Ấn Giáo hay Balamon Giáo
TT Giác Đẳng giảng trên đường từ Lumbini trở về Veshali ngày 29 tháng 3 năm 2010 trong chuyến tu học hành hương Ấn Độ
Minh Hạnh chuyển biên
Chữ Hindu, ngày nay chúng ta thường gọi là Ấn Giáo, chữ Hindu đó là vốn một với Bàlamon giáo vốn được nhắc ở trong kinh điển của Đạo Phật. Balamon giáo âm từ chữ brāhmana, có khi âm từ tiếng Sanskrit là Bràhamana. Chữ Brah nghĩa là thanh tịnh trong sạch, thí dụ như Brahmacharya nghĩa là Phạm hạnh. Chữ Bràhmana nghĩa là Bàlamon hay âm là Phạm Chí. Chữ Phạm nghĩa là trong sạch.
Ngày nay thì chúng ta ít nhắc đến khái niệm này, mặc dầu ở tại Ấn Độ họ nói đến rất nhiều nhưng ở ngoài thì họ gọi là Hindu. Người Balamon họ quan niệm Thượng Đế tức là Phạm Thiên là chủ thể của thế giới này và chữ Phạm Thiên được hiểu như một thần linh ở mức độ cao vợi nhất, mức độ đó gọi là thanh tịnh. Có khi người ta tạc tượng Phạm Thiên bốn mặt tượng trưng cho một người có bốn đức từ bi hỉ xả, như chúng ta nhìn thấy hình ảnh Phạm Thiên được khắc tại đền Angkor Watt ở Cambochia hay ở một số các đền đài tại Ấn Độ. Quan niệm này tương đối là cao siêu hơn nếu chúng ta so với những quan niệm thần ngã khác, thông thường thì những quốc gia khác hay những đạo giáo khác khi nói về Thượng Đế người ta chỉ nói đến một đấng tối tôn sáng tạo chủ, nhưng mà người ta không nói đến đấng thanh tịnh ví dụ như trong kinh Cựu Ước người ta đưa ra những hình ảnh Thượng Đế có lúc nổi giận, Thượng Đế có những lúc đòi hỏi loài người phải vinh danh ngài, điều đó không có trong hình ảnh Thượng Đế của Ấn Giáo hay Balamon Giáo.
Ấn Giáo tôn thờ Thượng Đế đấng Brahama do đó họ gọi là Balamon. Bràhmana được âm là Bàlamon có khi được âm tắc là Bàn môn, giống như trong tiếng Việt Nam có thành ngữ "bàn môn tả đạo" nhiều khi chúng ta nghe chữ bàn môn tả đạo thì nghe như tà ma ngoại đạo, nhưng thật ra chữ bàn môn là chỉ cho Balamon, tại vì những người Phật tử xem đạo Balamon là ngoại giáo là Bàlamon, tả đạo là chỉ cho đạo Thiên Chúa. Ví dụ như người ta nói "bình tây sát tả" người Phật tử gọi là tả đạo, do vậy Balamon gọi là bàn môn, nhưng chữ bàn môn là chữ rất tiêu cực, thường trong tiếng Việt chúng ta nói bàn môn tả đạo, đạo mà tà mị gọi là bàn môn, nhưng thật sự chữ bàn môn đó là từ chữ Bràhmana mà ra. Về sau này khi người Hồi Giáo xâm lăng Ấn Độ thì ở trong ngôn ngữ Persian của đế quốc Phổ mà chúng ta gọi là đế quốc Ba Tư người ta có dùng chữ Hindu để chỉ cho đạo Balamon. Tại sao vậy? Tại vì người Hồi Giáo quan niệm chỉ có Thượng Đế và những khải huyền ở trong kinh Koran mới thật sự là chánh giáo, còn những phương pháp những cách thờ cúng của người Ấn Độ như thờ bò hay thờ khỉ hay nhiều quan niệm khác thì họ cho là ngoại đạo tức là không nằm trong chánh đạo, và họ gọi người Ấn Độ theo đạo Balamon là Hindu.
Chữ đó rất là thú vị tại vì khi người Hồi Giáo cai trị Ấn Độ họ gọi người Bàlamon là Hindu thì họ gọi bằng ý nghĩa rất là tiêu cực là những ngoại đạo, nhưng người Ấn Giáo thì ngược lại, họ thấy chữ Hindu đúng, họ nói quan niệm về sự tu của họ không có cái gì giống với đạo Hồi Giáo, mình khác với Hồi Giáo là đúng, thành ra họ dùng chữ Hindu, về sau chữ này trở nên phổ cập. Tiếng nói của người Ấn Độ họ gọi là tiếng Hindi, đạo của người Ấn Độ là Hindu, tĩnh từ dùng trong ngữ pháp Hindustan, hay cái chất của Hindu cũng gọi là Hindustan. Ngày nay có một nhật báo gọi là hindustan là một nhật báo lớn. Như vậy chữ Hindu không bắt nguồn từ trong tiếng Sanskrit mà bắt nguồn từ tiếng nói của Preußen tức là đế quốc Phổ mà ngày nay chúng ta gọi là Iran tức là Ba Tư khi họ sang xâm lăng xứ này vào thế kỷ thứ 12, và do vậy dần dà ở trong suốt thời đại của các vị vua Hồi Giáo thì một bên gọi là đạo Islām là đạo chính thống của vua chúa tức là đạo Hồi, một bên là đạo Hindu là ngoại giáo. Lý do rất đơn giản là tại vì họ không biết đạo Balamon giáo thực hành cái gì đặc trưng hoàn toàn là Balamon giáo, A cũng phải, B cũng phải, C cũng phải, kiểu này cũng được kiểu khác cũng được do đó họ gọi chung tất cả những thứ gọi là ngoại giáo. Chúng tôi xin nói lại một lần nữa là chữ Hindu ngày nay là để chỉ cho Bàlamon giáo ngày xưa, ngày xưa chúng ta gọi là Balamon giáo và ngày nay chúng ta gọi là Hindu, và Hindi là tiếng nói được dùng cho Ấn Giáo nhưng Hindi cũng là ngôn ngữ dùng cho cả nước Ấn Độ và do vậy khi chúng ta dùng là Ấn Độ thì chúng ta dùng chữ Hindu là Ấn Giáo và Hindi là Ấn ngữ và Hindustan là những người theo đạo Hindu là từ mà trong Anh ngữ cũng nhưng trong tiếng địa phương họ cũng sài như vậy.
Vậy thì khi chúng ta trở lại câu chuyện chúng ta biết chữ Hindu là hậu thân của Balamon giáo tôn giáo hay đương đại là Balamon giáo thì chúng ta đi vào một câu hỏi khác đó là Balamon giáo dạy điều gì? Trước khi nói về Balamon giáo dạy điều gì chúng ta nói về ba đặc điểm của Bàlamon giáo khiến cho đạo giáo này không giống bất cứ tôn giáo nào khác trên thế giới ngoại trừ một vài điểm nhỏ.
1.) Thứ nhất là Bàlamon giáo không có vị giáo chủ khai đạo, trong trường hợp của Đạo Phật thì chúng ta nói đến Đức Phật một vị Đạo Sư của chúng ta ra đời cách đây 2500 năm, trong trường hợp Khổng Giáo chúng ta nói đến Đức Khổng Tử, hay là trường hợp của Ky Tô Giáo thì có Chúa Jesu, hay tối thiểu như Do Thái Giáo thì họ cũng nói đến thủy tổ của lòai người như là Abraham hay ông Jacob, Hồi giáo thì chúng ta nói giáo chủ Muhammad, riêng trường hợp của Ấn Giáo thì không ai biết được, không ai nói, và không hề có một vị giáo chủ đầu tiên. Do vậy ở trong Ấn Giáo họ thường nói đến những vị Guru còn được biết là những vị đạo sư hay là bậc chân sư là những người thực hành Ấn Giáo trong nhiều thế hệ, là người có sở trường gì đó, do đó ngày nay trong tiếng Anh chữ Guru là chỉ cho một Expert một chuyên gia là bậc thầy để dạy về điều gì đó thì gọi là Guru, và những bậc Guru này tu đến trình độ cao họ gọi là những Sadhu ví dụ như trong lịch sử Ấn Độ có 80 vị Sadhu ảnh hưởng lớn như Narayan và một số những vị Sadhu khác. Thì đặc điểu đầu tiên của Ấn Giáo là họ không có vị giáo chủ khai sơ vị giáo chủ khởi đầu.
2.) Đặc điểm thứ hai của Balamon giáo là họ không có một sự bắt đầu của lịch sử, những tập kinh Vệ Đà mà chúng ta được biết ngày nay theo các nhà nhân chủ học ước tính tại vì họ dựa ngữ Pháp, họ dựa trên những câu chuyện huyền thoại đọc trong kinh Vệ Đà thì họ ước chừng có từ 4 cho đến 5000 năm, nhưng trong kinh Bổn Sanh của Đạo Phật thì có một số ghi nhận có lẽ là kinh Vệ Đà còn xưa hơn nữa, xưa hơn có nghĩa là nhiều ngàn năm trước khi Đức Phật ra đời vì tiền thân của Ngài đã từng sanh trong những gia đình Balamon thông hiểu kinh Vệ Đà, và như vậy kinh Vệ Đà có rất lâu. Chúng ta được biết như là những tập Mahabrarata hay tập Upanisad là Áo Nghĩa Thư thì những tập thánh thi này đã nói lên nguồn gốc khởi đầu của Ấn Độ từ thần Rama xuống trần rồi có những cuộc tình với nàng Sita (Radhà) và có nhiều huyền thoại khác, nó tương tự như chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ. Những câu chuyện trong Rig Véda thì nói nhiều về sáng thế ký nói nhiều về sự khởi thủy của Ấn Độ, điều đó đã được chấp nhận thọ trì rất lâu. Thời Đức Thế Tôn ra đời cách đây 25 thế kỷ thì Bàlamon giáo đã có một hệ thống kinh điển hoàn chỉnh, ví dụ qúi vị nghe đến những Balamon như Balamon Bramadu, Balamon Bramaya là những người thông hiểu tam Vệ Đà tức là trước khi Đức Phật ra đời thì Balamon giáo đã có một hệ thống kinh điển cố định chứ không phải là một tôn giáo có tánh cách phôi thai.
3.) Đặc điểm thứ ba của Balamon Giáo thì giống đạo Do Thái một chút, giống Do Thái về điểm là gắng liền với sắc tộc, nói rõ hơn Balamon Giáo là một đạo giáo nói thì rất rộng lớn nhưng gắng liền với bốn giai cấp của xã hội Ấn Độ. Những giai cấp Thượng Đế sanh ra đời thì có giai cấp Balamon, giai cấp Sát Đế Lỵ, giai cấp Vệ Xá, và giai cấp Thủ đà la. Giai cấp Balamon là giai cấp giáo sĩ, giai cấp Sát Đế Lỵ là giai cấp vua chúa hay chiến sĩ, giai cấp Vệ Xá là giai cấp thương gia người điều hành nguồn máy kinh tế, giai cấp Thủ Đà La là giai cấp nô lệ. Thì cả bốn giai cấp này đều có một giai tầng gắng liền với xã hội và có đặc tình nền văn hóa Ấn. Có nghĩa là những gì mà Balamon Giáo nói về bốn giai cấp này và đem ra cho những nền văn hóa khác như Âu Châu hay Việt Nam hay Trung Hoa thì không trúng vào đâu hết, tại vì quan niệm về giai cấp nó gắng liền với đạo giáo và quan niệm về giai cấp gắng liền với xã hội Ấn Độ. Dĩ nhiên có một số những trường phái của Balamon Giáo được truyền ra xứ khác, thí dụ như trong trường hợp Hari Krisna chẳng hạn thì họ nói nhưng mà họ nói cách miễn cưỡng khi nó vượt qua khỏi biên giới để đi sang những văn hóa khác. Chúng ta thấy tương tự như là nếu qúi vị đọc Tân Ước thì lời dạy của chúa Jesu có tánh cách là vượt ngoài ranh phận của người Do Thái, nhưng đọc Cưu Ước thì thật sự là hầu như thế giới này được sáng tạo ra và điều đó gắng liền với người Do Thái, gắng liền với đất nước Do Thái, và đất nước do Thái là vùng đất hứa và dân tộc Do Thái là dân tộc được Chúa lựa chọn, thí du như vậy. Và như vậy đạo giáo gắng liền với một chủng tộc, và điều này có sức mạnh của vị ngã nhưng đồng thời nó bị hạn hẹp ở trong một chủng tộc, ở trong quốc độ một số người, đó cũng là trường hợp của Balamon giáo.
Quan niệm về bốn giai cấp không đi ra khỏi biên giới của Ấn Độ và sang các quốc gia khác được. Người Ấn Độ họ gọi nhân loại bằng chữ manussa, chữ manussa bắt đầu bằng chữ manu, manu tức là bộ luật manu nói về luật mà con người phải sống theo thiên khải như thế nào, tức là ví dụ Thượng Đế sanh ra cho con người làm nô lệ thì con người phải làm nô lệ, sanh ra con người làm vua thì phải làm vua, như trong chuyện Kiều cụ Nguyễn Du nói là:
"Mới hay muôn sự tại trời.
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần.
Cho thanh cao mới được phần thanh cao."
Tức là nói rằng những người cuộc sống trong xã hội này bất kể đó là sự bất công, sự dĩ biệt giữa giàu nghèo sang hèn, giữa người may mắn bất hạnh tất cả đều do định mệnh an bày. Chúng ta lấy một thí dụ là người Ấn Độ họ quan niệm một người chết đi dù đó là ông thủ tướng hay là một vị vua hay bất cứ ai một nhân vật quan trọng nào thì khi đặt lên dàn hỏa thì người châm lửa phải là người quét đường, họ đi tìm một người nào đó chuyên môn quét đường chuyên môn dọn dẹp đến châm lửa, tại vì sao, tại vì Thượng Đế đã an bày cho người có trách nhiệm dọn dẹp là dọn dẹp thế gian này. Do vậy quan niệm Thượng Đế gắng chặc vào trong lòng người, chưa có một đất nước nào mà nô lệ hóa con người bằng tôn giáo như là Ấn Độ, người Ấn Độ mà thuộc giai cấp hạ tiện mà ngày nay chúng ta gọi là untouchable, cấp cùng đinh thì họ sanh ra trong giai cấp hạ tiện và họ bằng lòng với số phận của họ bởi vì người ta nói rằng Thượng Đế đã cho họ như vậy, Thượng Đế đã dành cho họ một chỗ đứng giữa xã hội loài người là như vậy. Và do vậy Phật tử nghe nói rằng có những người theo lời kêu gọi của bác sĩ Ambedkar cải đạo là từ bỏ Ấn Giáo trở về với Đạo Phật, tại vì đạo Phật không nói đến giai cấp, năm nào cũng vậy có cả mấy chục ngàn người từ Ấn Giáo sang đạo Phật là bởi vì họ ở Ấn Giáo họ không thoát khỏi giai cấp của họ, và điều đó cũng giải thích tại sao người Hồi Giáo rất thành công khi họ đặt chân đến Ấn Độ, họ xóa bỏ giai cấp và họ kéo theo một số người không chịu nổi cái quan niệm về giai cấp, cái quan niệm về số phận an bày của Ấn Giáo.
Nói như vậy không có nghĩa là Ấn Giáo là một tôn giáo quan niệm về thần ngã, thần học hời hợt, thật ra thì Ấn Giáo có quan niệm về thần ngã rất là tinh vi, tinh vi bậc nhất ở trong những tôn giáo nói về thần ngã tức là thờ phượng Thượng Đế. Người Ấn Giáo họ cho rằng có ba vị Phạm Thiên, ba vị Phạm Thiên này là ba vị Thượng Đế, là ba vị chủ trì đại cuộc của thế giới tức là vận chuyển máy huyền cơ của thế giới này.
Vị đầu tiên là Thượng Đế Bràhma. Thượng Đế Bràhma tức là Thượng Đế sáng tạo, Ngài là người đã tạo ra núi non cây cỏ con người muôn vật thượng cầm hạ thú, đã tạo ra cả thế giới mà chúng ta được biết, Ngài là Thượng Đế sáng tạo Brāhma.
Thượng Đế thứ hai là Thượng Đế Vishnu là Thượng Đế duy trì, Ngài hóa hiện trong nhiều hình thức, thí dụ như tại sao người Ấn Độ thờ bò, tại vì họ cho rằng bò cũng là một hóa thân của Thượng Đế Vishnu mang lại sữa mang lại phân mang lại sự sống của con người. Và Thượng Đế Vishnu là Thượng Đế duy trì những gì cần phải duy trì trên thế gian này.
Thượng Đế thứ ba là Thượng Đế Shiva là Thượng Đế hủy diệt tức là cái gì không cần thì hủy diệt đi. Nếu Thượng Đế Shiva nổi giận thì Ngài cũng có thể hủy diệt những điều gì chúng ta không tưởng tượng được ví dụ như sóng thần (tsunami), bão (Hurricane), bão tố phong ba v.v... là do Thượng Đế Shiva làm ra.
Thật ra người Ấn Độ quan niệm rằng có ba vị Thượng Đế: Thượng Đế Bràhma - Thượng đế sáng tạo là thuần tịnh, Thượng đế Vishnu là người có lòng đầy bi mẫn, và Thượng đế Shiva được xem là người có khả năng hủy diệt. Giống như quan niệm mà chúng ta gọi là tam đầu chế.
Thì thật ra quan niệm này rất thú vị, bởi vì thưa qúi vị là một trận bão như trận bão Andrew thổi vào Florida hay bão Katrina thổi vào in New Orleans, Louisiana, thì những trận bão đó làm xập những ngôi nhà thờ mang lại bao nhiêu sự tổn thất về nhân mạng tài sản, rồi người ta tụ lại những ngôi nhà thờ đổ nát để cám ơn Thượng Đế đã cho họ sống sót. Nhưng mà điều đó đối với những người khác rất là mỉa mai tại vì nếu trận bão là do Thượng Đế tạo nên thì đáng lẽ Thượng Đế đáng nguyền rủa chứ sao lại làm lễ cảm ơn Thượng Đế đã cho mình sống sót và giết đi những người khác làm hư hại tài sản của những người khác, thì thật sự là sự cảm ơn Thượng Đế khi Thượng Đế mà một lúc vừa tạo ra tai ương hoạn nạn cho loài người mà loài người lại cảm ơn Thượng Đế vì Thượng Đế đã tha mạng cho mình, thì việc đó nó không ổn. Có lẽ từ điều này nên chi người Ấn Độ giáo họ quan niệm không phải chỉ có một Thượng Đế mà có đến ba Thượng Đế, và lời cầu nguyện như vầy là: Cầu nguyện Thượng Đế Bràhma sáng tạo những điều tốt đẹp cho cuộc sống, Thượng Đế Bràhma đã tạo ra trăng, đã tạo ra sao, tạo ra sông núi tạo ra cảnh trí hữu tình tạo ra sự sống, thì xin cầu nguyện Thượng Đế Vishnu duy trì những điều tốt đẹp và cũng xin cầu nguyện Thượng Đế Shiva lấy đi những thứ không tốt đẹp của đời sống, nói chung là có cân bằng quyền lực, có chi có thu, có tạo nên thì cũng có hủy diệt nhưng trách nhiệm không hoàn toàn ở một người. Khi cơn bão đến thì người ta hiểu là cơn thịnh nộ của Thượng Đế Shiva và không ai trách Thượng Đế Vishnu, không ai trách Thượng Đế Bràhma, tại vì mỗi người có vai trò riêng, mỗi một vị chủ thể có một trách nhiệm riêng.
thật ra thì vào thế kỷ 5 trong kinh Phật có bộ kinh ra đời là kinh Hoa Nghiêm cũng có một quan niệm gần giống như vậy nhưng mang tánh Phật nhiều hơn, chúng ta gọi là trong thế giới này có ba thứ năng lực, trong kinh Hoa Nghiêm nói là:
Quang minh lực tức là lực của Chư Phật.
Thần lực tức là lực của chư thiện thần hộ pháp lực của các vị thiên.
Sau cùng là nghiệp lực là lực của chúng sanh.
Kinh Hoa Nghiêm nói về thế giới Hoa Tạng, nói về lăng kính trùng trùng thì trong đó nói rằng những yếu tố này hỗn hợp với nhau, có quang minh lực, có thần lực rồi có nghiệp lực. Thật ra thì khái niệm này cũng ở mức độ nào đó nói lên là thế giới đa phần chứ không phải là thế giới nhất nguyên và thế giới này có ảnh hưởng với nhiều lý do khác nhau thì điều đó vốn đã có mặt ở trong Ấn Giáo từ lâu.
Chúng ta nói đến một quan niệm thứ hai của Ấn Giáo và quan niệm này kể ra cũng rất xa lạ với người Tây Phương, quan niệm đó là quan niệm về một thế giới bất nhị, thế giới bất nhị là quan niệm chúng ta gọi là nền tảng căn bản của Bà la môn giáo. Nhiều Phật tử khi nói về thế giới bất nhị thì chúng ta nghĩ rằng đó là một triết lý của Đạo Phật. Nhưng thế giới bất nhị thật ra bắt nguồn từ giáo thuyết mà chúng ta có thể khẳng định rằng đó là giáo thuyết căn bản nhất của Balamon giáo.
Bởi vì họ nói như vầy; sở dĩ mình thấy có một người đẹp là tại vì có những người khác xấu, nếu không có những người xấu thì không thấy được người đẹp, sở dĩ chúng ta thấy có ban ngày là tại vì chúng ta có ban đêm, nếu không có ban đêm thì không có ban ngày, như câu nói là "Thùy lữ trư dương tàn tịch bộ, tất dung vạn sự thế đô hôi" tức là nếu chúng ta hiểu được là có ánh sáng ban ngày mới có bóng đêm thì chúng ta có thể bao dung cả thế giới này. Thì trong giáo lý bất nhị nói rằng sở dĩ có điều tốt là tại vì có điều xấu, cái tốt cái xấu chỉ là hai mặt của đồng tiền, ví dụ như qúi vị là một người đẹp mà qúi vị ở chung với tất cả mọi người cùng đẹp thì người ta thấy qúi vị không còn đẹp nữa mà thấy qúi vị rất là bình thường, nhưng mà qúi vị là người trung bình thôi nhưng qúi vị ở trong những người đen đúa những người xấu thì người ta sẽ thấy cảm thấy qúi vị đẹp, cũng như có người nói "ở trong xứ mù thì người chột là vua. "
Thì ở đây khi người ta đề cập đến thế giới bất nhị thì họ nói rằng tất cả những quan niệm về tốt xấu, hay dở, ngày đêm sáng tối, âm dương, nó đều là hai mặt của đồng tiền, thấy nó là hai nhưng nó là một. Bây giờ họ lấy ví dụ là họ giải thích Đức Phật Ngài ra đời có Đề Bà Đạt Đa là một vị đệ tử đại nghịch bất đạo, thì có Đề Bà Đạt Đa thì hình ảnh của Đức Phật mới nổi bậc lên do đó Đề Bà Đạt Đa ra đời để đóng vai trò làm cho nổi bậc của hình ảnh của Đức Phật. Vì vậy nói cho cùng thì không có chuyện tốt xấu mà chỉ có người nào đóng vai đó thôi. Như trong một tuồng kịch chúng ta thường xem kịch thấy có những người đóng vai chánh là những người đóng vai trung thần, có những người đóng vai nịnh thần, nhưng nhờ có vai nịnh thần họ diễn rất xuất sắc rất nhập vai mà chúng ta lại cảm thấy rất là thích thú đối với vai trung thần, nhưng nếu không có nịnh thần thì không có trung thần. Nói cho cùng thì không ai tốt xấu hết mà vấn đề là diễn xuất có nhập vai hay không, đôi lúc chúng ta ghét một người nào đó tại vì họ đóng vai ác nhưng chúng ta càng ghét họ thì chứng tỏ họ đóng vai đó rất là thành công. Thì nói chung trong quan niệm về giáo thuyết bất nhị thì nói rằng tất cả những cái xấu tốt, sáng tối nó là hai mặt của đồng tiền và nó không có chuyện gì khác nhau nó chỉ là câu chuyện của vai trò thôi, ở vai nào mà làm xuất sắc vai đó thì nó cho chúng ta một phản cảm khác nhau.
Thật ra thì về sau này ở trong Phật giáo Đại Thừa có quan niệm là Niết-bàn và sinh tử không có khác, mà Niết-bàn và sinh tử vốn là một. Hay là qúi vị nghe nói về những điều gọi là nhất thể tức là cho dù mọi thứ trong cuộc đời này đều là vạn pháp uy nguyên rồi đi về nhất thể hết, nó không có chuyện cao thấp tốt xấu v.v... thì giáo lý bất nhị nó đã làm cơ sở rất quan trọng cho tất cả tính lý của người Ấn Độ tại đây, tính lý đó dẫn đến một thái độ rất bao dung nghĩa là cái gì mình cũng có thể chấp nhận được, nhưng nếu chấp nhận nhiều quá thành ra thụ động, chúng tôi lấy thí dụ là ở trong xã hội Ấn Độ tại sao có những chuyện là ai muốn sao cũng được, mỗi người tu kiểu nào cũng được làm kiểu nào cũng được và có thể nói là xã hội này tự do trên phương diện nào đó được chấp nhận nhiều hơn nơi khác, tại vì sao, tại vì người ta tin rằng cuối cùng thì đường nào cũng đến La Mã nhưng mà mỗi người có mỗi kiểu mỗi cách khác nhau thôi, do đó điểm thứ nhất là chúng ta nói rằng thế giới bất nhị là nền tảng của Bà la môn giáo.
Điều thứ hai là một điều ảnh hưởng đến Đạo Phật rất nhiều, Đạo Phật phát triển về sau này là sự thị hiện tức là sự hiển bày, nghĩa là bày vẽ cho thấy vậy thôi chứ thật sự không có thật. Ví dụ, thần Vishnu hiện ra làm rắn, hiện ra làm khỉ, hiện ra làm bò thì thật ra bò rắn khỉ chỉ là phương tiện để phụng sự và để cảnh báo loài người cảnh báo thế gian này thôi và điều đó chỉ là phương tiện chứ nó không có ý nghĩa gì ngoài phương tiện đó. Dĩ nhiên là cái này chúng ta gọi là hiển bày tức là cho thấy như vậy thôi chứ không phải là một cái gì thật.
Điểm này về sau cũng có trong Đạo Phật, chúng tôi lấy ví dụ là bên truyền thống Phật Giáo trong Tam Tạng kinh điển Pali thì Đức Thế Tôn Ngài đi bộ, Đức Thế Tôn Ngài có những lúc bị bịnh, trong truyền thống Pali cũng nói rằng Đức Thế Tôn có một giai đọan Ngài thành đạo dưới cội Bồ Đề và trước khi Ngài thành đạo Ngài còn là vị Bồ Tát thì Ngài cũng có gia đình có vợ có con. Nhưng mà rồi cũng có quan niệm cho rằng Đức Thế Tôn đã thành đạo trong vô lượng kiếp tức là trước khi Ngài ra đời Ngài đã thành Phật rồi, trước khi Ngài thành đaọ dưới cội Bồ Đề Ngài cũng đã thành Phật rồi và trong câu chuyện Ngài là Thái Tử Sĩ Đạt Đa Ngài có gia đình Ngài có vợ có con v.v... chỉ là sự thị hiện hiển bày cho người đời sau thấy chỉ là phương tiện thôi chứ thật ra thì chuyện đó không có ý nghĩa gì thật sự hết. Về điểm này đưa chúng ta đến một cảm giác khác nhau. Giả sử như tất cả những sự kiện liên quan đến cuộc đời của Đức Phật mà chỉ là một sự thị hiện thôi nghĩa là vì phương tiện hiển bày cho thấy thôi thì chúng ta không tìm thấy ý nghĩa vĩ đại. Thí dụ như chuyện Ngài từ bỏ thành Ca Tỳ La Vệ ra đi bất qúa chỉ là một vai trò mà Ngài bày cho người ta thấy thôi chứ không thật sự là một đại nguyện là một sự khước từ vĩ đại.
Nói chung đó là ở trong Balamon giáo quan niệm thị hiện là quan niệm rất rộng lớn, do vậy người Ấn Giáo họ thờ đủ thứ hết, họ thờ đất đá, thờ lửa, thờ mặt trời, thờ rắn, thờ bò, thờ khỉ. Thì quan niệm này nhiều người nghĩ rằng Ấn Giáo là một tôn giáo đa thần, đủ thứ niềm tin đều có thể đem vào trong Ấn Giáo hết, thật sự thì họ bắt nguồn từ một thứ là tất cả đều do biến hiện của Thượng Đế. Chính vì điểm này thì người Ấn Giáo lại có rất nhiều nghi lễ, những nghi lễ đó gắng liền ở trong đời sống của người Ấn Giáo tại đây, người Balamon giáo thì hầu như mỗi ngày họ đều có lễ Vucha tức là lễ cúng thần linh và một năm như vậy họ có rất nhiều ngày nghĩ lễ. Có thể nói rằng vô số sự thờ cúng của người Ấn Giáo bắt nguồn từ hình ảnh là làm sao để hội nhập với Thượng Đế và trở về với Thượng Đế.
Khi chúng ta nói đến Ấn Giáo thì chúng ta cũng nói đến một đại nguyện khác mà có lẽ về điều này ít có đạo giáo nào giống như họ đó là sự trở về với đại ngã. Trong Ấn Giáo quan niệm rằng Thượng Đế là một đại ngã và chúng ta mỗi người là một tiểu ngã là một cái linh căn, linh căn đó tách rời khỏi đại ngã và trôi dạt ở trong cõi trần này và muốn trở về với Thượng Đế là con người phải bỏ tất cả và kể cả sự tu khổ hạnh, có nhiều pháp khổ hạnh mà chúng ta không thể tưởng tượng được là khổ hạnh như thế nào, nhưng con người bỏ tất cả thì sẽ trở về với Thượng Đế, phương pháp đó cũng ảnh hưởng rất nhiều.
Nói về hình thức thì Ấn Giáo có hình thức rất đa dạng nhiều màu sắc và một đặc điểm ở trong Ấn Giáo tức là những thánh thi, qúi vị nào đã đọc Chỉ Tôn Ca (Bhagavadgìtà) thì cũng hiểu được là đó là một trường thi có cả mấy mươi ngàn câu thơ và viết liên tục do đó cái thể gọi là ca vịnh thường được ngâm nga trong các buổi lễ như là để ca tụng Thượng Đế v.v... Nhiều màu sắc thi ca và thế giới của Hindu thật sự là thế giới rất vui vẻ. Có nhiều Phật tử hỏi tại sao mở TV Ấn Độ ra thì thấy họ vũ họ ca như vậy, thật ra thì ở trong giáo điển của Vệ Đà diễn tả đời sống của Chư Thiên là đời sống rất là hỉ lạc, Chư Thiên không phải đi làm như chúng ta, Chư Thiên sống phô diễn sự vui vẻ sự hỉ lạc trong lòng bằng những điệu vũ lời ca, do vậy để sống gần với Chư Thiên loài người cũng có những vũ điệu bài hát. Do vậy trên một hình thức nào mà chúng ta nhìn thấy thì người Ấn Độ họ có một đạo rất chú trọng nhiều về lễ nhạc vũ điệu . Một nhánh của Ấn Giáo là Hari Krisna rất thu hút người Tây Phương, thu hút người da trắng là bởi vì đối với họ con đường đến với Thượng Đế là sống như Thượng Đế do đó ngoài những bài hát những điệu vũ thì họ làm sao cho con người sống được vui vẻ và do vậy có một hấp lực rất lớn đối với những người Tây Phương. Dĩ nhiên chúng ta nói rằng ba thập niên về trước ngày nay thì Hari Krisna không còn mạnh như ban đầu, nhưng thời Hari Krisna mới tràn qua Hoa Kỳ nó đã trở thành một hiện tượng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét