói.
Những hoạt động trong chuyến đi
Tại Rô-ma, những người đầu tiên được ĐHY gặp gỡ và thăm hỏi là những linh mục, tu sĩ, giáo dân Việt Nam được ngài gửi tới học. Đây là chuyện bình thường, nhưng chắc không ở trong mục tiêu quan trọng của chuyến đi. Ngay cả việc đi thăm đức hồng y Etchegaray cũng vậy, cũng chỉ là một cuộc thăm viếng xã giao.
Nhưng hai cuộc gặp quan trọng hơn cả trong chuyến đi này, trước hết là cuộc gặp tại Bộ Ngoại Giao Toà Thánh sáng ngày 01-06, với vị Ngoại trưởng là Đức TGM Dom. Mamberti, và với Thứ trưởng, đức ông Ern. Ballestrero ; kế đến là cuộc gặp tại Bộ Truyền Giáo với Tổng Trưởng là ĐHY Ivan Dias. Tại mỗi nơi, ĐHY Phạm Minh Mẫn đã “giãi bày tình hình do dư luận tạo ra”. Ngài đã nói những gì, giãi bày thế nào thì không ai biết. Nhưng phần trả lời, thì tại cả hai nơi, ngài đã nhận được một nội dung hoàn toàn giống nhau. Phía Bộ Ngoại Giao thì Bộ đã “lắng nghe và tôn trọng ý kiến cùng bản thân của đương sự” (tức là Đức TGM Hà Nội Giu-se Ngô Quang Kiệt). Tại Bộ Truyền Giáo cũng vậy, Bộ “luôn lắng nghe và tôn trọng ý kiến cùng bản thân của người liên hệ” (vẫn là Đức Tổng Kiệt). Và dựa vào cách làm của cả hai bộ là “lắng nghe và tôn trọng ý kiến cùng bản thân của người liên hệ”, cuối cùng “Đức Thánh Cha chấp thuận lời Đức Cha Ngô Quang Kiệt xin từ nhiệm Tổng Giám Mục Hà Nội vì lý do sức khoẻ”. Và đây là sự thật “thực” ĐHY đã phải vượt bao nhiêu ngàn cây số đến tận Rô-ma để cất công đi tìm.
Nói nôm na là như thế này: Sở dĩ có “dư luận gây ít nhiều hoang mang và bất ổn trong cộng đồng Giáo Hội và xã hội” là do việc Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm đức cha Nguyễn Văn Nhơn thay thế đức cha Ngô Quang Kiệt trong cương vị Tổng Giám Mục Hà Nội. Việc thay thế đó bắt nguồn từ việc đức cha Kiệt xin từ chức vì lý do sức khoẻ. Và trong việc này, cả hai bộ Ngoại Giao cũng như Truyền Giáo đều tôn trọng ý kiến, nguyện vọng của đương sự.
Tóm lại: mấu chốt của vấn đề, hay là sự thật “thực”, chính là việc đức cha Ngô Quang Kiệt xin từ chức mà thôi. Có gì đâu mà phải ầm ĩ!
Những điều gây thắc mắc
Thế nhưng đối với công luận, mọi chuyện không đơn giản như thế. Giả sử đức cha Kiệt lâm trọng bệnh, không còn khả năng lãnh đạo, hay đến tuổi về hưu, thì bất cứ vị nào được Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm thay thế, cộng đồng tín hữu cũng hoan hỷ đón nhận. Lịch sử đã chứng minh điều đó. Nhưng việc đức cha Kiệt rời khỏi chức vụ TGM Hà Nội, lại chính là đòi hỏi của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, qua văn thư đề ngày 23-09-2008 của ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân Thành phố Hà Nội, gửi HĐGM/VN do đức cha Nguyễn Văn Nhơn làm Chủ tịch. Vậy thì điều người tín hữu Việt Nam muốn biết, đó là mối tương quan giữa hai sự việc: giữa đòi hỏi của nhà cầm quyền Hà Nội và việc Đức Giáo Hoàng chấp thuận cho đức cha Kiệt từ chức. Điều người tín hữu Việt Nam nóng lòng muốn được soi sáng là HĐGM/VN đóng vai trò nào trong việc thay thế TGM Hà Nội, Đức Cha Ngô Quang Kiệt. Cũng liên quan đến vụ việc này, một nhân vật quan trọng khác mà tín hữu Công Giáo Việt Nam muốn có thông tin, đó là vị đại diện Toà Thánh đến thăm Việt Nam lần chót, vào đầu năm 2009: Đức ông Cao Minh Dung. Đâu là vai trò của đức ông trong việc liên quan đến Đức Tổng Kiệt? Trong bài trả lời phỏng vấn, ĐHY Phạm Minh Mẫn có cho biết là chiều ngày 02-06 ngài đã “gặp gỡ linh mục, tu sĩ Việt Nam đang làm việc tại Vatican”, nhưng nhân vật mà mọi người chờ đợi là đức ông Cao Minh Dung thì ĐHY không hề nhắc tới. Như thế cũng có nghĩa là thắc mắc của người tín hữu Việt Nam liên quan đến đức ông Cao Minh Dung, vẫn chưa có câu trả lời.
Liệu có tìm ra sự thật “thực”?
ĐHY Phạm Minh Mẫn có một kiểu nói khá độc đáo khi thêm tính từ “thực” vào danh từ “sự thật” (sự thật “thực”). Điều này chẳng phải không có lý do. Là vì trong chế độ hiện thời tại Việt Nam, mọi phương tiện truyền thông đều nằm trong tay Nhà Nước. Có nhiều đài truyền hình và truyền thanh trên khắp nước, từ trung ương tới địa phương, với trên dưới 700 tờ báo, nhưng tất cả chỉ nói những điều được phép nói. Khi đề cập đến chuyện nói dối, nói láo… trong xã hội chúng ta đang sống hôm nay, nhà văn Nguyễn Khải đã viết trong tập Tuỳ Bút của ông: “… các cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy… Nói dối lem lẻm, nói dối lỳ lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết; nói để mà nói …”. Chính vì vậy mà khi nổ ra vụ Toà Khâm Sứ – Thái Hà chẳng hạn, nếu chỉ dựa vào báo đài của Nhà Nước, hay cả khi đọc báo Công Giáo & Dân Tộc, không ai biết được: thực sự chuyện gì đã xảy ra.
Và điều ta phải đặc biệt quan tâm, là tình trạng này chẳng phải không ảnh hưởng đến truyền thông Công Giáo. Hôm xảy ra vụ Đồng Chiêm chẳng hạn, đố ai vào trang mạng của HĐGM mà tìm được thông tin! Còn trang mạng của Toà TGM Tp. HCM, trong bài “Tự do báo chí là nhựa sống của nền dân chủ”, lấy nguồn từ Vietvatican, thì chuyện trớ trêu là đã cắt xén đoạn nói đến Trung Quốc, Bắc Hàn, Việt Nam… cũng như đoạn sau đây: “Tất cả các chính quyền và các tổ chức nói trên đều theo đường lối cai trị độc tài, sợ hãi sự thật, chủ trương ngu dân, nên tìm mọi cách và đưa ra mọi luật lệ để kèm kẹp con người và đất nước trong tình trạng nô lệ, chậm tiến, dốt nát…”.
Một ví dụ khác, đó là nếu có ai nghe đoạn ghi âm lời đức cha Nguyễn Văn Khảm, Giám mục Phụ tá Sài Gòn, nói về chuyến đi Hoa Kỳ của ĐHY Phạm Minh Mẫn đến Long Beach chủ toạ Đại lễ Lòng Thương Xót Chúa, rồi đem đối chiếu với vô số thông tin liên quan trên mạng, đố ai biết được sự thật “thực” ở chỗ nào. Và ví dụ cuối cùng là dịp lễ nhậm chức của Đức Tân TGM Hà Nội ngày 07-05-2010: nếu có ai vào trang mạng của Uỷ Ban Kinh Thánh mà đọc bài của Peter Nguyễn Minh Trung, thì 15.000 chữ ký của thỉnh nguyện thư gửi Đức Giáo Hoàng đã bị hô biến thành panô với những chữ “Nguyễn Văn Nhơn, Bùi Văn Đọc, Võ Đức Minh: biến khỏi trái đất này !” Vậy thì câu hỏi dai dẵng vẫn cứ đeo đuổi chúng ta là: sự thật “thực” ở đâu?
Sự thật “thực” về Giáo Hội Việt Nam?
ĐHY Phạm Minh Mẫn vượt núi băng ngàn đến tận Rô-ma để tìm sự thật “thực”, nhưng liệu ngài có giúp được Đức Giáo Hoàng tìm ra sự thật “thực” về Giáo Hội Việt Nam? Dĩ nhiên Đức Giáo Hoàng biết những thay đổi diễn ra tại Việt Nam trong mọi lãnh vực kể cả tôn giáo. Ngày nay cuộc sống khá hơn, người dân được tương đối tự do hơn. Các tôn giáo được phép xây cất, tổ chức lễ lạt, huấn luyện chức sắc, đi ra nước ngoài, v.v… Du khách đến Việt Nam lác mắt khi thấy các nhà thờ ngày Chúa nhật động nghẹt người, ơn gọi linh mục, tu sĩ rất đông, số đi ra nước ngoài truyền giáo đến cả ngàn. Đó là mặt tích cực, và cũng là mặt nổi. Trong khi đó, các lãnh vực như y tế, giáo dục, xã hội… đều là độc quyền của Nhà Nước. Đi xin tiền giúp người nghèo thì được, nhưng tranh đấu cho quyền lợi của người nghèo, đòi hỏi sự công bằng cho người nghèo thì không. Tôn giáo không được tự do phục vụ con người. Trong một chế độ độc tài toàn trị, thì “đối thoại” và “hợp tác” chỉ là những mỹ từ của người chấp nhận ngửa tay xin. Xin cái gì ? Thưa xin lại những quyền chính đáng của mình đã bị nhà cầm quyền tước đoạt. Sự thật “thực” phũ phàng là như thế. Liệu Đức Giáo Hoàng có biết rằng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hôm nay, chỉ vì muốn thoả hiệp với nhà cầm quyền để được yên thân, mà đánh mất khả năng ngôn sứ: quay lưng lại người nghèo, hững hờ với các tôn giáo bạn, thờ ơ với vận mạng dân tộc, với tương lai đất nước? Liệu Đức Giáo Hoàng có biết rằng khi thánh giá tại Đồng Chiêm bị đập nát, tuyệt đại đa số các giám mục hai giáo tỉnh Huế và Sài Gòn đã ngậm miệng làm thinh? Thế thì trước câu hỏi: liệu Đức Giáo Hoàng có biết được sự thật “thực” về Giáo Hội Việt Nam hôm nay, xem ra chưa có câu trả lời!
Kết luận
Đạt tới chân thiện mỹ là khát vọng tự nhiên của con người. Khát vọng tìm cho ra sự thật càng mãnh liệt khi con người sống trong môi trường đầy dẫy những lừa lọc, gian dối. Tìm cho ra sự thật, đó là mối quan tâm của ĐHY Phạm Minh Mẫn khi ngài nói đến sự thật “thực” và đã cất công đi tìm. Nhưng khi sự thật mình đi tìm lại chính là sự thật mình muốn có bằng bất cứ giá nào, thì liệu sự thật mình khám phá ra, đã là sự thật “thực” hay chưa? Người đọc bài của ĐHY vẫn cứ phải tự tìm lấy câu trả lời. Không biết đến bao giờ Giáo Hội Công Giáo Việt Nam mới tìm lại được sự bình an đã mất, mới tìm lại được sự đồng tâm nhất trí đã tan rã, mới tìm lại được lòng tin tưởng kính mến đã nhạt phai đối với hàng giáo phẩm kể từ khi Đức Cha Giu-se Ngô Quang Kiệt rời khỏi chức vụ TGM Hà Nội trong một hoàn cảnh còn nhiều ẩn số chưa được giải mã?
Sài-gòn, ngày 24 tháng 06 năm 2010
Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh ofm

pascaltinh@gmail.com

VIỆT NAM CẦN CÓ VŨ KHÍ NGUYÊN TỬ

Vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa vốn thuộc chủ quyền của Việt Nam với những bằng chứng địa lý, lịch sử … phù hợp công pháp quốc tế không thể chối cãi được nhưng Trung Quốc ỷ thế nước lớn vẫn lấn lướt ức hiếp một cách rất càn bậy. Không chỉ bắn giết nhiều binh sỹ, ngư phủ, cư dân Việt Nam, họ còn gây áp lực buộc các công ty nước ngoài hủy bỏ giao kèo tìm kiếm dầu khí ngoài khơi Việt Nam ( Công ty BP của Anh năm 2007, Công ty ExxonMobil của Hoa Kỳ năm 2008 ).

Tháng tư năm 2009 và tháng tư năm 2010 họ ngược ngạo ra lệnh cấm ngư dân Việt Nam đánh cá trên Biển Đông từ 15 tháng 5 đến hết tháng 8.
Tháng 12 năm 2007, họ ban hành quyết định thành lập thành phố hành chánh cấp huyện Tam Sa gồm ba quần đảo Hoàng Sa, Trung Sa (Macclesfield Bank) và Trường Sa đặt trực thuộc tỉnh Hải Nam là tỉnh mới được thành lập năm 1988, sau khi tách ra khỏi tỉnh Quảng Đông.
Không chỉ ức hiếp Việt Nam, năm 2007 vệ tinh thương mại của Anh còn khám phá một căn cứ tàu ngầm của Trung Quốc tại Yulin ở cực nam đảo Hải Nam. Căn cứ này có khả năng đồn trú một hạm đội lớn, có hầm trú ẩn cho tàu ngầm nguyên tử và cầu tàu cho mẫu hạm, giúp hải quân Trung Quốc hoạt động trong vùng Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Tháng ba năm 2009 Trung Quốc cho tàu ngăn cản hoạt động “dò đáy biển” của chiếc USS Impeccable của Hoa Kỳ ngoài hải phận quốc tế tại một nơi cách bờ đảo Hải Nam 104 km về phía nam.
Tháng ba và tháng tư 2010 Trung Quốc cho thao dượt hải quân trong vùng Đông Nam Á xuống tận phía đông eo biển Malacca và thực tập oanh tạc các mục tiêu ngoài biển trong vùng Trường Sa. Mục đích của Trung Quốc là nới rộng hoạt động của hải quân ra vùng biển Nhật Bản, biển Phi Luật Tân, biển Indonesia gồm cả quần đảo Marianas và Palau sát với đảo Guam.
Đầu tháng 8 vừa qua họ lại mở cuộc tâp trận hải quân trên quy mô rộng lớn được báo chí Trung Quốc tuyên bố là quan trọng chưa từng thấy từ ngày thành lập quân đội Trung Quốc.
Sau cuộc tập trận hải quân có bắn đạn thật ngoài khơi Biển Đông, từ ngày 3 tháng 8 năm 2010 Trung Quốc lại mở cuộc tập trận kéo dài 5 ngày ở Hà Nam và Sơn Đông với 12 000 binh lính, hàng trăm máy bay thuộc 7 loại khác nhau tham gia bên cạnh các đơn vị pháo cao xạ và tên lửa phòng không.
Cuối tháng 7 vừa qua Trung Quốc vừa thiết lập một căn cứ tên lửa mới tại Thiều Quan – Quảng Đông với các hỏa tiễn đạn đạo DF-21C và hỏa tiễn hành trình tầm xa CJ-10 có tầm bắn hơn 2.000 km, có thể vươn tới tận quần đảo Trường Sa và các cứ điểm Đông Nam Á.
Ngày 21 tháng 7 năm 2010, mạng “ tiexue.net ” thuộc hệ thống báo chí Trung Quốc, trong mục “ Diễn đàn hải quân ” đăng một bài viết nêu mấy khuyến nghị sau:
Một - Chính phủ phải tôn cao bãi ngầm Tăng Mẫu làm cho nó nổi hẳn trên mặt nước và xây dựng căn cứ quân sự và căn cứ không quân tại đó.
Hai – Thành lập liên minh khống chế Biển Đông với Đài Loan.
Ba – Khoét sâu mâu thuẫn giữa mấy nước ASEAN để họ kiềm chế, chống đối lẫn nhau trong vấn đề Biển Đông.
Bốn – Đầu tư mạnh vào các hoạt động dụ dỗ, mua chuộc các chính đảng và tổ chức thân Trung Quốc tại Việt Nam, Philippine, Malaysia, Indonesia, ngầm ủng hộ họ nắm và giữ chính quyền, kịp thời giúp đỡ họ về mọi mặt để đặt cơ sở nội ứng.
Năm – Thường xuyên cử quân hạm đi tuần tra, thị uy tại Biển Đông, tiến hành tâm lý chiến, cũng như đe dọa quân sự với mấy nước có liên quan.
Sáu – Vừa đàm phán vừa làm tốt việc chuẩn bị chiến tranh, nắm cả hai tay và cả hai tay đều phải cứng rắn trên vấn đề chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải, quyết không mơ hồ.
Lòng tham vô độ đã đẩy nhà cầm quyền Trung Quốc trâng tráo đến mức tháng 5 năm 2009 họ ngang nhiên cho công bố một bản đồ có hình cái lưỡi bò liếm gần hết Biển Đông, nói là vùng biển thuộc chủ quyền Trung Quốc. Tháng 3 năm nay, Cui Tiankai, trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc nhắn nhe với hai quan chức cấp cao Mỹ viếng thăm Bắc Kinh rằng: Trung Quốc hiện xếp các tuyên bố chủ quyền đối với 1,3 triệu km2 vùng Biển Đông thuộc loại “ quyền lợi then chốt ”. Trước đây Trung Quốc đã xem Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương là những vùng có “ quyền lợi then chốt ” với nghĩa là vùng Trung Quốc sẵn sàng dùng vũ lực để bảo vệ.
Sự trâng tráo tột độ này không chỉ khiến toàn dân Việt Nam muốn thét lên giận dữ ( trừ một vài quan chức lãnh đạo ĐCSVN nào đó ) mà đến cả Hoa Kỳ cũng phải lên tiếng.
Đối đáp lời kêu gào “ quyền lợi then chốt ” của Trung Quốc, Hoa Kỳ cũng thẳng thừng tuyên bố: Tự do hàng hải trên Biển Đông là quyền thuộc “ lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ ”. Hoa Kỳ xem việc tự do lưu thông, tự do lui tới và sự tôn trọng luật lệ quốc tế trên Biển Đông phù hợp với quyền lợi của Hoa Kỳ ”, là nguyên văn lời bà ngoại trưởng Hoa Kỳ phát đi từ Hà Nội, trên Diễn đàn Khu vực Asean.
Khi được hỏi về quan hệ chiến lược giữa Mỹ và Asean cho hiện tại và tương lai, bà Hillary Clinton còn rành rọt hơn:
“ Tại Hội nghị các Bộ trưởng Asean năm ngoái, tôi đã thông báo Hoa Kỳ trở lại Đông Nam Á và đã cam kết sẽ làm việc với các nước Asean để nâng cao lợi ích và các giá trị mà chúng ta chia sẻ. Kể từ đó, chúng ta đã đạt được nhiều tiến triển và hôm nay tôi xin nhắc lại rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục làm việc với từng nước thành viên Asean để thúc đẩy quan hệ đối tác giữa các quốc gia.”
Và, thế là, ngày 8 tháng 8 năm 2010 chiếc USS George Washington đã thăm Việt Nam. Đây là một siêu hàng không mẫu hạm hạt nhân lớn và hiện đại bậc nhất của Hoa Kỳ và thế giới, trọng tải 100.000 tấn, có thể mang theo đoàn thủy thủ 6.250 người cùng khoảng 80 phi cơ, bao gồm các chiến đấu cơ phản lực FA-18, phi cơ cảnh báo sớm trên không và chiếc E-2C Hawkeye .
Hai ngày sau, mới hôm qua, khu trục hạm USS John McCain lại vừa đến Việt Nam để xúc tiến các “ hoạt động luyện tập và trao đôi văn hóa ”.
Rõ ràng, không chỉ “ Chính quyền Obama đã chuẩn bị sẵn sàng để đưa mối bang giao Việt-Mỹ vào giai đoạn mới ” mà bà ngoại trưởng Hillary Clinton còn cặn kẽ hơn:            “ Chúng tôi quan niệm rằng không những mối quan hệ này phải xứng đáng với tầm quan trọng của nó, hơn thế nữa, nó là một phần của chiến lược nhằm củng cố sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Châu Á Thái Bình Dương ”.
Tháng tư vừa qua tổng thống Obama đã mời thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự hội nghị thượng đỉnh về an toàn nguyên tử ( Nuclear Security Summit ) tại Washington. Càng nức lòng hơn khi người ta đọc thấy trên tờ “ Wall Sreet Journal ” ra ngày 3 tháng 8 năm 2010, ký giả Jay Solomon loan báo rằng bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đang cùng Việt Nam tiến hành các thủ tục cần thiết để Việt Nam có thể tinh chế chất Uranium.
( Ai cũng biết nhân nguyên tử của Uranium 238 (U-238) ở trạng thái ít cân bằng nên nếu được bắn bằng một trung hòa tử có tốc độ thích hợp có thể bị vỡ và tạo thành phản ứng dây chuyền tỏa ra một khối năng lượng khổng lồ gây hiện tượng nổ trong vũ khí nguyên tử. Trong thiên nhiên thường chỉ có U-235 có nhân rất vững không thể bị bắn vỡ. U-238 thường chỉ chiếm 1 phần 140 trong Uran thiên nhiên. Kỹ thuật tinh chế và khoa học tính toán để có được một khối lượng U-238 tới hạn cần thiết cho việc sản xuất vũ khí nguyên tử là một bí mật bị ngăn cấm phổ biến ).
Tin trên làm Trung Quốc hốt hoảng. Theo China Daily, ông Li QingGong, phó tổng thư ký Hội đồng Trung Quốc về Nghiên cứu Chính sách An ninh Quốc gia, tuyên bố:            " Chúng ta không thể làm ngơ trước tình hình này! "
Ông Đằng Kiến Quần, phó chủ tịch Hiệp hội Kiểm soát và Giải trừ Vũ khí của Trung Quốc, thì phân bì: "Hoa Kỳ có chính sách không công bằng đối với các quốc gia khác nhau. Là nước chủ trương và kêu gọi các nước khác phi hạt nhân hóa nhưng Mỹ đã xem thường dư luận bằng việc thỏa thuận với Việt Nam khi cho phép nước này làm giàu Uranium ".
Thật vậy, cả chính quyền Obama lẫn chính quyền George W. Bush đều đã từng đòi hỏi các quốc gia mong muốn có được sự hợp tác của Hoa Kỳ trong việc phát triển kỹ nghệ hạt nhân phải tuân thủ một điều kiện quan trọng: Các quốc gia này phải từ bỏ quyền tinh lọc Uranium. Điều kiện trên được áp dụng trong các hiệp ước hợp tác hạt nhân mà Tổng thống Obama đã ký kết với các Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất (UAE) và Jordan.
Tuy nhiên, theo lời của giới chức trách Mỹ, Bộ Ngoại giao đang đưa ra một chuẩn mực khác dành cho Hà Nội vì các chính giới ngoại giao cho rằng rủi ro phổ biến hạt nhân tại Trung Đông lớn hơn tại Á Châu. Một chức trách Mỹ cho biết: “ Vì chúng tôi đặc biệt quan ngại về tình hình Iran và vì những mối đe doạ chạy đua võ trang hạt nhân tại Trung Đông, chúng tôi tin tưởng rằng thoả thuận giữa Hoa Kỳ và UAE là một khuôn mẫu cho mọi thoả thuận trong khu vực này ”, nhưng “ Những quan ngại như trên không đặt ra với châu Á. Tuỳ theo thực trạng của từng khu vực và của từng quốc gia, chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề một cách thích hợp ”.
Theo nguồn tin AFP, hai phụ tá quốc hội Mỹ nắm chắc diễn biến thảo luận, cho biết, chính quyền của Tổng thống Obama đã kết luận rằng nhiều khả năng “ Không thuyết phục nổi Việt Nam nhất trí với một cam kết không làm giàu nhiên liệu theo cách thức mà UAE đã ký kết với Hoa Kỳ ”.
Ông Đằng Kiến Quần tố cáo: “ Hoa Kỳ thách đố uy tín của chính mình và gây xáo trộn trật tự thế giới hiện tại " nhưng mạng Sify của Ấn Độ cho rằng « Hợp tác Mỹ - Việt về hạt nhân có thể gây bất ổn định ( chỉ ) cho Trung Quốc ” và diễn giải: đây không phải là lần đầu tiên Washington không quan tâm đến quy định quốc tế về kiểm soát hạt nhân. Năm 2008, Hoa Kỳ đã ký thỏa thuận hợp tác công nghệ hạt nhân với Ấn Độ mặc dù New Delhi không ký kết vào Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, một điều kiện cần thiết để được chuyển giao công nghệ. Tương tự như vậy, được trợ giúp của Mỹ, Việt Nam sẽ được phép tinh lọc uranium trên lãnh thổ của mình.
Không biết rồi Mỹ có giúp Việt Nam chế tạo vũ khí nguyên tử hay không? Nhưng nghĩ rằng Việt Nam cần có vũ khí nguyên tử.
Việt Nam cần vũ khí nguyên tử chắc chắn không để đối chọi với bất cứ ai.
Việt Nam có vũ khí nguyên tử cũng không nhằm nã vào Trung Quốc mà để mong được nắm tay Trung Quốc thân ái, bình đẳng ( nhưng khiêm nhường ), thể theo đường lối:  “ Việt Nam muốn bảo toàn lãnh thổ và lãnh hải tay phải phải nắm Hoa Kỳ, tay trái phải nắm Trung Quốc”.
Hà Nội 11 /8/2010                                                                                                    Nguyễn Thanh Giang                                                                                                                 
 Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay                                                          
 Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội                                                                                   Điện thoại: ( 04 ) 35 534 370