23/7/10

Mao: Câu Chuyện Không Ðược Biết 2

Chương 11:
Tháng 9 năm 1933 Tưởng Giới-Thạch đem theo nửa triệu quân tấn công vào Thụy Kim, mở đầu chiến dịch diệt Cộng lần thứ năm. Lần này Tưởng đã có nhiều chuẩn bị hơn qua việc ký hiệp ước hưu chiến với Nhật (tháng 5) và mở mang thêm nhiều đường xá. Trước một lực lượng quá hùng mạnh mà lại đông gấp 10 lần, quân Cộng sản co cụm lại. Tháng 10 năm 1934, Mao không còn sự lựa chọn nào ngoài đường di tản. Những người không được tin tưởng đều bị hành quyết, con số lên tới hàng ngàn người. Cuộc hành quyết diễn ra ở một ngọn đồi hoang vắng, cả ngàn người bị giết và chôn chung trong một hố. Khi cái hố quá đầy thì nạn nhân phải tự đào cho mình một lỗ và sau đó họ bị buộc phải nhảy xuống hố rồi bị đâm chết. Có người bị chôn sống.
 
Chế độ Cộng sản dã man ở Giang Tây chấm dứt khi Mao rời bộ tổng tham mưu leo lên tàu bắt đầu một cuộc phiêu lưu chứa đầy huyền thoại, lịch sử gọi là “Trường chinh”.
 
 
Chương 12:
Khoảng 80 ngàn người chia thành ba đạo quân rút lui. Mao cầm đầu một đạo quân, còn hai đạo quân kia do Lâm Bưu và Bành Ðức Hoài cầm đầu. Ðoàn người, kéo dài cả mười cây số, hiển nhiên là một mục tiêu dễ dàng cho quân Tưởng truy kích, thế nhưng chính Tưởng Giới Thạch ra lệnh cho quân đội chỉ theo dõi chứ không được tấn công.
 
Kế hoạch của Tưởng là mong muốn Mao đi ngang hai tỉnh Quý Châu và Tứ Xuyên. Ðây là hai tỉnh lớn của TQ, nằm trên lộ trình của Mao. Hai tỉnh này không chịu sự cai quản của Tưởng, mà Tưởng thì không muốn gây thêm một cuộc chiến tranh nữa với đám lãnh chúa ở đó. Theo tính toán của Tưởng, khi đám quân của Mao đi ngang qua đó chắc chắn sẽ làm đám lãnh chúa ở đó sẽ sợ hãi mà cầu cứu Tưởng, đây là cơ hội cho Tưởng giành lại quyền kiểm soát hai tỉnh này.
 
Một lý do thứ hai nữa mà Tưởng cho phép Mao an toàn rút quân di tản là vì Tưởng đang muốn lấy lòng Liên Xô, trong khi một cuộc chiến tranh với Nhật có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
 
Lý do thứ ba là Tưởng đang vận động với Moscow để cho phép con trai ông, Tưởng Kinh Quốc, được trở về TQ. Tưởng Kinh Quốc qua Liên Xô du học khi Quốc dân đảng còn đang được bảo trợ bởi Liên Xô vào những năm đầu của thập niên 1920. Trong thời gian này Liên Xô đã gài rất nhiều gián điệp vào bộ máy hành chánh của TQ và Quốc dân đảng. Sau này khi Tưởng tuyên chiến với ĐCSTQ, nhiều gián điệp được lệnh nằm yên chờ lệnh. Nhiều kẻ leo lên tới những vị trí chóp bu trong chính quyền Tưởng, mà Tưởng không hề hay biết. Người dẫn Tưởng Kinh Quốc sang Liên Xô du học để bị giữ ở đó làm con tin là Thiệu Lực Từ, hiển nhiên là một con cờ của Liên Xô thế nhưng trong suốt 22 năm Tưởng cầm quyền Thiệu Lực Từ được Tưỏng giao nắm những vai trò quan trọng trong Quốc dân đảng cho tới ngày chiến thắng của ĐCSTQ. Bộ mặt thật của Shao vẫn được giữ kín ngay cả dưới chế độ CS, tới nay nhiều người vẫn cứ tưởng Shao chỉ là một cảm tình viên, mà không biết hắn chính là một trong những thành phần nồng cốt thành lập ĐCSTQ.
 
Tưởng Giới Thạch chỉ biết con mình đã bị giữ làm con tin qua vợ Tôn Dật tiên, bà Tống Khánh Linh. Bà là chị của Tống Mỹ Linh, vợ Tưởng Giới Thạch và cũng là một gián điệp của Liên Xô. Sự thật bà là gián điệp của Liên Xô được tiết lộ qua bức thư bà viết cho Vương Minh ngày 26 tháng 1 năm 1937: “Tôi phải báo cho đồng chí hay là những diễn biến hiện tại có thể gây nguy hiểm cho vai trò của tôi ở TQ trong những ngày sắp tới”. Ðây là một sự thật: Vợ của Chủ tịch Quốc dân đảng Tôn Dật tiên là cán bộ cộng sản.
 
 
Chương 13:
Tháng 12 năm 1934 đoàn quân di tản “Trường chinh” tới Quý Châu. Và đúng như Tưởng dự đoán, Mao đã nhanh chóng biến từ khách thành chủ nhà. Tưởng liền điều động quân chận các ngã đường khác mà để ngỏ hướng tiến về Tứ Xuyên. Thế nhưng thực tế đã không diễn ra như Tưởng mong muốn.
 
Trên đường đi tới Quý Châu Mao đã lôi kéo được hai người, Wang Jia-xiang và Lạc Phủ, vào vòng tay mình trong một âm mưu giành quyền lãnh đạo đảng. Cả ba đi chung với nhau, thông thường là nằm võng. Mao tiết lộ sau này: “Trong cuộc vạn lý trường chinh, tôi nằm trên võng. Vậy tôi làm gì? tôi đọc sách”. Tại cuộc họp ngày 15 – 17 tháng 1 năm 1935 để thảo luận tại sao hồng quân thất bại ở Thụy Kim, Bạc Cổ và Otto Braun (một cán bộ cộng sản người Ðức do Liên Xô gởi tới làm cố vấn) bị đổ hết mọi lỗi lầm. Cuộc họp đưa tới quyết nghị sau: Braun bị cách chức, Mao được vào ban bí thư (lúc đó gồm 7 người: Bạc Cổ, Chu Ân-Lai, Lạc Phủ, Trần Vân (Trần Thiệu Vũ), Hạng Anh, Vương Minh và Trương Quốc Ðào) và Bạc Cổ vẫn được tín nhiệm là nhân vật số 1 cuả đảng. Dù chỉ sau đó 3 tuần, cùng với Chu và Lạc Phủ, Mao thành công ép Bạc Cổ nhường ghế lãnh đạo đảng cho Lạc Phủ. Ðể lôi kéo sự hợp tác của Chu, Lạc Phủ (xúi bẩy bởi Mao) viết báo cáo cho Moscow với tựa đề như sau: “Phúc trình về thất bại quân sự của các đồng chí Bạc Cổ, Chu Ân-Lai và Otto Braun”. Sau khi Chu đồng ý hợp tác với Lạc Phủ và Mao, tên Chu được rút ra.
 
17 tháng 1 quyết định là tất cả sẽ đi tới Tứ Cuộc họp ngày 15 để bắt tay với Trương Quốc Ðào đang đóng quân ở phía bắc-Xuyên, Tứ Xuyên và để nhận viện trợ của Liên Xô vì Tứ Xuyên rất gần với Mông cổ (hiện đang bị Liên Xô chiếm đóng) và Tân cương. Thế nhưng Mao biết rõ là vị thế của Lạc Phủ và Mao trong đảng có thể bị nguy hiểm vì Trương Quốc Ðào từng làm Chủ tịch hội nghị đảng lần thứ nhất năm 1921, Trương Quốc Ðào còn là thành viên thường trực của Cộng sản Quốc tế đệ tam, và rất có uy tín với Stalin. Trương Quốc Ðào cũng không “hiền”, chính hắn đã chủ trì và đích thân tham dự nhiều cuộc thanh trừng tàn khốc.
 
Thế là thay vì tiến lên phía bắc bắt tay với Trương Quốc Ðào, Mao lại quay về nam tấn công quân đội Tưởng đang theo đuôi Mao. Ðây là một chuyện làm ngu ngốc, vì quân Tưởng không hề có ý định tấn công Mao. Dĩ nhiên thoạt đầu không ai chịu nghe ý kiến của Mao, nhưng Mao đã có sự dàn xếp sẵn với Chu và Lạc Phủ. Bốn ngàn quân Mao chết và bị thương trong trận này. Tàn quân hối hả làm phao chạy trốn sang bên kia sông Hồng hà, bỏ lại các quân cụ nặng. Trận đánh này gây ra một tổn thất lớn cho hồng quân, nhưng đã cho Mao một lý do chính đáng để không tiến về Tứ Xuyên: không còn sức đề kháng nếu gặp quân Tưởng chận đầu ở Tứ Xuyên. Sử sách Trung quốc viết là trong trận đánh này Mao đã kịp thời rút quân, cứu hồng quân khỏi bị thiệt hại nặng nề, mà không viết rằng chính Mao là kẻ đã chọn chiến trường.
 
Trong hai tháng liền sau đó, Tưởng liên tục bỏ bom sau lưng quân Mao để ép quân Mao tiến về Tứ Xuyên, thế nhưng mặc kệ mưa pháo, Mao vẫn cứ dẫn quân tiến về nam, và khi bị pháo nặng quá thì rút chạy về bắc, nhưng rồi sau đó lại quay vòng về nam. Hồng quân liên tục hứng chịu nhiều thiệt hại, cho mãi tới ngày 28 tháng 4 thì Mao mới đồng ý tiến về Tứ Xuyên, dưới áp lực của Lâm Bưu, Bành Ðức Hoài và Lạc Phủ (dù ông này đã bị Mao mua chuộc). Chính Lâm Bưu đã phải la lên: “Cứ tiếp tục như vầy thì toàn quân sẽ chết hết”.
 
Thế nhưng khi hồng quân tới Hiuli, một tỉnh nhỏ cực nam của Tứ Xuyên, Mao lại ra lệnh đóng quân và vì thế, phải hứng chiụ hai mặt trận: bị Tưởng thả bom sau lưng, và bị phải giao chiến với quân đội của lãnh chuá vùng này. Trước sự chống đối mạnh mẽ của Lâm Bưu và Bành, Mao cuối cùng phải nhượng bộ. Hồng quân lại tiếp tục bắc tiến và ngày 25 tháng 6 thì Mao gặp mặt Trương Quốc Ðào. Tổng cộng Mao đã dẫn quân đi vòng vòng ở Quý Châu 4 tháng, làm chết khoảng 30 ngàn quân, tức là hơn phân nửa số quân đi theo Mao từ Thụy Kim. Ðổi lại, Mao không những đã có chân trong bộ chính trị đảng mà còn có sự hậu thuẩn của 3 người trong bộ chính trị: Chu Ân-Lai, Lạc Phủ và Trần Vân.
 
Sách sử TQ sau naỳ còn ghi thêm là ngày 31 tháng 5 năm 1935 trước khi gặp được Trương Quốc Ðào, Mao có đụng một trận oai hùng với quân Tưởng khi băng cầu qua sông Ðại Ðộ. Những chứng nhân còn sống ở đây thuật lại là không có một cuộc đụng độ nào xảy ra lúc đó.
 
 
Chương 14:
Khi hai bên gặp mặt nhau, quân Mao còn có 10 ngàn người, tất cả đều rã rời. Tất cả vũ khí nặng đều mất hết. Vũ khí cá nhân chỉ là súng trường mà mỗi người chỉ còn chừng 5 viên đạn. Quân đội Trương Quốc Ðào có 80 ngàn, tất cả đều khoẻ mạnh, được huấn luyện và có trang bị vũ khí tự động. Trong tình hình đó thì Trương Quốc Ðào đương nhiên phải được giao cho chức vụ số một của đảng hoặc của quân đội. Thế nhưng với sự trợ giúp của Lạc Phủ, Chu và Bạc Cổ, Mao nhất định phản đối. Lúc đó Trần Vân đang trên đường đi qua Moscow báo cáo. Còn Bạc Cổ, vì không muốn bị kết án bất lực không điều khiển được Mao trong cuộc trường chinh, đã chấp nhận theo Mao. Mãi tới tháng 7 năm 1935 Mao mới chịu nhượng bộ cho Trương Quốc Ðào vị trí số 1 trong quân đội, còn Mao thì điều khiển đảng.
 
Tháng 8 năm đó ban lãnh đạo đảng đồng ý tiến về phía bắc cho gần với Liên Xô thêm, để dễ tiếp nhận quân viện. Ðịa điểm tới là 1 vùng cộng sản ở phía bắc Thiểm Tây. Theo kế hoạch, quân đội chia ra hai đoàn, một đoàn do Trương Quốc Ðào và Chu Ðức chỉ huy, đi về phía tây chiếm Aba rồi mới bắc tiến, đoàn kia, ít hơn, do Mao chỉ huy đi về phía đông chiếm Banyou rồi theo ngã đó đi về hướng bắc. Chín ngày sau, Mao đánh điện cho Trương Quốc Ðào lấy danh nghiã đảng, yêu cầu (và sau đó là ra lệnh) Trương Quốc Ðào phải quay lại mà đi theo đường Mao đã đi qua. Mục đích của Mao là: thứ nhất, Mao phải tới Liên Xô trước, và thứ hai, vì con đường đi tới Banyou phải trèo núi, vượt sông, vất vả hơn con đuờng đi Aba nhiều, nên quân đội Trương Quốc Ðào phải chịu chung số phận như quân đội Mao, mà nếu bị tồi tệ hơn thì lại càng tốt hơn. Quả nhiên, quân Trương Quốc Ðào không những bị thiếu lương (vì phải quay lại đi theo ngả Banyou) mà còn bị ăn bom của Tưởng (như đã nói ở trên, Tưởng đồng ý cho Mao con đường sống để đổi lại sự an toàn cho con trai mình, nhưng Tưởng cũng không muốn quân Mao tới nơi còn mạnh khoẻ, nên khi biết quân Mao đói khát và rách rưới như một lũ ăn mày thì Tưởng để yên cho qua, còn quân Trương Quốc Ðào mạnh khỏe hơn thì bị Tưởng cho ăn bom).
 
Ngày 18 tháng 10 năm 1935 quân Mao tới điểm hẹn trước Trương Quốc Ðào.
Cuộc trường chinh bắt đầu ở Thụy Kim với 80 ngàn người và kết thúc nơi đây gần một năm sau, khi quân đội của Mao còn lại không tới 4 ngàn người, tất cả đều đói khát, rách rưới và mệt lả, sau một đọan đường dài chừng 10 ngàn cây số.
 
 
Chương 15:
Sự có mặt của Mao tại đây đã kịp thời ngăn chặn một cuộc thanh trừng của Trung ương đảng đối với Liu Chih-tah, một lãnh tụ công sản điạ phương. Mao đã xuất hiện như một ân nhân cứu mạng của Liu Chih-tah, vì thế Chih-tah không chống đối gì khi Mao giành quyền làm chủ ở đây.
 
Tháng 2 năm 1936 Mao quyết định vượt sông Hoàng hà để qua Ngoại Mông nhận viện trợ của Liên Xô. Vùng này hiện do Liên Xô cai trị. Một cuộc chiến nhỏ xảy ra giữa quân Mao và Tưởng khi quân Mao đang vượt sông đã gây ra cái chết cho Liu Chih-tah. Ðiểm đáng nói là (1) Liu bị bắn chết bằng một viên đạn ngay đầu khi Liu đang ở hậu cứ quan sát trận đánh bằng ống nhòm, (2) khi Liu bị bắn có hai người bên cạnh, một là người bảo vệ và một là một sĩ quan của Mao. Sau khi Liu bị bắn thì người sĩ quan này sai người bảo vệ chạy đi kiếm bác sĩ, và khi bác sĩ tới thì Liu đã chết. Một sự kiện trùng hợp “ngẫu nhiên” nữa là cả hai sĩ quan thân tín của Liu đồng thời bị giết trong vòng một tháng sau.
 
 
Chương 16:
Ðể tạo điều kiện cho Mao được an toàn ở đây (Mao ở đây 10 năm), Liên Xô đã sắp xếp cho Mao liên lạc với viên tướng của Tưởng từng là lãnh chuá Mãn châu, hiện được Tưởng giao cai quản Thiểm Tây là Trương Học Lương. Trương đóng bản doanh ở Tây An. Cuộc tiếp xúc đầu tiên diễn ra ngày 20 tháng 1 năm 1936 giữa Trương và người đại diện của Mao. Trong cuộc tiếp xúc này, Trương được cho biết là ĐCSTQ và Liên Xô ủng hộ Trương lên thay Tưởng. Trương Học-Lương bày tỏ muốn sự ủng hộ của Liên Xô phải được cụ thể hơn. Thực tế đây chỉ là một cái bẫy của Mao vì Mao thì chỉ có một mục đích là chiếm trọn TQ cho Mao, còn Stalin thì đang lo sợ Nhật sẽ tấn công Liên Xô, nên muốn Nhật tấn công TQ trước, và sẽ bị sa lầy ở đó. Vì thế Stalin ủng hộ Tưởng ở vị trí quốc trưởng.
 
Trong khi đó Stalin vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Mao qua ngã Ngoại Mông. Tưởng cương quyết ngăn chận chuyện này, nên đích thân bay lên Tây An, tổng hành dinh của Trưong Học Lương. Nhận thấy đây là cơ hội cho mình lấy điểm với Mao và Stalin, Trương nẩy ra ý định bắt cóc Tưởng. Khi được hỏi ý kiến Mao hết sức hả hê, nhưng Mao biết Stalin sẽ hết sức chống đối nên Mao quyết định giấu không cho Stalin biết, trong khi vẫn nói với Trương là kế hoạch đã được Stalin duyệt và chấp thuận.
 
Tưởng tới Tây An ngày 4 tháng 12. Ngoại trừ vài chục sĩ quan phụ tá và mấy người hầu cận, Tưởng vẫn giao việc gìn giữ an ninh cho Trương Học Lương. Sáng sớm ngày 12 tháng 12, Tưởng vừa tập thể dục xong, thì nghe súng nổ. Tưởng thoát ra ngã sau nhưng bị bắt lại sau mấy tiếng đồng hồ trốn trong một hang đá. Khi đó Tưởng còn mặc quần áo ngủ và chưa kịp xỏ giầy.
 
 
Chương 17:
Khi nhận được tin Tưởng đã bị bắt cóc, Mao lăn bò trên mặt đất mà cười, trong khi Stalin giận dữ điên cuồng. Stalin gửi Mao một điện tín lên án vụ bắt cóc. Làm như không nhận được bức điện, Mao vừa dụ dỗ vừa ép buộc Trương giết Tưởng cho nhanh. Thế nhưng khi khám phá là mình không được ban phép lành bởi Stalin, Trương Học Lương tới gặp Tưởng lúc đó đang là con tin của mình mà khóc lóc và xác nhận là mình làm chuyện tầm bậy, và hứa sẽ thả Tưởng nếu Tuởng can thiệp để chính phủ Nam kinh đừng dẫn quân tới đánh. Trương Học Lương cũng đề nghị là để cho Tưởng bắt mình lại bằng cách theo Tưởng đi Nam kinh. Tưởng nhận lời.
 
Trong khi đó Moscow vận động để Tưởng gặp Chu Ân Lai, lúc đó đang làm sứ giả cho Mao ở tư dinh của Trương Học Lương. Tưởng không chiụ, vì không thừa nhận đảng cướp cộng sản là một thế lực chính trị. Nhưng cuối cùng ông chiụ gặp Chu khi Stalin đưa ra lá bài tẩy: Liên Xô đồng ý trao trả Tưởng Kinh Quốc lại cho ông.
 
Chiều 25 tháng 12 Tưởng bay về Nam kinh cùng với Trương Học-Lương. Dân chúng đổ ra đầy đường phố Nam kinh hoan nghênh ông trở về như là một kẻ chiến thắng. Nhưng Tưởng biết mình đã thua khi thừa nhận đảng cướp cộng sản là một đảng đối lập chính trị.
 
Trương Học Lương sau đó được cho qua Hawaii tỵ nạn, và ông này mất ở đây năm 2001, hưởng thọ 100 tuổi.
 
 
Chương 18:
Cuộc thương lượng giữa Mao và Tưởng đem đến những kết quả ngoài dự đoán của Mao: Mao được giao cho quản lý một diện tích rộng 130 ngàn cây số vuông, với dân số 2 triệu và thủ đô là Diên An. Mao còn được chính phủ Nam kinh trang bị vũ khí và trả lương cho 46 ngàn quân (Tưởng chỉ chấp nhận quân số này thôi). Sự hào phóng này cuối cùng đạt được mục tiêu: Tưởng Kinh Quốc được trao trả ngày 19 tháng 4 năm 1937.
 
Không biết vì vô tình hay cố ý mà vào tháng 2 năm 1937, Tưởng Giới Thạch phong một gián điệp Liên Xô, Thiệu Lực Từ, làm bộ trưởng tuyên truyền. Ông này đã đánh bóng Mao Trạch Ðông thành một anh hùng của Trung quốc, và xoá bỏ hết tội ác của Mao. Một ký giả người Mỹ, Edgar Snow, cũng bị Mao cho vào tròng mà không biết, cứ phom phom viết trên Saturday Evening Post và New York Herald Tribune những bài báo tự cho là “tối mật”, thực ra tòan là biạ đặt theo lời kể của chính Mao, về cuộc đời đầy huyền thoại của Mao.
 
Ðối với Mao, một người vốn sinh ra từ một vùng quê nghèo khó, Diên An đã đem đến cho ông một đời sống thật sự trưởng giả. Mao đã nhanh chóng thích nghi với đời sống mới, ông học nhảy, ham đi coi hát, và say mê đàn bà. Một trong số những người đàn bà hớp được hồn Mao là Giang Thanh mà sau này ông cưới làm vợ thứ tư.
 
Giang Thanh là con gái của vợ hờ của một chủ khách sạn. Bà bỏ nhà ra đi gia nhập đòan hát từ năm 14 tuổi vì không chiụ nổi phải chứng kiến cảnh đấm đá nhau hoài của cha mẹ. Trước khi gặp Mao, Giang Thanh đã có bốn đời chồng, không kể những kẻ qua đường. Người ta còn đồn là có một lần bị bắt vì tình nghi là cộng sản, bà đã phải ngủ với lính gác để được thả. Tin Mao muốn cưới Giang Thanh đã tạo ra một làn sóng chống đối, cả Tổng bí thư đảng Lạc Phủ cũng viết thư ngăn cản, nhưng Mao bất cần. Một đám cưới rình rang được tổ chức mà Lạc Phủ không nhận được thiệp mời.
 
 
Chương 19:
Ngày 7 tháng 7 năm 1937 một cuộc chạm súng giữa hai toán quân TQ và Nhật xảy ra tại cầu Marco Polo. Ðến cuối tháng đó, hai tỉnh lớn của TQ bị chiếm: Bắc kinh và Thiên tân. Dẫu thế, TQ và Nhật vẫn chưa chính thức tuyên chiến. Tưởng Giới Thạch cần thêm thời gian chuẩn bị. Nhưng Stalin muốn cuộc chiến TQ-Nhật phải được xẩy ra càng sớm càng tốt, để buộc chân Nhật.
 
Vì thế một gián điệp của Nga được ủy thác. Người gián điệp này là một tướng của Tưởng, tên Trương Trị Trung, một quân đoàn trưởng của quân đoàn Thượng hải sĩ quan và-Nam kinh. Ngày 9 tháng 8, Trương Trị Trung bắn chết 1 1 hạ sĩ quan Nhật, và đổ thừa là 2 người này giết chết 1 lính TQ. Sau đó ông xin lệnh tấn công, nhưng Tưởng vẫn từ chối. Ngày 14, Trương Trị Trung cho thả bom tàu Izumo của Nhật và ban lệnh tổng tấn công. Nhưng một lần nữa, Tưởng cản ngăn lại. Ngày 15, Trương Trị Trung ra tuyên cáo báo chí là Thượng hải bị Nhật tấn công và tạo lên một phong trào chống Nhật khắp nước. Tưởng lầm là Thượng hải đã bị tấn công, Tưởng Giới Thạch ban lệnh tổng tấn công. Ngày 18, khi biết mình bị gạt, Tưởng cách chức Trương Trị Trung và ra lệnh ngưng chiến. Thế nhưng cuộc chiến đã lan rộng tới mức không thể dừng được.
 
Khi cuộc chiến Trung-Nhật bùng nổ, Mao là người thủ lợi nhiều nhất: Ðể cùng đánh Nhật, Tưởng Giới Thạch phải đồng ý cho Mao được quyền tự quản quân đội. Ðảng CS không còn bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, đảng viên đang bị giam giữ được thả ra, và quan trọng hơn nữa, DCS được có trụ sở khắp nước, được công khai vận động tuyên truyền, và được tuyển quân. Sau 8 năm chiến tranh Trung Nhật, TQ tổn thất cỡ 20 triệu người, chính phủ dân quốc và Quốc dân đảng bị suy yếu, trong khi quân đội cộng sản tăng vọt lên 1.3 triệu, gấp 20 lần lớn hơn trước chiến tranh. Căn cứ Jinchaji của DCS chỉ cách Bắc kinh có 80 km, với hơn 25 triệu dân.
 
Sau khi thành công châm ngòi nổ cuộc chiến, Stalin ra lệnh cho ĐCSTQ phải hợp tác với Quốc dân đảng để đánh Nhật, “không vì một lý do gì mà từ chối”.
 
Khi đó hồng quân có 46 ngàn quân đóng ở Diên An, được lập thành quân đòan 8 dưới quyền điều khiển của Chu Ðức và Bành Ðức Hoài, và 10 ngàn quân đóng ở đông bộ đồng bằng sông Dương tử, được lập thành quân đoàn 4 do Hạng Anh điều khiển. Các cấp chỉ huy và binh sĩ hồng quân đều sẵn sàng chiến đấu chống Nhật. Nhưng Mao thì không. Ông ta ban lệnh cho các cấp chỉ huy phải “mở rộng căn cứ điạ Cộng sản chứ không phải chiến đấu với Nhật”. Chiến lược này gặp sức chống đối mãnh liệt từ Trung ương đảng. Tháng 12 năm 1937 tại cuộc hội nghị của bộ chính trị ĐCSTQ, dù có sự chống đối của Mao, bộ chính trị, đứng đầu là Vương Minh, có sự ủng hộ của Hạng Anh, Trương Quốc Ðào, Bạc Cổ và Chu Ân Lai chủ trương đánh Nhật, đã thông qua một nghị quyết là hồng quân phải nhận lệnh từ bộ chỉ huy quân sự quốc gia (tức là chấp nhận sự lãnh đạo của Tưởng để đánh Nhật). Vương Minh cũng được sự ủng hộ bởi đa số để đọc bản báo cáo tại đại hội đảng được dự trù tổ chức vào năm sau (người đọc báo cáo thường là người số 1 trong đảng).
 
 
Chương 20:
Trường chinh (1934-1935)
Người cương quyết lật đổ Mao nhất là Trương Quốc Ðào. Không hận thù sao được khi chỉ trong mấy tháng Mao tiêu diệt toàn bộ lực lượng 80 ngàn quân của Trương. Lần đầu tiên ông gặp Mao tháng 6 năm 1935 ông có 80 ngàn quân dưới tay, vậy mà khi cuộc Trường Chinh kết thúc ông chỉ còn phân nửa; Qua năm sau, vào tháng 10 năm 1936 Mao chỉ định cho quân đội Trương mở đường tới Ngoại Mông để nhận vũ khí viện trợ của Liên Xô, kết quả 20 ngàn quân của Trương bị đánh tan. Liên Xô bèn đề nghị chuyển giao vũ khí ở Tín Giang, và Mao sai Trương dẫn 20 ngàn đám tàn quân còn lại mở đường. Ðây là con đường tử thần, dài 1500 km, xuyên qua sa mạc và một lãnh điạ kiểm soát bởi một đạo quân hồi giáo, rất cuồng tín và rất hận thù cộng sản. Kết quả 20 ngàn quân chỉ còn lại 400 người tới được Tín Giang.
 
Thế nhưng Trương Quốc Ðào không thuyết phục được Vương Minh hất Mao ra khỏi bộ chính trị. Lý do là khi đó Vương Minh hoàn toàn tự tin mình đã nắm được vị trí số 1 của ĐCSTQ, ông không thấy cần thiết để làm rạn nứt tính thống nhất của đảng. Trương quyết định rời bỏ hàng ngũ CS mà sang đầu thú Quốc dân đảng. Tuy thế trong suốt phần đời còn lại ông đã không tiết lộ một bí mật gì của ĐCSTQ cho Quốc dân đảng.
 
Trở lại chuyện của Mao. Mao có một con cờ rất lợi hại, đó là đặc sứ của ĐCSTQ ở Liên Xô từ tháng 6 năm 1936, thay thế Vương Minh. Người này là Vương Gia Tường. Vương Gia Tường trở về mang theo một mệnh lệnh của Cộng sản Quốc tế đệ tam: ĐCSTQ phải được thống nhất dưới sự lãnh đạo của Mao. Vương Minh không (dám) chống đối.
 
Ngày 29 tháng 9 ĐCSTQ mở đại hội, Mao kéo dài cuộc đại hội tới 2 tháng, không cho các tướng hồng quân trở về căn cứ tham gia đánh Nhật. Ngày 28 tháng 10 sau khi Vương Minh phải đi Trùng Khánh tham dự Nghị hội Quốc gia, Mao lôi kéo được sự ủng hộ của Lưu thiếu Kỳ, Bành Ðức Hoài và Chu Ðức. Mao ra lệnh cho các tướng bắt đầu từ bây giờ hồng quân phải sẵn sàng tấn công bất cứ ai cản đường giành chính quyền của DCS. Ðây là một bước ngoặc lịch sử: ĐCSTQ được lệnh tấn công vào quân đội chính phủ dân quốc.
 
Thế nhưng khi báo cáo với Liên Xô, Mao luôn luôn nói là ĐCSTQ chỉ tự vệ. Các sách giáo khoa TQ bây giờ cũng viết y như thế.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét