Theo sử sách, dưới thời các chúa Nguyễn, thủy binh là một lực lượng rất hùng hậu và đã từng lập nhiều chiến công hiển hách. Quãng sông Hương chảy qua Kim Long đã từng diễn ra những cuộc thao diễn thủy binh dưới thời chúa Thượng. Sử còn ghi tháng 2 năm 1645 chúa Thượng đích thân chỉ huy 20 chiến thuyền sơn son thếp vàng với trên hai nghìn quan quân thao diễn trên sông suốt ba ngày đêm để 50 sĩ quan hải quân Tây Ban Nha và bốn nữ tu sĩ Thiên chúa giáo, cùng binh lính tháp tùng (bị đắm tàu ở biển Quảng Nam, được chúa Thượng cứu) hiểu tường tận vì sao hạm đội Hà Lan hùng mạnh đã bị nhà chúa đánh tan tác trên biển Đông năm trước, 1644.
Trước khi xem Lễ hội tái hiện cuộc thao diễn thủy binh thời các chúa Nguyễn, mời mọi người tim hiểu thêm về thủy quân nhà Nguyễn nhé. (*)
Thao diễn thủy binh - Thuyền Chúa
Khởi nghiệp từ thủy binh
Hầu hết các triều đại Việt Nam thường khởi nghiệp bằng những chiến công diệt ngoại xâm hay thống nhất đất nước. Nhưng sự nghiệp dòng họ Nguyễn lại bắt đầu từ một xuất phát điểm rất khác biệt gắn liền với ưu thế về thủy quân.
Khi Trịnh Kiểm âm mưu chiếm gọn binh quyền, giết người anh của Ông là Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng tìm cách thoát hiểm và trả thù họ Trịnh. Sau khi sai người thỉnh ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, được khuyên một câu: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dải núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời). Nguyễn Hoàng hiểu ra, nhờ chị gái là Ngọc Bảo nói với Trịnh Kiểm cho Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa với lý do: "Đất ấy hiểm trở, xa xôi, khí hậu khắc nghiệt, lại là mặt Nam dễ bị tập kích, quân Mạc có thể dùng thuyền vượt biển đánh sau lưng bất cứ lúc nào". Trịnh Kiểm buộc lòng phải thuận theo dâng biểu tâu vua trao quyền cho Nguyễn Hoàng làm trấn thủ Thuận Hóa, toàn quyền xử lý mọi việc vì biết chỉ có họ Nguyễn là giỏi thủy chiến, đủ sức phòng thủ hải biên an toàn cho phía Nam. Năm 1558, Nguyễn Hoàng đem người nhà và nhóm quân bản bộ, đa phần là người nghĩa dũng Tống Sơn Thanh Hóa gồm mấy ngàn người, hầu hết có ít nhiều hiểu biết về thủy quân vào Nam, đã mở đầu ra một sự nghiệp rất dài 400 năm (cho đến 1954).
Đi từ một nhóm binh lính dân đinh năm, bảy ngàn người; bám chặt vào duyên hải Miền Trung, chúa Nguyễn đã không bị nghiền nát bởi hàng chục vạn binh sĩ của chúa Trịnh tấn công liên tục mọi mặt gần một thế kỷ, mà trái lại đã tiến những bước thật dài chưa từng có trong lịch sử nhờ vào biển Đông. Biển Đông biến thành hành lang hữu hiệu đưa đoàn thuyền Nam tiến. Thủy quân thường đi trước, làm nơi nương tựa cho quân dân lập nghiệp trên bờ phối hợp cùng di chuyển. Làng mạc định cư cứ thế chuyển dần về Nam, chinh phục toàn bộ miền Trung và Nam Bộ. Các Chúa Nguyễn đã đưa đất nước vươn mình đến tận vịnh Thái Lan và tỏa ảnh hưởng văn hoá trên toàn bán đảo Hoa Ấn.
Những trận thủy chiến đầu tiên
Theo sử sách kể lại cũng như theo Nguyễn Phúc tộc thế phả thì năm 1644 người Hòa lan theo yêu cầu của Chúa Trịnh mang 3 chiếc tàu chiến bằng đồng rất lớn, trang bị vũ khí tối tân vào của biển Eo (cửa Thuận An - Huế) nhưng có lẽ do của biển cạn nên không vào được mà đổi hướng tiến vào cửa Hàn (Đà Nẵng) nổ súng uy hiếp quân Nguyễn. Đây là lần đầu tiên đối đầu với tàu chiến ngoại quốc nên Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan triệu tập triều thần để bàn định. Chúa Thượng gọi một người Hòa Lan đang buôn bán ở đây để hỏi, tên này khoe khoang lực lượng hải quân Hòa Lan “bách chiến bách thắng”, hàm ý đe dọa. Chúa Thượng tự ái, bị tổn thương nên dứt khoát tấn công, ra lệnh thế tử Dũng Lê Hầu Nguyễn Phúc Tần ( sau này kế nghiệp cha trở thành Chúa Hiền ) chỉnh đốn thủy quân ra cửa Hàn đón đánh, còn mình đích thân trợ chiến tại của Thuận An. Dũng Lê Hầu điều động 200 chiến thuyền, bốn phía vây hãm 3 chiếc chiến hạm của giặc. Mặc dù đại bác của giặc bắn xối xả nhưng thuyền của nhà Nguyễn nhẹ, cơ động nên vẫn bám sát chiếm hạm của giặc tấn công. Trước sự chiến dấu gan dạ anh dũng, một chiến hạm của giặc không chịu được phải luồn lách chạy thoát ra biển, chiếc thứ hai va vào đá ngầm chìm nghỉm. Chiếc thứ ba ngoan cố chống trả. Dũng Lê Hầu cho quân sĩ len lỏi lên thuyền giặc đánh gãy bánh lái, cột buồm, và tiến đánh xáp lá cà dồn giặc vào thế tuyệt vọng. Biết khó thoát nên tên thuyền trưởng bèn ra lệnh đốt kho thuốc súng trên tàu làm chiến hạm vỡ tan và bốc cháy thiêu rụi toàn bộ binh đội của chúng ở tên tàu. Đây là trận thủy chiến đầu tiên với chiến hạm nước ngoài và là chiến công oanh liệt nhất của thủy quân chúa Nguyễn.
Cuối thế kỷ 16, khi hoành hành cướp phá bờ biển Trung Quốc, Hải tặc Nhật Bản cũng tràn qua cả nước ta. Chúng kéo nhau đến Cửa Việt vào năm 1585. Hoàng Tử Nguyễn Phước Nguyên, con thứ sáu của Chúa Nguyễn Hoàng đã điều binh đánh chìm hai chiếc tầu Ngọa khấu (giặc lùn Kenki). Đây là sử liệu đầu tiên đề cập đến mối liên hệ giữa Nhật Bản và ĐàngTrong. Năm 1599, một chiếc tàu Kenki khác khi hải hành bị mắc cạn tại Cửa biển Thuận An cũng bị một tướng của Chúa Nguyễn Hoàng chận bắt được. Đầy đủ trang cụ bị tịch thu, cả thủy thủ đoàn tàu cướp biển bị bắt. Hai năm sau, 1601, Chúa Nguyễn Hoàng gửi bức thư ngoại giao chính thức đầu tiên của nước ta đến Tướng Quân Shogun Tokugawa. Hai xứ Việt Nhật bắt đầu lập giao thương đường biển. Thương điếm vùng Hội An được thành lập với nhiều thương nhân ngoại quốc và đặc biệt đông nhất là người Nhật Bản, bắt đầu phát triển mạnh mẽ.
Dù không còn phải dụng binh nhiều sau năm 1802, Thủy quân Nhà Nguyễn vẫn còn rất mạnh. Nước Anh đưa thư xin ngoại giao thông thương ba bốn lần đều bị khước từ. Năm 1803 khi một Hạm đội của họ gồm 7 chiếc tàu tiến từ Biển Đông theo đường sông vào Hà Nội, bị quân ta đốt cháy. Không thấy chính phủ Anh Cát Lợi phản đối. Có lẽ vì Anh Quốc biết rằng mình có lỗi khi xâm nhập hải phận và lãnh thổ Việt Nam một cách bất hợp pháp, nên mọi việc cũng êm. Tài liệu hiếm này được Nhà Quân Sử Phạm Văn Sơn ghi lại trong Việt Sử Toàn Thư, xuất bản năm 1960, trang 591.
Truyền thống thủy chiến được con cháu họ Nguyễn chuyên cần phát triển và nuôi dưỡng suốt một chiều dài lịch sử gần 350 năm, kéo theo con đường Nam Tiến từ Thanh Hóa đến tận Phú Quốc Hà Tiên.
Trận Thủy Chiến quyết định : Đệ nhất Vũ công
Trận Thủy Chiến quyết định mà Sử Nhà Nguyễn ghi nhận là Đệ nhất vũ công đã diễn ra tại Thị Nại. Khi đó tướng nhà Nguyễn là Võ Tánh bị vây tại thành Qui Nhơn khá lâu. Tháng giêng năm Canh Thân 1800, Tướng Tây Sơn là Võ Văn Dũng đưa hai chiếc Định quốc Đại hiệu thuyền, chở từ 50 đến 60 khẩu đại bác chắn ngay cửa Thị Nại. Dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ hơn với 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa vào Đầm Nước Mặn. Triền núi, Dũng cho đặt đại bác yểm trợ đoàn tàu và trên bộ, còn có hơn 50 voi trận và quân lính. Tháng giêng năm Tân Dậu 1801, Ánh sai các tướng Nguyễn Văn Trương và Tống Phúc Lương đánh đồn thủy Tây Sơn, Lê Văn Duyệt và Võ Di Nguy đem chiến thuyền đánh thẳng vào cửa Thi Nại. Võ Di Nguy đã bị trúng đạn chết, nhưng Lê Văn Duyệt vẫn ra sức xông đột, đốt được cả tàu và thuyền của Tây Sơn, thủy quân Tây Sơn đại bại. Vì Tây Sơn đã dồn toàn thể thủy quân để chiến đấu nên một khi bị tiêu diệt, Tây Sơn không còn uy thế nào đáng kể trên mặt biển nữa. Quân nhà Nguyễn tiến dần dần ra Phú Xuân, rồi thẳng ra chiếm Bắc Hà rất nhanh chóng. Biển Đông đã Nối liền Gia Định và Thăng Long thành Đế hiệu Gia Long.
Bằng cách ngự trị biển cả, từ một giấc mộng nhỏ bé của Nguyễn Hoàng là mong mỏi được một phần đất tự trị "vạn đại dung thân", thì dòng họ Nguyễn đã đi đến một thành tích vĩ đại là thống nhất quốc gia, đưa đất nước qua cảnh nhiễu nhương chia ba, xẻ bảy. Năm 1802, hai miền thủ phủ Gia Định và Thăng Long đã nối liền. Nguyễn Ánh lên ngôi với đế hiệu Gia Long.
Hoàng Đế Nguyễn Ánh, một nhà chiến lược hải chiến
Hoàng đế Nguyễn Ánh cũng là nhà chiến lược hải chiến tài ba và rất có thể là vị tướng lãnh Việt Nam đầu tiên sử dụng hải pháo để mở đường tiến quân, phá hủy mục tiêu, đồng thời dùng thủy quân xung phong, giúp cho bộ binh chiếm đóng đồn địch. Những hoạt động quân sự này chính là bước đi tiền thân của các Hải Đoàn Xung Phong sau này.
Với thủy chiến, Nguyễn Ánh và các tướng của ông thường lý luận và tin tưởng rằng: "Thủy chiến là sở trường của ta". Thủy binh bao giờ cũng tiến nhanh và là mũi nhọn phóng sâu vào đất địch trước bộ binh. Nhận biết thủy quân là quan trọng, giá tiền thưởng khi bắt lính đào ngũ có sự cách biệt rõ rệt: quân nào bắt được lính bộ thì thưởng 30 quan, còn được thủy binh thì được hưởng tới 40 quan.
Vào đầu thập niên 1800, Thủy binh chuyên nghiệp của Nguyễn Ánh gồm là 26.800 người trong một quân lực 139.800. (Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam, Tạ Chí Đại Trường, trang 230).
Một số hình ảnh đêm tái hiện cuộc thao diễn thủy binh thời các chúa Nguyễn :
Tế lễ
Thao diễn trên bờ
Thao diễn dưới nước
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét