30/7/11

Thư kiến nghị

Sắp đại hội của băng đảng, nên facebook không vào được, lại quay về đây treo cái khẩu hiệu ủng hộ đại hội băng đảng.
“Nếu Đảng làm thay, quyết thay thì Nhà nước và dân sẽ trở thành hình thức, hữu danh vô thực, người ta sẽ có cảm giác Đảng là vua. Không phải là một ông vua như thời phong kiến mà là vua tập thể thời CH XHCN”-câu nói của cựu Chủ tịch QH Nguyễn Văn An.
Nghe câu này xong, muốn chửi tục một câu quá.
Thư kiến nghị
Chính trị – xã hội
Ngày 15 tháng 7 năm 2010
Kính gửi:
- Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
- Bộ Chính trị
- Uỷ ban kiểm tra Đảng Trung ương
Đồng kính gửi:
- Đại Tướng Võ Nguyên Giáp
- Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh
Thưa các đồng chí
Chúng tôi, những cựu chiến binh đã cao tuổi đời và tuổi Đảng ký tên dưới đây, buộc phải gửi thư kiến nghị này tới các đồng chí về 2 vụ việc T4 – Tổng Cục II và Tổng Cục II – Nguyễn Chí Vịnh.
Hơn 10 năm qua, chúng tôi đã theo dõi được diễn biến 2 vụ việc trên, nhờ được đọc, biết tới nhiều lá thư của các cựu chiến binh, lão thành cách mạng, tướng lĩnh và sĩ quan cao cấp của quân đội, đặc biệt là những lá thư tâm huyết đầy trách nhiệm của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, Người Anh cả của chúng tôi đã gửi lên các đồng chí lãnh đạo Đảng về 2 vụ việc trên.
Như lá thư tháng 1/2004 của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp có đoạn đã chỉ rõ: “ …Điển hình là vụ Tổng Cục II – Bộ Quốc Phòng đã có những hành động phá hoại Đảng nghiêm trọng có hệ thống , một cách có tổ chức kéo dài hàng chục năm …” …Nghiêm trọng hơn nữa là vụ T4 mà Bộ Chính trị Khóa VIII đã kết luận là “Vụ án chính trị siêu nghiêm trọng …”.
Những lá thư tiếp theo của Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh gửi các cấp lãnh đạo Đảng tháng 6 – 7/2004 đã đưa ra nhiều chứng cứ về hoạt động tội lỗi của Tổng Cục II.
Vụ việc tày trời này chưa được làm rõ và xử lý thì qua thư Đại Tướng Võ Nguyên Giáp gửi lãnh đạo Đảng ngày 10/6/2009, chúng tôi lại được thông tin về những diễn biến ngày càng xấu đi trong hoạt động của Tổng Cục II dưới bàn tay của Nguyễn Chí Vịnh. Trong thư này, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp viết: “…Tôi đã nhận được thư của đồng chí Trung tá Vũ Minh Trí, một cán bộ, một đảng viên hiện đang công tác tại Tổng Cục II tố cáo Nguyễn Chí Vịnh đã lũng đoạn, phá hoại Tổng Cục II toàn diện …”. Đồng chí ấy cho rằng: “ Thực trạng Tổng Cục II cho thấy quân đội ta, Đảng ta, Nhà nước ta đang gặp phải hiểm họa vô cùng to lớn ngay từ bên trong, ngay từ bên trên …”. Cũng theo các lá thư trên, ngoài tội kể trên, cá nhân Nguyễn Chí Vịnh vừa qua được tiếp tay đã dấn sâu vào các tội lỗi khác: vừa mua chuộc một số cấp trên trong lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội vừa lợi dụng chức quyền đưa tay sai thân tín lên nắm giữ các vị trí chủ chốt trong Tổng Cục; nhân danh tính đặc thù của nghiệp vụ, lộng quyền để vượt niên hạn, xin ngân sách tối mật lớn với quyền hạn chi tiêu đặc biệt không một cơ quan nào có quyền kiểm soát; lập quỹ riêng, dùng tiền thao túng các mối quan hệ; tham nhũng cực lớn về tiền bạc, đất đai, nhà cửa trong nước và cả ở bên Lào …vv…
Vậy mà chúng tôi không thể hiểu nổi:
- Vụ T4 “Vụ án chính trị siêu nghiêm trọng.” đã cố tình bị kéo dài, không bàn giao, không xử lý qua 2 kỳ Đại Hội rồi cuối cùng đã được Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thong báo cho Trung ương là “ khoanh lại, không bàn nữa.”???.
- Cá nhân Nguyên Chí Vịnh vẫn được thăng quân hàm Trung tướng, bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng???. Còn Vũ Minh Trí, người đã dũng cảm vạch tội Nguyễn Chí Vịnh thì lại bị tước quân hàm sĩ quan, khai trừ Đảng. Chúng tôi cho rằng, trong lịch sử vẻ vang của Đảng ta, Quân đội ta, xưa nay chưa có thời điểm nào lại rối ren, phức tạp, lẫn lộn phải trái, đúng sai, trắng đen như hiện nay. Bao che dung túng, đặt Nguyễn Chí Vịnh ở cấp quân hàm và chức vụ như hiện nay là một sự sỉ nhục lớn; một sự xúc phạm lớn đến danh dự và uy tín của các thế hệ tướng lĩnh, sĩ quan và chiến sĩ bộ đội Cụ Hồ chúng tôi.
Đại Hội Đảng khóa XI đã đến gần ngày khai mạc, không giải quyết sớm cái ung nhọt này, chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thanh danh và uy tín của Đảng.
Vì vậy, thưa Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X!
Tiếp theo những lá thư kiến nghị của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, của các cựu chiến binh lão thành cách mạng, các tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp đã gửi lãnh đạo Đảng, trong tâm trạng vô cùng bức xúc, vô cùng lo lắng chúng tôi khẩn thiết kiến nghị, cũng là khẩn thiết đòi hỏi, yêu cầu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X nhanh chóng có biện pháp đặc biệt để xem xét có kết luận chính thức và dứt điểm, nghiêm minh các vụ việc trên, khen thưởng người có công, trừng trị kẻ có tội, bất kể chúng là ai, quyết không được để lại bàn giao cho Đại Hội XI.
Đặc biệt với Nguyễn Chí Vịnh, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với kiến nghị của các cựu chiến binh, Tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp, lão thành cách mạng là đề xuất trong lá thư gửi các đồng chí ngày 10/6/2010 “Trước mắt đình chỉ công tác, không để làm Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng … không được cơ cấu vào đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quân, toàn quốc và vào danh sách bầu cử Ban chấp hành Trung ương Khòa XI.”.
Nhiều anh em chúng tôi xin được nói thẳng: Để việc này bị bưng bít, bao che, dung túng, cố tình kéo dài, không dứt điểm, trước hết là trách nhiệm của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương và đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh. Mong các đồng chí xem xét!
Xin chân thành gửi tới các đồng chí lời chào quyết thắng!
Danh sách những người ký tên:
1- Trần Chất: Đại tá, 84 tuổi đời, 63 tuổi Đảng – Cán bộ tiền khởi nghĩa.
2- Phạm Xuân Phương: Đại tá cựu chiến binh, 81 tuổi Cán bộ tiền khởi nghĩa, 63 tuổi Đảng.
3- Nguyễn Khắc Lịch: Đại tá, cán bộ hậu cần Quân đoàn I, 81 tuổi đời, 46 tuổi quân, 63 tuổi Đảng, cán bộ tiền khởi nghĩa.
4- Đoàn Quang Thìn: Nguyên Phó Viện trưởng VKSND tối cao, kiêm Viện trưởng VKSQS Trung ương, nguyên Cục trưởng Cục Cán bộ Tổng cục chính trị QĐNDVN – Lão thành cách mạng 95 tuổi đời, 70 tuổi Đảng.
5- Nguyễn Ngọc Cúc (Trần Ngọc): 83 tuổi đời, 62 năm tuổi Đảng, Cán bộ Tổng cục Hậu cần.
6- Lê Duy Mật: Thiếu tướng Tư lệnh phó/Tham mưu trưởng Quân khu II – Bộ Quốc phòng, Cán bộ Tiền khởi nghĩa, 82 tuổi đời, 60 tuổi Đảng.
7- Vương Chất: Đại tá, Trưởng phòng TCCT, cán bộ tiền khởi nghĩa 80 tuổi đời, 60 tuổi Đảng.
8- Thái xuân Nhâm: Cựu chiến sĩ Chi đội Đôi Cung – Nghệ An, 83 tuổi đời, 60 tuổi Đảng.
9- Nguyễn xuân Nguyên: Đại tá, nguyên cán bộ công tác nhiều năm ở TCCT.
10– Thái xuân Nhân: Nguyên Đại tá cựu chiến binh, Phó Chủ nhiệm khoa CTD – CCT – Học viện Chính trị.
11– Phan Huy Thiệp: Đại tá, 85 tuổi đời, 65 tuổi Đảng, nguyên Trưởng phòng nghiên cứu Lịch sử Quân sự – Bộ Quốc phòng.
12– Nguyễn Đình Sắc: Đại tá, cựu chiến binh, Cán bộ Tổng cục Hậu cần 78 tuổi đời, 52 tuổi Đảng.
13– Nguyễn Phối: Đại tá, nguyên cán bộ TCCT, 83 tuổi đời, 59 tuổi Đảng.
__________________________________________________________________________
TS. Nguyễn Thanh Giang: “Con giun xéo mãi cũng quằn huống chi người ta!”
LTS: Công an Việt Nam ngày càng lộng hành khi tự tiện bắt người dân vào đồn rồi đánh chết họ một cách vô cớ. Vụ mới nhất xảy ra tại Bắc Giang đã làm dân chúng phẫn nộ kéo hàng ngàn người tới trước cửa UBND tỉnh Bắc Giang ngày Chủ Nhật 25/7/2010 hậu thuẫn cho gia đình nạn nhân đòi công lý và cuối cùng công an Bắc Giang phải công bố tên tuổi của kẻ sát nhân. Lữ Tống phỏng vấn Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, người lên tiếng về những bất công xã hội và đứng ra đấu tranh vận động tự do dân chủ trong nhiều năm qua. Ông bị công an nhiều lần mời làm việc và dùng mọi cách để sách nhiễu cũng như bao vây kinh tế.
***
Lữ Tống: Thưa ông, từ đầu năm đến nay, công an Việt Nam đã tra tấn và làm ít nhất 5 người tử vong, bên cạnh đó công an còn bắn chết hai người tại cuộc biểu tình ở Thanh Hóa. Xin TS cho biết tại sao càng ngày công an càng tỏ ra hung bạo đối với người dân như vậy thưa ông?
TS Nguyễn Thanh Giang: Đây là việc hết sức phẫn nộ. Người ta vẫn cứ nói rằng đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng do dân, vì dân và luôn luôn bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Đảng này là đảng tiền phong của giai cấp công nhân, đã giải phóng dân tộc để bảo vệ quyền lợi cho người dân. Bây giờ cái lực lượng ấy quay ra bảo vệ chế độ, bảo vệ chuyên chính vô sản và cuối cùng quay lại đàn áp nhân dân. Đàn áp bằng nhiều thủ đoạn. Từ thô bạo trắng trợn đến những thủ đoạn lén lút, và đây là điều không thể chấp nhận được.
Công an đánh người dân đến chết không được giải quyết một cách minh bạch từ vụ này kéo sang vụ khác sẽ khiến người dân nghĩ rằng không biết bao giờ thì tới mình? Do đó họ phải tự cứu mình và gia đình bằng cách liên kết với nhau chống lại những hình thức giết người này chứ sao? Họ không được bảo vệ thỏa đáng thì lẽ tự nhiên phải tìm đến nhau. Quây quần tạo nên sức mạnh để đối phó.
Hiện nay họ chỉ tự phát. Cuộc cách mạng nào thì bắt đầu vẫn do tự phát cả. Người Cộng sản rất rành về chuyện này. Càng có kinh nghiệm thì họ càng sợ phải đối phó với đám đông cho nên mới đây họ phải giải quyết vụ Bắc Giang như anh thấy đấy. Người dân chỗ khác thấy vụ Bắc Giang được giải quýêt mà vụ của mình không được xem xét thì họ lại chống đối chứ sao?
Từ đấy tôi cho rằng nếu họ không mau mau tỉnh ngộ, không dạy dỗ nhau, không chỉ bảo nhau mà tiếp tục cắt cổ dân thì dân sẽ nổi dậy để cắt cổ họ. Nếu người dân không cắt cổ họ vì yếu thế thì họ cũng sẽ phóng uế lên mồ lên mả họ. Mà không phải lên mồ lên mả của mấy anh lính trơn, hay mấy anh công an tép riu phải thực hiện công việc theo ý của cấp trên đâu!
Người dân sẽ thẳng tiến đến các anh chỉ đạo của mấy chú công an này.
Lữ Tống: Là người sinh ra và trưởng thành trong xã hội chủ nghĩa miền Bắc từ hơn 70 năm qua, nhận xét của ông về các vụ đàn áp hiện nay có giống với những vụ đã xảy ra trước Cách mạng Tháng Tám hay sau này một chút như Cải cách ruộng đất hay không?
TS. Nguyễn Thanh Giang
TS Nguyễn Thanh Giang: Sự so sánh nào cũng không tránh khỏi khập khễnh. Nếu ta nhìn lại ngày xưa khi họ thực hiện đấu tranh chính trị, rồi Cải cách ruộng đất, rồi chống Nhân văn Giai phẩm…, thì đấy lại thành vấn đề truyền thống. Họ nói nhân ái nhưng họ làm tàn bạo. Vì họ tiêm nhiễm đấu tranh giai cấp tư tưởng của Mác và đặc biệt của Lê Nin, Stalin và Mao Trạch Đông, tức là coi người với người là kẻ thù. Họ không những tàn bạo với dân chúng đâu mà họ còn tàn bạo với chính gia đình của họ nữa. Họ không chỉ đàn áp, bóc lột công nhân và nông dân mà họ còn tàn bạo với đồng chí họ nữa! Chuyện đó nó thành hệ thống rồi. Cho nên so sánh chuyện xưa và nay thì hơi khó nhưng tôi cho rằng họ phải tự biết, tự cảnh báo mình để dừng lại những trò càng ngày càng khuấy động lên sự căm phẫn của dân chúng Việt Nam.
Lữ Tống: Trong vụ công an đánh chết người dân tại Bắc Giang thì người dân đã kéo tới trứơc trụ sở UBND tỉnh hàng ngàn người. Đây là lần đầu tiên dân chúng vượt qua sợ hãi để đòi công lý cho nạn nhân. Theo ông thì vụ tập trung đông người này có ý nghĩa gì? Có phải là dấu hiệu cho thấy quần chúng không còn chịu đựng nỗi sự đàn áp dã man của công an hay không?
TS Nguyễn Thanh Giang: Tôi nghĩ rằng đấy là một dấu hiệu về sức phẫn nộ của quần chúng. Nó tích tụ từ nhiều nơi nhiều chỗ, nhiều vấn đề bây giờ nó sẵn sàng bục ra như một cái ung nhọt, bất cứ chỗ nào và bất cứ lúc nào. Thực ra vấn đề của một anh thanh niên vi phạm hành chính rồi bị công an đánh chết chỉ là tức nước vỡ bờ. Vấn đề ở chỗ lòng căm phẫn đã tích lũy nhiều năm tháng về trước rồi. Tích lũy do không có cảm tình với công an. Ở những việc khác như đàn áp Thái Hà, hoặc giả danh côn đồ đánh giáo dân trong vụ Đồng Chiêm và rất nhiều chỗ khác nữa đã khiến dân chúng có những cái nhìn khác về công an. Nếu công an có sai phạm những điều cực chẳng đã thì sự phản ứng của quần chúng cũng rất quyết liệt. Tôi nghĩ rằng những lãnh đạo công an phải biết nhìn nhận sự thật này để điều chỉnh lại. Người dân Việt Nam cũng không mong muốn như thế. Họ không mong có bạo loạn, không mong có đổ máu và cũng không mong người dân đứng lên để tiêu diệt chính quyền. Họ mong muốn chính quyền hãy xứng đáng là chính quyền của người dân.
Lữ Tống: Thưa TS, vào ngày 18 tháng 8 tới đây, dân biểu Cao Quang Ánh, dân biểu Wolf và Chris Smith sẽ bảo trợ một dự luật đòi hỏi có biện pháp với Việt Nam vì giáo dân Cồn Dầu bị bách hại, đặc biệt công an đã đánh đập đến chết ông Nguyễn Năm, một giáo dân tại đây. Tiến sĩ có nghĩ rằng chính sách răn đe của Việt Nam đối với vấn đề tôn giáo có thể gây trở ngại trực tiếp đến ngoại giao cũng như nhân quyền đối với thế giới hay không?
TS Nguyễn Thanh Giang: Tôi nghĩ đã nhiều lần thế giới lên tiếng, thế giới lên án và thế giới làm nhiều cách để cảnh cáo Đảng cộng sản Việt Nam. Nhưng mỗi lần như vậy thì họ có cách đối phó khác nhau. Lần này cũng vậy thôi. Có điều khác là họ sẽ gặp sức mạnh chống đối không phải từ bên ngoài như mọi lần mà từ nhân dân Việt Nam. Vụ Bắc Giang hay Cồn Dầu chỉ là khởi đầu, và nhà nứơc nếu không có chính sách phù hợp với thực tế thì họ sẽ phải sắp đối phó với những luồng sóng phản ứng của nhân dân lớn hơn.
Tôi nghĩ mỗi vụ đàn áp ở mỗi địa phương, cũng như những vụ đánh người trọng thương đều có tính chất và động cơ khác nhau. Tuy nhiên nhìn chung trong hoàn cảnh xã hội bức bối như thế này, sẵn sàng bùng nổ ở bất cứ nơi nào. Từ Tây nguyên cho đến nông thôn, đến các nhà máy hay các vùng công giáo…, nó biểu lộ sự bức bối của xã hội. Những bức bối này gây ra do những yếu tố cơ bản tức là sự quản lý kém của chính quyền. Cộng với sự quản lý kém ấy là sự không đứng đắn của những đường lối và chính sách lớn của Đảng cộng sản Việt Nam. Họ cứ phải liên tục đi đàn áp bà con hết chỗ này do đền bù đất đai rồi chống giải tỏa, đến chỗ khác là chống mở đường. Đối với tôn giáo, bất kể công giáo hay phật giáo người ta đòi lại đất đai chỗ nọ chỗ kia xuất phát từ chính sách sai lầm về phương diện ruộng đất.
Từ bỏ chủ nghĩa Mác, từ bỏ chủ nghĩa xã hội để theo kinh tế thị trường mà lại không thừa nhận quyền tư hữu ruộng đất cho nên mới xảy ra những vụ lập lập lờ lờ, tạo điều kiện cho bọn tư bản đỏ tức là bọn quan chức và tay chân. Bọn này trở thành địa chủ đỏ hút máu hút mủ và tạo sự bức bối trong nhân dân và người ta vùng dậy. Mà vùng dậy thì lại đàn áp người ta, con giun xéo mãi cũng quằn huống gì con người.
Tôi nghĩ rằng đến một lúc nào đó người dân nhận thức ra được thì họ sẽ xử tội bọn gian trá ngu xuẩn hiện nay. Bọn cướp công, cướp xương máu của người dân Việt Nam và bây giờ quay đầu trở lại cưỡi đầu cưỡi cổ bóc lột nhân dân Việt Nam.
Lữ Tống: Xin cám ơn ông.
Nguồn: http://danluan.org/node/6047
Trong cùng một ngày – ngày 30 tháng 7 năm 2010 – trên hai trang web (Dân Luận & Bauxite Việt Nam) người dân được biết thêm chút đỉnh về học vị, và bằng cấp của ba quan chức sau đây: ông Võ Kim Cự, ông Nguyễn Thế Nhật (Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh) và ông Nguyễn Văn Ngọc (Phó Bí thư tỉnh ủy Yên Bái.)
Vài tuần lễ trước, vào hôm 11 tháng 6 năm 2010, trên diễn đàn Người Đưa Tin, thiên hạ cũng đã có điều dị nghị: “Thủ tướng lấy bằng Cử nhân Luật ở đâu ra vậy?”
Đây là bốn đảng viên mới nhất, chứ không phải là duy nhất (của Đảng ĐCSVN) bị có nghi vấn về bằng cấp và học vị ghi (đại) trong tiểu sử. Sau lời tuyên bố của một đảng viên CS khác, ĐB Trần Tiến Cảnh (“Các nước có IQ cao đều làm đường sắt cao tốc”) dân Việt bỗng trở nên bức xúc – thấy rõ – về thương số thông minh của những người lãnh đạo, và đại biểu (phần lớn đều là đảng viên CS) ở xứ sở này.
Nói chung, dư luận đánh giá không cao thương số IQ của giới người này qua bằng cấp (giả) cũng như qua những lời phát biểu (linh tinh) của họ:
Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ.
Không phải nhiều đảng thì nhiều dân chủ.
Người ta cho vay thì mình cứ vay, có nơi cho vay là tốt quá.
Mai sau thế hệ con cháu tài giỏi hơn chúng ta sẽ trả nợ thay.
Nếu cán bộ chính phủ làm sai mà cách chức ngay thì bầu không kịp.
Trong phần phản hồi dưới bài viết “Nụ cười thiếu muối” của blogger Đào Tuấn, một độc giả đã đặt câu hỏi: “Đố các bạn biết, chỉ số IQ của bác Hùng (Phó Thủ tướng thường trực) và chỉ số IQ của bác Cảnh (Đại biểu quốc hội tỉnh Hà Nam), chỉ số IQ của bác nào cao hơn?”
Blogger Trương Tuần cũng bầy tỏ sự nghi ngại tương tự:
Hà Nam danh giá nhất ông cò
Nay thêm Nghị Cảnh quả là lo
Chỉ số IQ hình như thấp
Ăn ốc hay sao thích nói mò…
Đánh giá tha nhân qua thương số thông minh, dù “cho” điểm thấp – hoặc không cao lắm – là một cách hành sử… rất Tây và cũng rất (ư) là lịch sự. Dân Việt, xem ra, không mấy ai ứng xử lịch sự và ăn nói tế nhị như thế. Ông Kami là một thí dụ điển hình:
“Đọc lời phát biểu… kèm theo tấm hình của ông Trần Tiến Cảnh trong cuộc họp, nếu ai đó có chút hiểu biết về tướng mặt thì cũng được an ủi, vì câu phát biểu ấy nó cũng ngu không kém những gì hiện trên bộ mặt của ông ta.”
Ông Lê Diễn Đức cũng không khá hơn được bao nhiêu:
“Tôi đã đọc bài viết “Hiểu nhân quyền Việt Nam thế nào cho đúng” của Hưởng trên Tạp chí Nhân quyền mới xuất bản còn thơm mùi mực in, đang được tập đoàn Ba Đình khua chiêng, gõ mõ, điếc cả màng tai thiên hạ. Nói thiệt, chửi y ngu chỉ tổ phí thời gian.”
Và nói đến thế thì kể như là… hết thuốc! Tuy nhiên, không phải vì thế mà giải quyết được hết băn khoăn (chung) của cả nước hiện nay: “Tụi nó ăn cái gì mà ngu dữ vậy, Trời?”
Câu hỏi vừa nêu không có lời giải đáp, trong giới hàn lâm, chỉ được ông nông dân Hai Lúa giải thích – qua câu chuyện kể – như sau:
Một ông nhà giàu nọ bị bệnh nan y sắp chết, bác sĩ Tề nói muốn sống thì phải thay nội tạng. Ông ta lập tức bay ra chợ đen nội tạng bên Trung Quốc. Đầu tiên, ông ta vào tiệm bán tim. Tại đây, tim các loại có đủ cả: tim bác sĩ, tim nông dân, tim công nhân, tim luật sư, tim thầy giáo… nhưng mắc nhất trong cửa hàng là một trái tim cộng sản.
“Sao tim này mắc dữ vậy, bộ nó tốt lắm hả?“
“Cái này hổng phải nó tốt mà là nó hiếm.“
“Sao hiếm?“
“Ây dà, nị hông thấy sao? Cả ngàn thằng cộng sản mới có một thằng có tim đó chớ. Vậy là nó hiếm rồi. Hàng hiếm đó, mua đi.”
Ông nhà giàu mua trái tim cộng sản. Sau đó, qua tiệm bán bao tử. Ở đây cũng có đủ loại: bao tử lính, bao tử dân nghèo, bao tử dân giàu… nhưng mắc nhất là bao tử của quan chức nhà nước cộng sản. Rút kinh nghiệm tiệm bán tim, ông ta hỏi chủ tiệm:
“Cái này nó hiếm nên mắc phải không?“
“Cái này hổng hiếm nhưng mà nó tốt!“
“Tốt ra sao?”
“Tốt lắm chứ! Xi măng, sắt thép, tiền bạc, mỡ thối, mỡ bẩn gì, kể cả sĩ diện và lương tâm bỏ vô nó cũng tiêu hóa hết. Tốt lắm đó, mua đi.“
Ông nhà giàu mua cái bao tử luôn. Cuối cùng, chỉ còn tiệm bán não. Ở đây cũng có đủ loại não nhưng mắc nhất cũng là não của người cộng sản. Lần này, vừa thấy cái não mắc nhất đó, ông ta nói ngay:
“Lấy tôi cái này, cái này mắc vậy chắc vừa hiếm lại vừa tốt?“
“Nị khéo chọn ghê! Cả triệu thằng cộng sản mới có một thằng có não, mà nó ít khi xài tới lắm nên còn mới! Còn tốt ở chỗ là mỗi khi nó động não suy nghĩ tức là nó sắp có tiền!”
Có não mà ít khi động tới thì không riêng gì IQ thấp mà những chỉ số thông minh khác, như EQ (ecologial quotient) chả hạn, cũng rất khó cao. EQ dùng để trắc nghiệm sự thông minh về sinh thái. Khái niệm này được tác giả cuốn Ecological Intelligence diễn giải như sau:
“Ecological refers to an understanding of organisms and their ecosystems, and intelligence connotes the capacity to learn from experience and deal effectively with our environment. Ecological intelligence lets us apply what we learn about how human activity impinges on ecosystems so as to do less harm and once again to live sustain able y in our niche — these days the entire planet.”[1]
Sự thông minh về sinh thái (ecological intelligence) của những người đang cầm quyền ở Việt Nam có thể được đánh giá qua câu chuyện của một dòng sông – sông Thị Vải. Trong bài “Từ sông Thị Vải đến sông Thị Tính…” phóng viên Trần Việt cho biết:
“Trong một cuộc hội thảo trước đây, người ta đưa ra số liệu giật mình, với 154 khu công nghiệp trên cả nước, nhưng chỉ có 39 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung, còn lại là đang xây dựng hoặc có… kế hoạch xây dựng. Thậm chí, có tới 61 KCN còn chưa có cả kế hoạch xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, chiếm gần 40% tổng số KNC cả nước.”
Ai cho phép, và ai có quyền cho phép, hai phần ba (115) khu công nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải được hoạt động tại Việt Nam? Câu hỏi vừa nêu, tự nó, nói lên được tỉ số EQ của giới lãnh đạo ở đất nước này.
Riêng công ty Vedan, theo tường thuật của hai nhà báo Tường Thắng và Hải Minh “hoạt động tại Việt Nam (1994 – 2009), không biết vô tình hay hữu ý, Vedan làm ‘chết’ gần 20 km sông Thị Vải. Cá tôm không thể sống sót, mùi hôi nồng nặc, nhiều nông dân không còn kế sinh nhai. Khi sự việc chưa được giải quyết rốt ráo thì công ty này đã được đề nghị khen thưởng và được cấp giấy chứng nhận sản phẩm an toàn vì sức khỏe cộng đồng…”
Sau chuyện cấp giấy cho phép công ty Vedan hoạt động, chuyện “đề nghị khen thưởng và được cấp giấy chứng nhận sản phẩm an toàn vì sức khỏe cộng đồng…” là một minh chứng hùng hồn (khác) về sự thông minh sinh thái của những người cộng sản Việt Nam. Đề nghị này, cuối cùng, không được thực hiện. Đã thế, nó còn khiến cho một nhân viên thư ký đánh máy bị mất việc vì “đánh máy nhầm” tên của công ty Vedan vào giấy khen thưởng đã… ký sẵn!
Câu chuyện dòng sông Thị Vải, công ty Vedan, và thương số EQ… – xem chừng – còn lâu mới tới hồi kết thúc. Ngày 1 tháng 8 năm 2010 vừa qua, trên diễn đàn talawas, vừa có bài viết (“Theo đóm ăn tàn”) của tác giả Lê Quốc Trinh cập nhật nhiều sự kiện liên quan đến những vấn đề thượng dẫn. Xin được ghi lại một đoạn ngắn:
“Sự kiện công ty Vedan thải chất độc ra sông Thị Vải gây ô nhiễm môi trường kéo dài từ hơn hai năm nay, báo chí trong nước ỳ sèo, hai bên (Nhà nước và tập đoàn lãnh đạo Vedan) giằng co suốt mấy tháng trời, tưởng chừng không có giải pháp khả thi nào để hỗ trợ dân nghèo bị thiệt hại. Mới tháng trước đây, hàng trăm hộ dân nghèo đã muốn tỏ ý rút lui, bãi bỏ khiếu kiện, chỉ vì án phí Nhà nước quá cao, và chẳng thấy ma nào lên tiếng ủng hộ họ, chỉ còn một ông nông dân còn bám trụ (ông Nguyễn Lam Sơn) và hình như chỉ có một vị luật sư quả cảm dám đứng ra hỗ trợ cho ông này!
Thế nhưng, khi Hoa Kỳ tuyên bố nhảy vào vòng chiến trên Biển Đông, siêu hàng không mẫu hạm USS G. Washington vừa mới tham gia tập trận trên vùng Hoàng Hải được mấy hôm, bà ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton vừa đọc diễn văn hùng hồn ở thủ đô Hà Nội xong thì… đột nhiên ngọn gió tâm lý đã đổi hướng 180 độ ngay. Trong khi Trung Quốc hung hăng thực hành tiếp cuộc tập trận lần thứ hai trên biển Hoàng Hải, thì tại Việt Nam, công ty Vedan bắt đầu xuống giọng và đề nghị tăng tiền bồi thường lên gấp đôi (từ 56 tỷ lên đến 130 tỷ đồng), và… Ôi chao! Cả chục luật sư ào ào xông ra đòi biện hộ cho các gia đình nông dân. Ngoạn mục hơn nữa là chính ông Bộ trưởng Tài nguyên Phạm Khôi Nguyên cũng ‘nóng máu’ làm ngay một buổi họp báo, tuyên bố dứt điểm với Vedan vì nắm chắc phần thắng ‘trăm phần trăm’. Ra là thế đấy, Vedan chịu tăng tiền bồi thường lên gấp đôi, cả trăm tỷ đồng, đâu có ít, cho nên người ta phải lợi dụng thời cơ nhảy vào ‘đớp hít’ chứ, cơ cấu Xã Hội Chủ Nghĩa chạy theo mô hình kinh tế thị trường mà lỵ!”
Nhận xét chủ quan của Lê Quốc Trinh về cách hành xử (“theo đóm ăn tàn”) của các quan chức Việt Nam, đặc biệt là ông Bộ trưởng Tài nguyên Phạm Khôi Nguyên (chả may) hoàn toàn trùng hợp với kết luận trong câu chuyện (tiếu lâm) của ông nông dân Hai Lúa: “Cả triệu thằng cộng sản mới có một thằng có não, mà nó ít khi xài tới lắm nên còn mới! Còn tốt ở chỗ là mỗi khi nó động não suy nghĩ tức là nó sắp có tiền!”
Tưởng Năng Tiến
8/2010
[1] “Sinh thái học là nhận thức về cơ thể của muôn loài và hệ sinh thái của chúng, còn hiểu biết là khả năng học hỏi từ kinh nghiệm và xử lí môi trường của chúng ta một cách có hiệu quả. Hiểu biết về mặt sinh thái học tạo điều kiện cho chúng ta áp dụng những kiến thức của chúng ta về ảnh hưởng của hoạt động của con người đối với các hệ sinh thái nhằm giảm nhẹ những tác động tiêu cực và để có thể duy trì được đời sống trên toàn bộ hành tinh – tổ ấm của tất cả chúng ta.” Đoạn văn này do Phạm Minh Ngọc chuyển ngữ, và được trích dẫn từ Ecological Intelligence của Daniel Goleman (Broadway Business xuất bản năm 2009). Ông cũng là tác giả của cuốn best seller Emotional Intelligence (Bantam Books xuất bản năm 1995)
Nguon: Blog tuongnangtien


Aug 5, ’10 1:38 AM
for everyone
Hà Nội, ngày 04.08.2010.
Bất cứ ai là Người Việt Nam sống lâu năm tại Việt Nam và theo dõi tình hình Việt Nam đều thấy rằng nhân dân khắp mọi miền đất nước đã chán ngán các cán bộ nhà nước, các cán bộ của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cán bộ càng cao thì nhân dân càng thấy ngao ngán, chán ghét.  Các cán bộ ở Xã-Phường, Huyện-Tỉnh thì chỉ trông chờ xem dân sơ hở chỗ nào để vơ vét, ăn quỵt, thậm chí thấy người dân già yếu, sơ suất, trình độ văn hóa thấp thì cướp dật, trấn  lột nhà cửa, đất đai của họ. Chuyện người dân đi đâu cũng phải chạy trường, chạy điểm cho con, vào bệnh viện thì tới đâu cũng phải đút lót, hối lộ cho y tá, bác sỹ. Chuyện chạy việc cho con em mình là đương nhiên, mà phải thông qua các cán bộ cao cấp của ĐCSVN mới được, tức Lãnh đạo ĐCSVN quản lý toàn bộ việc làm đối với nhân dân trong hệ thống nhà nước bao gồm trong Bộ máy chính quyền và trong các doanh nghiệp do nhà nước chi phối chỉ cốt để thu “lệ phí”.
Nói tới sự chạy chức, chạy quyền là đương nhiên. Chạy chức Cục trưởng, Vụ trưởng, Sư đoàn trưởng hay muốn được phong cấp tướng phải mất vài tỷ đồng. Chạy chức thứ trưởng phải mất 5-6 tỷ đồng. Chạy chức Bộ trưởng phải tính tiền triệu đô la Mỹ. Người dân nói Ông Lê Thế Thảo chạy chức Chủ Tịch UBND Thành phố Hà Nội mất 30 tỷ. Rồi chuyện các Lãnh đạo cấp cao của ĐCSVN có nhiều triệu đô la Mỹ. Mỗi ủy viên trung ương Đảng CSVN hàng năm cũng kiếm được vài chục triệu đô la Mỹ là chuyện thường. Tiếp đó là danh sách 300 Vị đứng đầu đất nước có từ hàng trăm triệu đôla Mỹ đến hơn 2 tỷ đô la Mỹ mà mọi người đều biết được tuyên truyền rầm rộ trên internet lâu nay. Rồi chuyện Ông Cựu Bộ trưởng Lê Ngọc Hoàn có hơn 50 cái Vi-la trên khắp cả nước, có con riêng 7-8 tuổi. Và mấy ông Bộ trưởng về hưu khác cũng đều có con riêng nhưng báo chí cấm được viết về những hiện tượng này. Rồi chuyện ông Trịnh Trọng Quyền – Cựu bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa- cho con lập Công ty riêng để tham gia các thầu xây dựng đường sá trong tỉnh và luôn thắng thầu (theo tin của Đảng viên cao cấp của ĐCSVN). Sau đó bán lại thầu ngay tức khắc lấy 5% tổng giá trị gói thầu. Rồi chuyện Lãnh đạo Công ty Gang thép Thái Nguyên cho con mua lại nhà máy thép cũ như là cướp luôn cả nhà máy để bán sắt vụn kiếm tiền. Chuyện Thượng tướng-thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, UV TƯ ĐCSVN Nguyễn Huy Hiệu bị một phụ nữ vác con đến Cơ quan Bộ Quốc Phòng đòi ông Hiệu nhận là con đẻ.
Trong nhiều năm qua nhân dân lưu truyền chuyện ông Đỗ Mười nhận 1 triệu đô la hối lộ của một Công ty Hàn Quốc nhiều người biết nhưng không trả lại. Chuyện ông Lê Đức Anh bị xuất huyết não và Trung Quốc cử một phái đoàn bác sỹ đặc chủng sang cứu sống. Từ đó ông Lê Đức Anh rất biết ơn Trung Quốc. Lâu nay hàng năm Trung Quốc vẫn cử một đoàn cán bộ y tế sang kiểm tra sức khỏe cho ông Lê Đức Anh cốt để bằng mọi giá giúp ông Lê Đức Anh sống càng lâu, càng tốt. Đây là hành động thể hiện “Thiên Triều” nuôi dưỡng “tên Thái Thú, tên Chư Hầu”. Ông Lê Đức Anh chính là người chỉ huy toàn bộ quá trình bình thường hóa quan hệ với TQ, nó bất thường tới mức: Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán,,,. Đây là bằng chứng rõ ràng Lãnh đạo Việt Nam chịu làm Chư hầu, Thái thú, đàn em, làm một tỉnh của TQ hay TQ bảo gì nghe nấy. Theo các vị lão Thành cách mạng từng làm cấp trên của ông Lê Đức Anh như Phạm Văn Xô (Cựu phó ban Tổ chức TƯ ĐCSVN), Đồng Văn Cống (Cựu phó Tổng Thanh tra QĐNDVN) và Nguyễn Văn Thi (Cựu chủ nhiệm hậu cần Bộ tư lệnh Miền Nam) thì ông Lê Đức Anh đã khai man lý lịch cá nhân và khai man tư cách Đảng viên: Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su như tự khai mà là người giúp việc thân cận cho chủ đồn điền De Lalant-một sỹ quan phòng nhì của Pháp. Ông Lê Đức Anh chưa bao giờ được kết nạp vào ĐCSVN, ấy thế mà tự khai là Đảng viên ĐCSVN từ trước năm 1940, nay đã hơn 70 năm tuổi đảng. Ông Lê Đức Anh, ông Đỗ Mười và Nguyễn Chí Vịnh cũng đã từng cùng dựng ra vụ Sáu Sứ-Năm Châu để vu khống Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Trần Văn Trà cùng với tay chân định lật đổ Bộ Chính Trị và chính quyền trong dịp Đại hội 7 ĐCSVN, năm 1991. Còn vụ T4 thì ba ông trên đã dựng chuyện quy kết Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, TT Võ Văn Kiệt, TT Phan Văn Khải, ông Nguyễn Văn An, bà Võ Thị Thắng là tay sai của tình báo CIA-Mỹ  nhằm mục địch triệt hạ uy tín các đối thủ để xây dựng Phe thân Trung Quốc, làm tay sai cho Trung Quốc của các ông ấy một cách trơn tru, dễ dàng như gần 20 năm trở lại đây. Hồi ông Lê Đức Thọ còn sống mỗi khi ông Lê Đức Anh-đệ tử ruột được truyền ngôi- đi ra khỏi nhà ông Thọ đều phải đi thụt lùi không giám quay lưng vào nhà ông Lê Đức Thọ. Theo sự thăm dò của tôi thì hầu như 100% các sỹ quan quân đội cao cấp của Việt Nam hiện nay đều rất ghét bố con ông Lê Đức Anh-Nguyễn Chí Vịnh, ngược lại rất quý trọng Đại tướng Võ Nguyên Giáp-Người Anh cả của QĐNDVN. Nhiều nhân sỹ, trí thức, các cựu cán bộ cao cấp của ĐCSVN và nhân dân khắp nơi phải lên tiếng, thậm chí kêu gọi “lật đổ, đảo chính quân sự” thì mới đây Lãnh đạo ĐCSVN đã phải mời Mỹ và Nga vào hợp tác với ASEAN. Ngay lập tức cách đây 1-2 tuần trên Vietnamnet ông Lê Đức Anh có bài viết, nói rằng Ông là người đầu tiên bảo trợ cho quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ từ những năm 1986 qua việc cứu giúp một ông Bác Sỹ. Chuyện này có thật hay không? Rồi con dâu ông Lê Đức Anh là bà Nguyễn Thị Doan cũng làm Phó Chủ Tịch Nước mấy năm nay. Qua những chứng cứ trên cho thấy rằng ông Lê Đức Anh là Trụ cột cho quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vài chục năm lại đây, một con người gian trá, xảo quyệt, vu khống dựng chuyện nói xấu các Đại Công Thần của đất nước một cách ngang nhiên, đẩy đất nước vào tình trạng bị Trung Quốc thôn tính như mấy năm lại đây. Hiện nay đất nước ta vẫn còn rất kém cỏi, chậm tiến mọi mặt so với Thế giới, tham nhũng thối nát tràn lan. Ông Lê Đức Anh làm mọi chuyện cũng vì ông ấy và con cái ông ấy, chứ hoàn toàn không vì đất nước, vì dân tộc gì cả. Chúng ta không thể chấp nhận một “Nhà chính trị xấu xa, kém trí tuệ” như vậy. Phe đảng của ông Lê Đức Anh không xứng đáng lãnh đạo đất nước nữa, phải chấm dứt độc quyền cai trị đất nước một cách sớm nhất có thể!
Chuyện ông Nông Đức Mạnh có khu Vi-la ở Thái Nguyên thường xuyên đuổi vợ về quê, còn hàng ngày thì về sống ở Vi-la tại Hồ Tây có diện tích 500 m2, có gái chân dài vào phục vụ hàng ngày (có nguồn tin cho rằng đây là do TC2 bố trí). Bên cạnh có khu đất-nhà của em trai là Nguyễn Tất Trung có diện tích là 150m2. Phía Trung Quốc thì khẳng định rằng ông Nông Đức Mạnh đã tự nhận mình là người dân tộc Choang của Trung Quốc. Trong các cuộc trao đổi ông Nông Đức Mạnh bảo “đất rừng mình chưa dùng đến thì để cho người ta thuê cũng được chứ sao?”. Tôi tiếp xúc với rất nhiều trí thức và người dân Việt Nam thấy ai cũng chê ông Nông Đức Mạnh. Một tiến sỹ, cựu giảng viên ĐHBKHN và ĐH Mỏ Địa chất, nguyên thành viên Ban hiến kế cho Bộ chính trị nói: Ông Nông Đức Mạnh trí tuệ kém lắm ghê, tư duy nói năng không có một chút lô-gíc nào cả. Một anh nông dân-lái xe ở Nghi Lộc-Nghệ An thì bảo: Ông Nông Đức Mạnh đầu óc tối tăm, không có sáng kiến gì, không làm được gì cho dân cho nước. Các Cụ Lão thành thì khẳng định “Ông Nông Đức Mạnh đã ngả hẳn vào lòng Trung Quốc rồi”. Ông Nông Đức Mạnh đã cùng với Nguyễn Chí Vịnh là hai nhân vật chính quyết định cho TQ vào Tây Nguyên khai thác Boxite nhôm-một cái cớ để tiến hành xâm lược và thôn tính nước ta. Đây là trọng tội không thể tha thứ! Con ông Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn hình như sinh năm 1963, đã từng phải đi xuất khẩu lao động ở Đông Đức ấy thế mà lại làm đến chức Chủ Tịch Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam và hiện nay là Phó Bí thư Tỉnh Ủy Bắc Giang để chuẩn bị vào Trung Ương ĐCSVN, rồi kế tục Cha chăng? Mấy ngày qua dân chúng Bắc Giang biểu tình đòi giải quyết vụ một thanh niên bị CA đánh chết nhưng ông Phó bí thư Tỉnh Ủy Bắc Giang vẫn đưa 2 đầu bếp từ Hà Nội về để nấu món thịt cừu, thiết đãi bạn thì thử hỏi tư cách và trí tuệ của “một chính trị gia” ở đâu?  Vậy Phe cánh của Bố con ông Nông Đức Mạnh có xứng đáng là một “Chính trị gia” và lãnh đạo đất nước hay không?
Ông Nguyễn Phú Trọng- Chủ Tịch Quốc Hội hiện nay- một “Lý thuyết gia” của ĐCSVN, một tiến sỹ triết học Mác-Lê Nin nhưng nói năng không có một chút triết lý hay lý luận gì. Một Nhà chính trị phải có tư tưởng riêng, lý luận riêng, chính kiến riêng, có chí khí, có lòng dũng cảm, có nhiều sáng kiến, có tư duy lô-gíc và sắc sảo, có ý thức luôn giữ cho mình trong sạch nhất có thể và phải vì quyền lợi của đất nước và dân tộc mình. Ấy thế mà như mọi người thấy đó ông Nguyễn Phú Trọng không có gì cả. Chúng ta chưa thấy Ông ấy thể hiện được một ý tưởng nào có giá trị, chưa nói được câu nào thể hiện người có chính kiến, có tư duy lô-gíc. Ông Nguyễn Phú Trọng còn công khai ủng hộ Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác Boxite nhôm như: Ngăn không cho QH bàn về dự án boxite, “Dự án Boxite có vốn dưới 600 triệu USD”,,,. Vậy thử hỏi Ông vì quyền lợi của đất nước và quyền lợi của dân tộc ở chỗ nào? Ông và ông Phạm Quang Nghị cũng là hai người được cử sang Trung Quốc thực tập làm Tổng bí thư của ĐCSVN khóa này. Đây rõ ràng là bằng chứng làm tay sai cho Trung Quốc, để Trung Quốc can thiệp vào nội bộ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Nếu hai Ông ấy là những Chính trị gia lão luyện thì không bao giờ chấp nhận sang TQ thực tập để làm Tổng Bí Thư-đó là hành động nhục nhã! Vậy Bộ chính trị ĐCSVN hoàn toàn không xứng đáng để lãnh đạo dân tộc ta nữa!
Ông Nguyễn Tấn Dũng nguyên là một y tá trưởng của một xã ở Miền Nam, một người lính, một người con của một Đồng chí của Ông Võ Văn Kiệt (có tin lại bảo là con rơi của ông Nguyễn Chí Thanh). Ông nguyên trình độ chỉ học hết cấp 2, sau đi học làm y tá và đi học tại chức đại học luật (không rõ từ năm nào đến năm nào, ở trường nào), trên mình có 32 vết thương. Một bạn học của ông Dũng nay làm lớn ở Thanh Hóa nói rằng ngày trước phải luôn làm hộ bài, chép bài cho ông Dũng vì Ông không biết gì cả. Vậy một Chính trị gia lại học dốt, để cho bạn làm bài hộ à? Chúng ta thấy ông Dũng không có tư duy riêng, cũng chẳng có lý luận gì hết. Ông chưa nói được câu nào chúng ta thấy có giá trị, thấy có lô-gíc, hoàn toàn không có tố chất chính trị gì cả. Ông Dũng đã sáng tạo được gì cho đất nước chúng ta? Ông lại là một người ba phải. Khi Ông Kiệt còn sống thì có chỗ dựa nên rất “khỏe khoắn”. Khi Ông Kiệt chết thì ngả hẳn theo Phe tay sai Trung  Quốc là ông Nông Đức Mạnh-Nguyễn Chí Vịnh. Gần đây Ông còn đại diện Dân tộc ta đi ký hợp tác làm ăn với mấy thành phố trực thuộc tỉnh, mấy tỉnh của Trung Quốc. Đây rõ ràng là hành động kém thông minh của “một chính trị gia” như ông Dũng. Đất nước ta, dân tộc ta chỉ ngang hàng với một Thành phố, một tỉnh của Trung Quốc hay sao? Làm như vậy người Trung Quốc sẽ khinh rẻ ông Dũng-Thủ Tướng Việt Nam- khinh rẻ Người Việt Nam chúng ta, họ xem chúng ta chỉ ngang với một tỉnh hay một Thành Phố nhỏ của Trung Quốc, rất tai hại cho “Thương hiệu hàng Việt Nam”. Đây là hành động rất kém chính trị và đáp ứng thế chiến lược nhằm “dìm dân Việt Nam” từng bước chấp nhận làm dân một tỉnh của Trung Quốc, phục vụ ý đồ thôn tính Việt Nam của TQ. Ông Dũng lại cho xây dựng nhà thờ họ ở quê tốn tới 40 tỷ VNĐ trong khi dân chúng đói khổ và thiếu việc làm khắp nơi. Một cán bộ Cơ quan Trung ương còn nói rằng “mấy năm trước doanh nghiệp nào muốn ông Dũng đến thăm thì phải mất cho Ông ấy 150 triệu đồng, cho trợ lý của ông Dũng 50 triệu”. Nghe tin con ông Dũng ở Tây Nguyên sống như vua vậy. Xung quanh các quan sếp tỉnh làm gì cũng chạy đến hỏi con ông Dũng. Nhà chính trị phải chứng tỏ mình thông minh, cao thượng để nhân dân và Thế giới nể phục, chứ như ông Dũng thì ai người ta nể trọng.
Ông Phùng Quang Thanh nghe nói là con cháu của ông Phùng Khắc Hoan, cũng  như các vị Ủy viên BCT ĐCSVN khác chẳng có gì đặc biệt. Từ lúc 17-18 tuổi vào bộ đội làm lính thì làm sao có thể trở thành một chính trị gia giỏi được? Ông Thanh cho TGĐ Công ty xăng dầu Quân đội bán xăng dầu dự trữ quốc phòng để kiếm chênh lệch bỏ túi hàng trăm tỷ đồng, để khi quân đội cần xăng diễn tập thì không có mà dùng. Ông Thanh còn nhận hối lộ của một Tỉnh đội trưởng hàng tỷ đồng để được phong lên Thiếu tướng. Trong dịp đi thăm Trung Quốc vừa rồi thì Báo QĐND viết: Đồng chí Phùng Quang Thanh lên báo cáo Đồng Chí Từ Huy Hậu. Ông Từ Huy Hậu chỉ là một ông tướng của Trung Quốc, phó chủ tịch quân ủy TQ,  ngang hàng với Thứ trưởng Bộ QP Trung Quốc mà ông Thanh là Bộ trưởng BQP Việt Nam phải đến “báo cáo”. Vậy ông Thanh là cấp dưới như Tỉnh đội trưởng lên báo cáo với Thứ trưởng BQP à? Đây là một động thái chèn ép dân Việt Nam từng bước để nhân dân ta chấp nhận là một tỉnh của Trung Quốc. Tổng biên tập báo QĐND và cá nhân đưa tin đó lên rõ ràng đã bị bàn tay của bọn Tay sai-Thái thú TQ chèn ép, chỉ đạo hay tự nguyện làm tay sai cho TQ rồi.
Ông Nguyễn Chí Vịnh ai cũng biết là con Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, một đối trọng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày xưa, thuộc phe ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, là con nuôi của ông Lê Đức Anh. Ngày trước đi học tuy là con nhà giàu có nhưng vẫn đi ăn trộm Kho Quân Nhu của Học viện Kỹ thuật Quân Sự nên bị đuổi học cùng với một số bạn khác. Ăn cắp, ăn trộm trong Trường Đại Học là chuyện tày trời, rất xấu xa, phi đạo đức không thể chấp nhận được thế mà đòi đi làm chính trị. Ngày trẻ Ông Bush con cũng chỉ nghiện rượu tý chút. Nghiện rượu hay ma túy không phải là đạo đức xấu xa, nhưng còn cố tình tổ chức đi ăn trộm, ăn cắp khi đã là sinh viên thì không thể chấp nhận được. Một tên ăn cắp mà là Ủy viên BCT hay Bộ Trưởng Bộ QP, dự định còn làm TBT ĐCSVN thì ảnh hưởng vô cùng xấu xa đến lòng dân, đến đạo đức và nhân cách của cả dân tộc Việt Nam. Tên ăn cắp thuở nào mà làm TBT thì ĐCSVN sẽ sụp đổ ngay tức khắc. Nhưng TQ-với tư cách là nước muốn thôn tính Việt Nam- rất cần những kẻ xấu xa, đồi bại, tham nhũng, ăn cắp thuở nào làm Tay sai-Thái thú. Chỉ có những kẻ xấu xa, gian trá, dốt nát mới chịu làm tay sai-thái thú cho nước khác để phản lại lợi ích của dân tộc mình, của đồng bào mình để bản thân gia đình vợ con được hưởng sung sướng, bổng lộc trước mắt. Nguyễn Chí Vịnh như đã nói ở trên đã tham gia cùng ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh những chuyện rất xấu xa, thiếu nhân cách. Nguyễn Chí Vịnh là người đã gọi điện cho ông Nguyễn Tấn Dũng năm nào bảo ông Dũng cho TQ thắng thầu xây Sân Mỹ Đình với giá 55 triệu USD, trong khi đó CHLB Đức bỏ thầu chỉ có 50 triệu USD lại thua thầu. Nguyễn Chí Vịnh còn trực tiếp sang Trung Quốc chọn gái tên là Trương Vỹ Hoa cho ông Lê Khả Phiêu chơi bời một tuần đẻ ra một đứa con bây giờ đã mười mấy tuổi.
Nguyễn Chí Vịnh là người trực tiếp liên hệ giữa ông Nông Đức Mạnh với Trung Quốc để cho TQ vào VN khai thác Boxite. Tay chân của Nguyễn Chí Vịnh trong TC2 toàn là những kẻ hư đốn và ăn cắp năm nào ở Học viện Kỹ thuật Quân sự. Nguyễn Chí vịnh đã cung cấp cho phía Trung Quốc danh sách cán bộ lãnh đạo Việt Nam có cảm tình và không có cảm tình với Trung Quốc. Dựa vào danh sách này Trung Quốc đã mua chuộc và gây ảnh hưởng lên hàng ngũ lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay để từng bước biến lãnh đạo ĐCSVN trở thành tay sai-thái thú. Đây rõ ràng là một hành động làm tình báo cho nước ngoài, một hành động làm tay sai cho Trung Quốc, một hành động tội phạm, phản bội Tổ Quốc của Nguyễn Chí Vịnh. Nhiều nguồn tin khác nói rằng còn nhiều cá nhân khác trong nội bộ ĐCSVN làm như Nguyễn Chí Vịnh. Theo các sỹ quan quân đội cao cấp ở Hà Nội thì vừa qua 18 tỉnh cho Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông (thực chất là TQ cả) thuê đất rừng đều có sự chỉ đạo của Tổng Cục 2 của Nguyễn Chí Vịnh. Với những thành tích bất hảo như trên liệu Nguyễn Chí Vịnh có xứng đáng là Trung Tướng-Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam hay không? Và qua đây chúng ta cũng thấy rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh chủ đích nâng đỡ Nguyễn Chí Vịnh-tên tay sai của TQ, có nhiều điều bất hảo, xấu xa- chẳng hiểu biết chính trị gì cả, mà cốt vì quyền lợi cá nhân các ông ấy. Họ không xứng đáng một chút nào là “Nhà chính trị”, nhà lãnh đạo của Việt Nam có trách nhiệm với nhân dân!
Còn các Vị Ủy viên Trung Ương ĐCSVN khác như ông Hoàng Trung Hải hay Nguyễn Thiện Nhân, các Bí thư tỉnh ủy khác không giám lên tiếng đấu tranh gì, chỉ như cái đuôi, cái bóng của ông Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và một số Ông UV BCT khác, tham nhũng như cơm bữa liệu có xứng đáng là “Nhà chính trị, Nhà lãnh đạo” của nhân dân ta hay không? Chắc chắn là không!
Ở CHLB Đức trong những năm 90 của Thế kỷ trước có chuyện ông Engholm- Chủ tịch đảng đối lập SPD, Thống đốc bang, Ứng cử viên tranh chức Thủ tướng với ông Helmut Kohl- bị phát hiện gian lận, dối trá về thuế đã phải họp báo xin chấm dứt sự nghiệp chính trị, trở về làm một ông Luật sư quèn. Từ đó vĩnh viễn không bao giờ nói tới chính trị nữa. Còn ông Sharping-nguyên là một người hoạt động chính trị từ thời học sinh cấp 3, Thống đốc bang, có lần ra tranh cử Thủ tướng, là Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Thủ tướng mới đây của CHLB Đức là Gehart Shreoder (thỉnh thoảng bây giờ Ông vẫn đến Việt Nam ta)- bị phát hiện “cầm nhầm” có 1000 EURO mà phải tuyên bố từ chức Bộ trưởng BQP và chấm dứt sự nghiệp chính trị của cuộc đời, về làm dân thường, không bào giờ giám xuất hiện trước công chúng nữa.
Qua những dẫn chứng như trên chúng ta có thể kết luận rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Phùng Quang Thanh, Phạm Quang Nghị, Hoàng Trung Hải, Nguyễn Chí Vịnh và các UV TƯ ĐCSVN khác hoàn toàn không xứng đáng là các “Nhà chính trị” của nhân dân ta, không xứng đáng giữ các vị trí lãnh đạo đất nước, phải rút lui càng sớm càng tốt! Nếu không biết điều mà tự rút lui sớm thì e rằng sẽ chuốc lấy hậu họa như ông Ceautrcescu-cựu Tổng bí thư ĐCS Rumani- và Honecker- cựu Tổng bí thư ĐCS Đông Đức năm 1989, hay như cựu Tổng thống Hàn Quốc năm 1994, bị kết án tù trung thân vì tham nhũng 600 triệu USD.
Chúng ta là đại đa số người dân thuộc Phe đối lập, phe chưa cầm quyền với ba vị tướng đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung Tướng Đồng Sỹ Nguyên, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh phải cương quyết đấu tranh bằng mọi giá để nắm quyền hành pháp lãnh đạo đất nước, đẩy Phe đảng cầm quyền hiện nay vào thế đối lập trong Quốc hội và Thường vụ Quốc hội. Để chuẩn bị cho việc thành lập một chính đảng lớn có mặt trên toàn quốc cạnh tranh với Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Chí Vịnh thì ngay từ lúc này mỗi Thôn, mỗi Bản, mỗi Khu phố hãy kết nối các công dân có cùng chí hướng thành những Chi bộ nhỏ 2-5 người. Lực lượng của chúng ta phải yêu cầu Phe đảng cầm quyền hiện nay từ chức, chấp nhận bầu cử Quốc hội mới, tổng tuyển cử bầu Người đứng đầu đất nước trong thời gian sớm nhất. Nhân dân cả nước đều thấy rằng Hiến pháp và Pháp luật hiện nay là của Phe đảng cầm quyền nêu trên, chứ không phải của toàn thể dân tộc. Đường cùng Lực lượng của chúng ta phải kêu gọi nhân dân xuống đường phản đối, Công an và Quân đội hỗ trợ. Đó là những biện pháp thực tế nhất để chúng ta thể hiện trách nhiệm đối với đất nước và dân tộc!
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung Tướng Đồng Sỹ Nguyên, Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh muôn năm!                  
Các tác giả:
Ông Trần Văn Huy: Thôn 1, xã Đức Minh, h. Dakmil, Đắc Nông. Thường trú tại: Q.Hoàng Mai, Hà Nội. Đt. 0917512863.
Ông Nguyễn Trung Lĩnh: Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.  Đt: 0912370646.
viamsa.ntlinh@gmail.com (VIỆT NAM ANH MINH SÁNG SUỐT NGUYỄN TRUNG LĨNH).          
Ông Văn Nguyễn: Giáo viên cấp 3 tại Tây Nguyên. dingdangdinh@gmail.com.
Ông Lê Thanh Tùng: Khối 13, Phố Chợ, Phù Lỗ, Sóc Sơn, Hà Nội. Đt. 01997775733. aiquocle@gmail.com.
(TB: Rất hân hạnh được gửi tới các cháu học sinh phổ thông, thanh niên, sinh viên, công nhân, nông dân và những người dân bình thường trên khắp mọi miền của đất nước).
Nữ luật sư Lê Thị Công Nhân – người chiến sĩ dân chủ kiên cường – sau khi ra tù vừa làm một bài thơ tâm huyết, được dịch ngay sang nhiều thứ tiếng, với đầu đề là: Tôi có một giấc mơ – I have a dream.
Dưới đây là vài câu trong bài thơ đó:
Tôi có một giấc mơ
đến một ngày
trên thế gian
sẽ không còn cộng sản
Khi ấy
người nông dân quê tôi
sẽ không còn lam lũ ngoài đồng nắng
chang chang
ướt đẫm áo giọt mồ hôi
bão tố gió mưa
đơn côi
trên đồng quạnh vắng
cho lúa được vàng bông
trĩu hạt!
Nhưng
phải cống nạp nuôi chính quyền độc tài cộng sản
hơn (một) nửa mất rồi
còn đâu!
Khi ấy,
người trí thức
nước tôi
sẽ tự nhiên cất lên lời chân thật
Vì chiếc còng số 8
và điều luật số 88
đã bị đánh bật
ra ngoài tư tưởng
Cùng với nó là điều luật số 79, 87, và 258 …
quái dị đến thiên tài!
là đặc sản của nước chúng tôi
và những nước anh em xã hội chủ nghĩa khác
Hỡi ôi!
Anh em ư?
Liên minh ma quỷ thì đúng hơn
sánh bước cùng nhau
chiếm đoạt âm ty
cho riêng mình,
mãi mãi!
.…Và khi ấy nền thi ca nghệ thuật
ở xứ sở tôi
sẽ trỗi dậy
dẫu phải làm lại từ đầu
Khi cộng sản không còn bóng dáng
trên quê hương tôi
thì người luật sư
sẽ thật sự
là trái tim của nền dân chủ…
…Khi ấy
sẽ không còn những gian nan
của người công nhân lao động lầm than
với đồng lương rẻ mạt
như không thể nào rẻ hơn được nữa
Khi ấy mọi người sẽ lại tìm thấy
Ý nghĩa của cuộc đời mình

phải sống cho nhau
Và biết hy sinh vì đồng loại,
là người anh em của mình
do Đấng Tạo Hóa
hằng ban
Yêu Thương!
Tôi có một giấc mơ
chưa chắc đã thành sự thật
trong đời mình
Và tôi dám nói ra / tiết lộ / chia sẻ / tâm sự
kêu gào thảm thiết một cách mạnh mẽ và công khai
Cho mọi người cùng biết
rằng: Tôi không câm, có tai không điếc, có mắt chẳng mù,
Và một trái tim – chẳng may – vẫn còn rung cảm
một lương tâm không bị sún
vì chưa gãy hết răng
(nó cắn rứt tôi mỗi ngày – có Chúa chứng giám cho tôi điều ấy)
Cái đầu vẫn còn biết suy nghĩ
và mơ mộng
về những điều cao siêu, nhưng thật ra thì đơn giản là
Tính trung thực và Lòng dũng cảm
nền tảng đạo đức
của con người!
Một bài thơ thật chân thành, mộc mạc, đi thẳng vào lòng người từng ý, từng câu, từng chữ.
Mong rằng đông đảo những người cộng sản không vì tự ái riêng tư mà phật lòng, khó chịu. Xin nhớ đảng viên cộng sản kỳ cựu Trần Độ hơn 10 năm trước cùng lão thành cộng sản Nguyễn Hộ đã chân thành công nhận chủ nghĩa cộng sản trong thực tế là sai lầm lịch sử; cũng xin nhớ nhà báo lão luyện chuyên viết chính luận cho đảng cộng sản Hoàng Tùng cuối đời đã công nhận rằng Staline – lãnh tụ đệ tam Quốc tế CS – mà đảng CS Đông Dương là một thành viên –“ là một kẻ sát nhân hàng loạt, khát máu hơn cả trùm phát xít Hitler”, rằng Mao Trạch Đông – mà ông Hồ Chí Minh từng bảo đảm không bao giờ phạm sai lầm – thực tế là kẻ sát nhân khủng khiếp, “tội ác vượt xa Tần Thủy Hoàng”… Và chỉ mới đây thôi, ông Trần Trọng Tân, nguyên trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương đảng, đã cùng một nhóm đảng viên kỳ cựu chỉ rõ sự sa sút đến tận cùng của đảng Cộng sản VN, bần cùng hóa nông dân, công nhân và người lao động, lãnh đạo đảng chống tham nhũng không thật lòng, hàng loạt vụ bê bối cực kỳ nghiêm trọng không chịu giải quyết như: để bọn bành trướng vào khai thác bauxite, cho thuê bừa bãi rừng biên giới, công ty cực lớn Vinashin phá sản; các vụ Lê Đức Anh, Nguyễn Chí Vịnh, Tổng cục 2, vụ Năm Châu, Sáu Sứ, vụ T4 bị che dấu, Bộ chính trị hiện tại vẫn bưng bít cả Trung ương và Đại hội đảng; tệ chạy chức, chạy quyền đang lan tràn trước đại hội đảng, long dân than oán khắp nơi, toàn xã hội bất bình, nhức nhối, nếu không chấn chỉnh kịp thời và có hiệu quả thì hiện tượng “ lật thuyền” ắt sẽ xảy ra, vì sức dân là vô tận, chở thuyền, lật thuyền đều là ở lòng dân, ý dân, sức dân.
Mong rằng trong đảng Cộng sản vẫn còn không ít con người thật lòng yêu nước, thương dân, không bị cám dỗ bởi bả quyền lực, vật chất, tiền tài, danh vọng, nhận rõ tình hình, chân thành tự phê bình nghiêm túc, nhận ra những sai lầm của đảng, những sai lầm có hệ thống bắt nguồn từ học thuyết đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, độc quyền đảng trị, tịch thu triệt để tự do của công dân và tịch thu quyền sở hữu ruộng đất của giai cấp nông dân…
Tình hình đã chín trong nhận thức của toàn xã hội là không thể đổi mới bộ phận, từng phần, theo lối cải lương, từ từ, nhỏ giọt như ban ơn, mà cần dứt khoát, quả đoán chuyển từ hệ thống độc đoán độc đảng hiện rất đơn độc trên thế giới, sang hệ thống đa đảng trong trật tự và luật pháp, mở ra một cuộc cạnh tranh phục vụ xã hội giữa 2 hay nhiều đảng bình đẳng trước pháp luật. Nhân dân ta, giới chính trị, trí thức, tuổi trẻ nước ta thời mở cửa có thừa thông minh, tỉnh táo để xây dựng không chậm trễ nền dân chủ đa đảng, như tất cả các nước phát triển nhất, giàu mạnh nhất, tiến bộ nhất trên hành tinh này.
Ở châu Á, các nước độc tài đảng trị phần lớn đã thực hiện chế độ dân chủ đa đảng, kết thúc chế độ Pac Chung Hy, chế độ Suharto, chế độ Marcos, chế độ Tưởng Giới Thạch …, từ đó mở ra thời kỳ cất cánh ngoạn mục.
Xin mời các đảng viên trí thức và trẻ tuổi tìm đọc kỹ bài góp ý gần đây của đảng viên Nguyễn Trung, nguyên đại sứ tại Thái Lan, nhân dịp tiến tới đại hội XI, về nhu cầu cấp bách thực hiện dân chủ chân chính duy nhất là dân chủ đa đảng trong trật tự và ổn định.
Trong tình hình khẩn cấp của đất nước, tôi cũng có một giấc mơ, như cô luật sư Lê Thị Công Nhân quý mến. Bà mẹ cô từng cho biết Công Nhân là Công bằng và Nhân ái. Mỗi con người Việt Nam công bằng, nhân ái, cả xã hội Việt Nam công bằng nhân ái. Có gì đẹp, hạnh phúc hơn.
Giấc mơ của tôi cùng một hướng với giấc mơ của cô Công Nhân, nhưng có phần cụ thể hơn, gần với cuộc sống hơn, sát với những chuyển biến tôi quan sát, ghi nhận được hằng ngày.
Tôi mơ, cầu mong và phán đoán rằng mọi người có thiện chí, có tư duy lành mạnh, yêu nước thật lòng, thương dân thật lòng, mùa thu này, sẽ vẫy gọi nhau, tìm đến với nhau để thành lập một tổ chức hoàn toàn mới, có thể lấy tên là “ Tập họp Công dân Việt nam”. Hiến pháp hiện hành công nhận và bảo vệ quyền lập hội của nhân dân. Hiến pháp cũng không hề nói đảng cộng sản là đảng duy nhất hay độc nhất. Hồi 1946 đã có lúc ông Nguyễn Hải Thần thuộc tổ chức Cách mạng đồng minh hội làm phó Chủ tịch nước, 72 đảng viên Quốc dân đảng và Đại Việt là đại biểu Quốc hội. Trong Mặt trận Liên Việt có cả đảng Dân chủ VN và đảng Xã hội VN được ghi nhận là bình đẳng với các tổ chức khác, kể cả đảng Cộng sản Đông Dương hồi ấy.
Tôi mơ ước, cầu mong rằng:
- cả một lớp trí thức yêu nước, như hàng ngàn anh chị em ký thư kiến nghị về ngừng khai thác bauxite, các anh chị em đang bền bỉ nuôi dưỡng và cổ vũ mạng bauxite –infos, các vị từng tham gia Viện Nghiên cứu phát triển VN – IDS, các vị từng tham gia báo mạng Tin Sáng…
- các anh chị em văn nghệ sỹ tha thiết với tự do sáng tạo phục vụ xã hội, đông đảo các nhà báo trong số 16 ngàn có thẻ Nhà Báo thuộc báo viết, báo nói, báo mạng điện tử, các cư dân bloggers gắn bó máu thịt với tự do ngôn luận phục vụ xã hội công dân,
- các luật sư tâm huyết với nền luật pháp công bằng tôn trọng công lý và sự thật…
- vô vàn nông dân ngay thật muốn quyền sở hữu chân chính về ruộng đất được phục hồi, cùng anh chị em công nhân lao động làm thuê đòi nhân phẩm và công bằng …
- các tín đồ mọi tôn giáo tha thiết với quyền tự do tín ngưỡng thiêng liêng,
- lớp tuổi trẻ khắp nơi thức tỉnh về quyền công dân của mình,
tất cả hãy cùng nhau nô nức, đàng hoàng nối vòng tay cứu nước trong trật tự, luật pháp, tham gia một tổ chức mà tôi nghĩ là nên mang tên Tập họp Công dân Việt nam – THCDVN – để tranh đua với đảng cộng sản, trên tinh thần bình đẳng và tương kính, vừa đấu tranh ôn hòa vừa hợp tác anh em trong hoạt động phục vụ đất nước, lấy lá phiếu của gần 50 triệu cử tri làm trọng tài.
Khi tổ chức như THCDVN mà tôi mơ ước và giả định được hình thành, chắc chắn sẽ có nhiều đảng viên cộng sản đã bỏ đảng hay hiện còn trong đảng sẽ tự nguyện gia nhập THCDVN, theo quyền tự do ứng cử bầu cử được ghi trong hiến pháp, không ai có thể ngăn cản, cấm đoán.
Mọi tổ chức và cá nhân đối lập với độc tài đảng trị sẽ tập họp trong THCDVN mới có đủ sức tranh cử với đảng CS. Người lương thiện, có thiện chí trên đất nước ta không bao giờ thiếu.
Dân tộc VN ta là thế, khi tổ quốc lâm nguy, mọi người dân nhất tề đứng dậy làm nên một Hội nghị Diên Hồng thời mới, dẹp mọi hiềm khích nội bộ, vẫy gọi Yêu thương và Tranh đấu.
Với một tổ chức công khai, ôn hòa, tuân thủ luật pháp như thế, đông đảo sỹ quan, binh sỹ và cựu binh sỹ sẽ tận lực ủng hộ anh chị em ruột thịt của mình, những người mang tương lai tươi sáng của quê hương; không có lý do gì để có thể bị đàn áp bằng vũ lực, nhất là khi số tham gia lên đến hàng vạn, chục vạn công dân thức tỉnh, mang biểu ngữ chân chính: “Chúng tôi là nhân dân”, “Chúng tôi thực hiện lời nói: không có gì quý hơn độc lập tự do“, “Chúng tôi là công dân yêu nước, yêu tự do”, “Là người Việt Nam, chúng ta thương yêu đùm bọc nhau “ … nhất là khi các công dân yêu nước đòi tự do nhất loạt xuống đường trong bình tĩnh, ôn hòa, trật tự tại Hà Nội, Huế, Sài Gòn, cùng các thành phố, đô thị trong cả nước.
Khi đất nước chuyển mình từ độc đoán sang dân chủ thật sự, – vì dân chủ độc đảng chỉ là chuyện hoang đường, như không thể hòa trộn nước với lửa -, thì đó sẽ là những ngày Hội của toàn dân, tôi giả định rằng THCDVN sẽ trân trọng mời đảng CS ra tranh cử với mình, nếu đảng CS thắng cử thì đó là thắng một cách ngay thật, hợp hiến và hợp pháp, được toàn dân và thế giới công nhận đàng hoàng.
Bầu cử đa đảng trong trật tự và luật pháp sẽ là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, đẹp đẽ nhất của nước ta, dân tộc ta đĩnh đạc bước lên một nấc cao hơn về chính trị – văn hóa, gia nhập hàng ngũ đông đảo các nước dân chủ đích thật trên thế giới, vĩnh viễn từ bỏ cái thứ hạng không đẹp đẽ gì trong thống kê quốc tế của Liên Hợp Quốc, Việt Nam đứng thứ 166 / 198 nước về quyền tự do công dân và tự do báo chí. Xin ghi sâu mối nhục này.
Xin chớ có ai trong cơ quan công an và tuyên huấn ở trong nước vội chụp mũ tôi là âm mưu gây rối loạn và lật đổ. Âm mưu thì phải có nhiều người. Tôi chỉ có một giấc mơ, một mơ ước, một cầu mong cháy bỏng trong lòng và phơi bày ra minh bạch với đồng bào thân yêu.
Tôi sẽ sung sướng vô hạn khi giấc mơ như trên được thành hiện thực, vì đó có thể cũng là giấc mơ, là ước mong cháy bỏng của ngàn vạn anh chị em và đồng bào thân yêu, có chung một mối lo toan cho Quê hương Tổ quốc, có chung một hướng nghĩ về lối thoát trước những hiểm họa khôn lường ngay trước mắt của đất nước thân yêu.
Tôi đã nói đến giấc mơ của luật sư Lê Thị Công Nhân, mơ cộng sản không còn trên thế gian này. Giấc mơ đẹp đã thành hiện thực ở một loạt nước Đông Âu: Đông Đức, Tiệp, Bulgaria, Ba Lan, Hungary, Rumania, Nam Tư, rồi cả Liên Xô rộng lớn, ngay cả ở Mông Cổ xa xôi. Nghị viện châu Âu đã ra Nghị quyết lịch sử lên án chủ nghĩa cộng sản hiện thực là tội ác chống nhân loại. Đảng Cộng sản Ý đã tự giải thể. đảng CS Pháp vừa vỡ một mảng lớn khi 400 nhân vật là chính khách, dân biểu, giáo sư, trí thức đồng loạt ra khỏi đảng CS để lập tổ chức khác hẳn.
Tôi có giấc mơ đẹp như trên vì tôi hiểu dân tộc VN ta, tôi tin dân tộc VN ta yêu hòa bình, yêu tự do, yêu bình đẳng, chuộng công lý. Dân tộc ta so với nước lớn khác ở cạnh, gọn ghẽ hơn, cố kết với nhau hơn, dễ khuyên bảo nhau vì Đại Nghĩa Dân Tộc, để bứt lên, gạt bỏ mọi cản phá, tranh thủ thời gian từng tháng, từng năm, đi trước nước lớn trong chuyển mình lên dân chủ đa đảng phổ thông và tiến bộ,
Với một nước cờ chiến lược đẹp đẽ này, một nước Việt Nam hoàn toàn mới mẻ, hiện đại, dân chủ thật sự xuất hiện, được cả thế giới dân chủ chào mừng nhiệt liệt và ôm vào lòng mình, nước ta đồng thời hoàn thành 2 sự việc lớn đã bị bỏ qua: hòa giải, hòa hợp, thống nhất dân tộc trọn vẹn, cả về lãnh thổ và tinh thần, tình cảm, cộng đồng ta trong và ngoài nước kết chặt tình ruột thịt bền vững, Việt Nam hội nhập trọn vẹn với thế giới với một vị trị, uy tín cao hơn hẳn trước.
Với thế chính trị – văn hóa – kinh tế – ngoại giao mới mẻ, đẹp đẽ chưa từng có này, chúng ta sẽ lập tức có tư thế vững chãi để đối mặt với những mưu đồ bành trướng lạc lõng với thời đại mới, đồng thời giữ quan hệ bình thường, láng giềng tốt, không khiêu khích, và chân thành mong nước lớn cũng sớm bước lên nền dân chủ thứ thiệt là dân chủ đa đảng. Mọi việc lớn như phát triển bền vững với tốc độ cao, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, cải cách hành chính, cải cách giáo dục, an sinh xã hội sẽ thuận lợi hơn rất nhiều so với trước.
Tôi không tìm kiếm một danh vọng, một vị trí, một lợi ích mảy may nào khi nói lên giấc mơ và ước vọng cháy bỏng của tôi. Đây chỉ là một gợi ý chủ quan, một phán đoán, ước vọng, mong được đồng bào trong và ngoài nước xem xét, bàn luận rộng rãi và cho ý kiến.
Xin đa tạ.
Nguồn: blog Bùi Tín
Nguyễn Thanh Giang
“…Đã thấp thoáng bóng Lê Chiêu Thống hiện đại. Đất nước có nguy cơ lại rơi vào vòng đô hộ của một ngoại bang tồi tệ hơn tất cả các ngoại bang trong thế kỷ qua…”
Việt Nam kiên trì phát triển mối giao hảo với tất cả các nước trên thế giới, bất kể chế độ chính trị, trước hết với các nước láng giềng. Đây là đường lối ngoại giao đúng đắn cần quán triệt lâu dài.
Trung Quốc là nước láng giềng lớn, có mối quan hệ lâu đời đối với Việt Nam trên nhiều phương diện: tư tưởng, văn hóa, chính trị, kinh tế, quân sự … Bang giao hữu hảo với Trung Quốc lại càng cần được xem trọng. Chọc giận Trung Quốc để bị Đặng Tiểu Bình ra tay “dạy cho một bài học” là sai lầm tai hại xuất phát từ thói ngông cuồng, hợm hĩnh sau thắng Mỹ 1975 ! Ghi vào Hiến pháp: Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp càng chúng tỏ vô cùng non kém về tư tưởng chiến lược !
Nói vậy không có nghĩa cuộc binh đao 1979 là lỗi chỉ tại Việt Nam. Ai cho lũ Đại Hán kia được quyền dạy người bằng cách tàn bạo, khốn nạn như thế ? Cho nên bây giờ Hồ Cẩm Đào và Nông Đức Mạnh xuê xoa nhau: “Tuy giữa hai nước vẫn còn xẩy ra việc này việc khác và điều đó là khó tránh khỏi…” là không đúng. Bỏ cái tư tưởng Đại Hán đi, bỏ cái ý đồ cầu viện đi thì không có chuyện nhượng đất, nhượng biển, không có chuyện nước ngoài bắn giết ngư phủ đồng bào mình mà cứ lặng thinh vô cảm.
Không chỉ giao thương, mà rất nên học hỏi Trung Quốc. Về mặt văn hóa và “ thuần phong mỹ tục”, Trung Quốc gần gụi ta hơn Phương Tây, hơn Hoa Kỳ. Việt Nam và Trung Quốc đều từng cùng đã sa lầy trong vũng bùn Cộng sản lâu năm. Trung Quốc đang vùng vẫy để thoát ra dần dần một cách khôn khéo hơn. Về chuyện này có thể tôn họ làm sư huynh. Tuy nhiên, cần cảnh giác. Đừng để họ xui dại. Đừng để họ làm một đàng, xui mình làm một nẻo. Họ đi đêm với Nixon, trong khi xui mình chửi Mỹ thật thậm tệ, đánh Mỹ thật bạt mạng. Họ chạy hết cửa trước cửa sau xin được vào WTO trong khi xui mình cứ khoan khoan, để họ vào trước …
Chuyến thăm Trung Quốc cuối tháng 5 năm 2008 vừa qua là cần thiết. Ông Hồ Cẩm Đào thăm Việt Nam 3 lần. Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đáp lễ hơn một lần cũng có thể xem là để tỏ ra biết điều. Vả chăng, trước khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Hoa Kỳ, ông Nông Đức Mạnh đi Trung Quốc, dẫu là chuyện cực chẳng đã, thì cũng đành cho phải phép.
Đi để “đưa quan hệ Việt-Trung tiếp tục phát triển lên tầm cao mới” thì cứ làm. Nhưng, để tiến tới “Hai bên cùng lập nhiều cơ chế hợp tác giữa các bộ, ngành, giữa các địa phương giáp biên giới hai nước, đặc biệt là cơ chế Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương để chỉ đạo và điều phối sự hợp tác Việt Nam- Trung Quốc trên tất cả các lĩnh vực ” là đã thấy phải xem xét thận trọng.
Đến mức tuyên bố chung: “Hai nước sẽ thiết lập đường dây nóng giữa các nhà lãnh đạo” thì không thể không đặt vào đây một dấu hỏi lớn. Vì sao làm ăn kinh tế, giao thương văn hóa… mà lại phải có đường dây nóng ? Đây là lần đầu tiên thiết lập đường dây nóng giữa lãnh đạo ta và lãnh đạo nước ngoài. Thời chiến trước đây cũng chưa từng phải thiết lập đường dây nóng với Liên Xô, Trung Quốc bao giờ. Đề phòng ai đây ? Dằn mặt ai đây ?
Đường lối mèo không ra mèo, chuột không ra chuột: “Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ” tạo ra trong xã hội nói chung và trong lãnh đạo đảng CSVN nói riêng hai phe phái ngày càng trở nên đối địch nhau. Trước hết, do cách làm kinh tế thị trường không đích thực mà dở giăng dở đèn, người ta đã lợi dụng một chút ranh ma “ kinh tế thị trường ”, một chút lăng nhăng, lơ mơ “ định hướng xã hội chủ nghĩa ” để hình thành một tầng lớp tư bản đỏ và địa chủ cộng sản một cách rất bạo liệt. Nếu Mác nói: “ Chủ nghĩa tư bản đẻ ra giai cấp công nhân để chính giai cấp công nhân đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” thì chúng tôi nói: “ Đường lối cơ hội “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đẻ ra giai tầng tư bản đỏ cùng địa chủ cộng sản và chính họ đang đào mồ chôn CNXH ở Việt Nam ” (chứ không phải mấy ông dân chủ hay bọn phản động).
Tư bản đỏ và địa chủ cộng sản muốn sống được thì phải bám Phương Tây, bám Hoa Kỳ.Vào WTO rồi mà rời Phương Tây, rời Hoa Kỳ là chết. Chinh phủ muốn có thị trường xuất nhập khẩu để bảo đảm chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm hiện đại hóa …cũng không thể không thân Phương Tây, thân Hoa Kỳ. Đường lối thân Phương Tây, thân Hoa Kỳ hợp lòng dân hơn. Phái “Kinh tê thị trường”, trong đó có Chính phủ và Nhà nước lại được tư bản đỏ và địa chủ cộng sản phù trợ hơn nên có thế hơn. Dư luận cho rằng cần có Đại hội Đảng giữa nhiệm kỳ để thống nhất chức Chủ tịch Nước và Tổng bí thư vào tay ông Nguyễn Minh Triết, hoặc là đưa ông Nguyễn Thiện Nhân lên ghế thủ tướng để thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lên làm Tổng bí thư. Phái “Định hướng xã hội chủ nghĩa” vừa không được tư bản đỏ cung phụng nhiều bằng phái kia, vừa không được lòng dân nên yếu thế. Muốn cố thủ mấy cái ghế, họ đành tìm sức mạnh ở sự bảo hộ của ngoại bang. Ghế là quyền, quyền không chỉ đẻ ra tiền để dược phè phỡn mà còn được ngất ngây trong tung hô, trong phỉnh nịnh. Cho nên phải sống chết mà giữ lấy ghế. Bằng mọi thủ đoạn, kể cả đánh giết nhau. Lặng lẽ là ám sát, đầu độc, quyết liệt thì dàn quân ra mà xả đạn, trút bom lên đầu … dân chúng !
Ứng viên tổng bí thư Lâm Bưu đã từng tan xác trên máy bay. Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, tổng bí thư Triêu Tử Dương ….đã từng bị các đồng chí trong Bộ Chinh trị cho chết rũ xác trong lao tù cộng sản.
Ở Việt Nam dường như cũng đã có dấu hiệu chẳng lành. Ai đã đánh bom nhà thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sạt cả cổng sắt hồi Tết năm ngoái ? Không thể là dân thường, cũng không phải bọn “phản động” trong hay ngoài nước… Bởi nếu thế thì báo chí đã đưa tin kẻ này, kẻ kia bị trừng trị rồi.
Tin một vị chức sắc của Tổng cục 2 tuyên bố: Tổng cục 2 đã có công bảo vệ sự lưu nhiệm cho tổng bi thư Nông Đức Mạnh và ngăn chặn sự xuất hiện Gorbachev ở Việt Nam thì chưa được kiểm chúng rõ ràng, nhưng tin tổng bi thư Nông Đức Mạnh đến trao danh hiệu Anh hùng Lao động cho tổng cục 2 thì báo chi đã đăng rành rành.
Sao lại vô nguyên tắc đến thế ! Sao lại ngang nhiên chà đạp lên Hiến phap như thế! Đảng chỉ lãnh đạo chứ Đảng đâu có quyền làm thay, có quyền qua mặt lấn sân Nhà nước! Trao bằng sắc, danh hiệu này nọ phải là việc của chủ tịch nước hay thủ tướng chứ!
Lại nữa, Tổng cục 2 là anh hùng thời chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ thì được nhưng đã lòi ra Vụ T4 mà còn được tặng danh hiệu Anh hùng thời Đổi mới thì vỗ mặt nhau thẳng cánh quá, chà đạp dư luận, chà đạp lẽ phải và công lý thẳng thừng và trơ tráo quá !
Hồi mới lên, ông Nguyễn Tấn Dũng hăng hái muốn chứng tỏ chống tham nhũng mạnh mẽ hơn người tiền nhiệm nên bất chấp con rể Nông Đức Mạnh đang là yếu nhân trong PU18, bất chấp Đảng đang cơ cấu Nguyễn Việt Tiến vào Trung ương để chuẩn bị ngồi ghế bộ trưởng vẫn ra lệnh tống giam Nguyễn Việt Tiến.
Bây giờ người ta quật lại, không chỉ thả Nguyễn Việt Tiến mà còn phục hồi đảng tịch. Thả Nguyễn Việt Tiến thì phải tống tù một người nào đó it nhất tương đương Nguyễn Việt Tiến chứ. Sao lại chỉ bắt giam hai nhà báo? Hỏi rằng, ai đã chỉ đạo cả một chiến dịch với hàng ngàn bài báo và hai cuốn sách bôi nhọ một cán bộ cao cấp của Đảng ? (đến mức đưa tin lột truồng cave ra, đổ bia cả vào chỗ kín của thị mà liên hoan tập thể với nhau !). Bôi nhọ cán bộ cao cấp của Đảng tức là bôi nhọ Đảng đến thế còn gì!
Trận trả đòn điên cuồng đang diễn ra, bất chấp dư luận, bất kể danh dự, uy tin Đảng này chứng tỏ cơn cuồng nộ của họ đã dẫn họ đến trạng thái mất trí.
Trạng thái mất trí này hoàn toàn có khả năng sẽ còn khiến họ làm những việc khủng khiếp không lường được.
Thực tế đã đánh giá lời tuyên bố huênh hoang sau chiến thắng 75 của ông Lê Duẩn: Đất nước từ nay vĩnh viễn sạch bóng quân xâm lược. Dẫu sao, chắc hẳn trong vòng mươi lăm năm tới, không nước nào dám, cũng không nước nào dại gì xâm lăng Việt Nam, ngoại trừ Trung Quốc. Vậy thiết lập đường dây nóng với Trung Quốc để đề phòng ai? Dự định đánh nhau với ai ? Phải chăng sẽ là với các “ đồng chí phản động ” trong Bộ Chính trị như kiểu Triệu Tử Dương ? Hay là, chuẩn bị đối phó với “Thiên An Môn Việt Nam” bằng những sát thủ đã dầy dạn kinh nghiệm?
Có lẽ họ biết họ sẽ không dễ dàng xua bộ đội Việt Nam, công an Việt Nam thảm sát nhân dân Việt Nam. Bộ Chính trị chia hai phái thì quân đội, công an không thể hoàn toàn thuộc về họ. Nhất là họ it được lòng dân hơn. Cho nên…
Đảng CSVN đã nhiều phen chia làm hai phái. Nhờ phái có xu hướng dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quôc thắng phái cộng sản quốc tế cực đoan của Trần Phú, Hà Huy Tập mà có Cách Mạng Tháng Tám, có Điện Biên Phủ. Do phái chủ trương giải phóng Miền Nam bằng bạo lực với mọi giá của Nguyễn Chi Thanh, Lê Đức Thọ, Lê Duẩn khống chế được phái đã có lúc nghiêng về chủ trương thống nhất đất nước bằng thi đua hòa bình của Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh mà dân tộc lâm vào cuộc thảm sát Mậu Thân… rồi bị quốc tế tẩy chay, bị Mỹ cấm vận… để đến nay đất nước vẫn còn khốn đốn và ngày càng tụt hậu xa so với thế giới.
Bây giờ, vận mệnh dân tộc sẽ ra sao nếu phe phản động chế ngự được phe cấp tiến ? Không, nhất định không thể để như vậy. Hãy sáng suốt kịp thời nhìn nhận cho rõ và quyết tâm ngăn chặn bọn này. Đã thấp thoáng bóng Lê Chiêu Thống hiện đại. Đất nước có nguy cơ lại rơi vào vòng đô hộ của một ngoại bang tồi tệ hơn tất cả các ngoại bang trong thế kỷ qua.
Tôi xin khẩn thiết cảnh báo và tha thiết kêu gọi.
Hà Nội, 16 tháng 6 năm 2008
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Điện thoại: (04) 5 534 370
http://www.nguyenthanhgiang.com/
Comment: Vâng, thưa đồng chí Trực Ngôn. Những điều bác Trực Ngôn mừng là chính đáng, nhưng chúng tôi chưa mừng vội. Cái hiện tượng sự việc đôi khi nó diễn ra khác bản chất sự việc, nhất là ông bộ trưởng này chưa phải là thủ tướng hay tổng bí thư, cứ đợi đấy xem trò: Tom và Zery. Chừng nào ông tổng đảng, tổng chính phủ nói được như thế thì thiên hạ may ra mới có cơ duyên thay đổi, chứ vẫn cái đà này thì dân ta vẫn phải mang ơn mưa móc, rằng: ơn đảng, ơn chính phủ đã cho dân ăn bánh vẽ!
Còn anh Mỹ ấy à, đấy là anh ấy dại, anh ấy cứ ưỡn ngực mà đi nhanh và đi thẳng, như thế thì lộ hết. Chúng ta đã đi chậm, mà lại còn đi vòng, phải vừa đi vừa ẩn nấp ra vẻ bí mật để làm cú bất ngờ cho thế giới bị sốc, nhưng lại vỗ ngực là đi tắt đón đầu. So sánh với Mỹ thì thật là châm biếm và hài hước
——————————————————-
Tác giả: Trực Ngôn
Bài đã được xuất bản.: 30/07/2010 08:45 GMT+7
Phát ngôn Hành động tuần này trở lại với tín hiệu vui từ phát biểu của Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường Phạm Khôi Nguyên cùng nỗi day dứt sau sự kiện ông Nguyễn Trường Tô.
Bà con ơi! lại đây mà xem một ông… Bộ trưởng:
Xin bạn đọc hãy đọc bài báo có tên: ‘Bộ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường: Thừa chứng cứ kiện Vedan” trên Tuổi Trẻ để thấy được thái độ vì dân của một Bộ trưởng. Phải thú thật, lâu lắm rồi tôi mới được thấy một Bộ trưởng có những phẩm chất mà người dân mong muốn. Tôi thực sự xúc động với những gì ông Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên thể hiện trong cuộc họp sáng ngày 28/7 về vụ nông dân kiện Vedan. Cho dù chỉ là đọc một bài báo ngắn, nhưng tôi thấy những lời lẽ rành mạch, một thái độ cương trực và một tấm lòng thực sự vì người dân của ông Bộ trưởng.
Hãy nghe ông nói: “Chủ trương của chúng ta là muốn cho Vedan sửa chữa khuyết điểm, nhưng Vedan vẫn ngoan cố thì chúng ta sẽ làm đúng theo trình tự pháp lý để kiện Vedan. Đương nhiên với những sai phạm và mức độ gây thiệt hại được chứng minh đầy đủ, khi chúng ta kiện chắc chắn sẽ thắng và thắng đúng như mong muốn của nông dân….
Sau thời gian qua, bản chất của Vedan đã thấy rất rõ. Cái gì Vedan lách được là tìm cách để lách, lợi dụng được cái gì là lợi dụng ở mức cao nhất. Cả ba tỉnh thành phải liên kết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho người dân”.
Chúng ta hãy nghe ông lên tiếng cảnh báo kẻ đã “làm hại” người dân: “Kiện Vedan chưa phải đã là xong. Hiện nay Vedan vẫn còn nhiều vấn đề khác nữa. Chúng ta lấy nhân nghĩa của người Việt Nam để xử lý nhưng nếu Vedan tiếp tục ngoan cố, Bộ Tài nguyên – Môi trường sẽ cùng Bộ Công an làm tiếp một số vấn đề khác của Vedan, kể cả chuyện đất đai của Vedan hiện nay”
Rồi ông thẳng thắn phê phán sự “thờ ơ” của Đồng Nai trong việc bảo vệ lợi ích của người dân: “Mọi cơ sở khoa học đều công bố hết rồi, giờ các anh còn nói lúng túng cái gì? Số 119 tỉ đồng là do tỉnh phê duyệt và đề nghị bồi thường thì các anh phải bảo vệ con số này. Anh đề nghị một đằng nhưng ra hội nghị anh lại nói một nẻo. Tư cách một phó giám đốc sở nói ở hội nghị như thế là không được. Tôi đề nghị tỉnh Đồng Nai phải kiểm điểm, nói thế Vedan sẽ lợi dụng ngay”.
Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên: “nếu Vedan tiếp tục ngoan cố, Bộ Tài nguyên – Môi trường sẽ cùng Bộ Công an làm tiếp một số vấn đề khác của Vedan”, Ảnh Tuổi Trẻ
Kính thưa bạn đọc, không một mỹ từ, không một nhận xét hay chỉ đạo chung chung, không kiểu nói ai cũng vừa lòng là những gì chúng ta nhận thấy từ phong cách và thái độ làm việc của Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên. Đây tưởng là chuyện thường tình và là lẽ đương nhiên của một ông Bộ trưởng. Thế mà, ngày ngày chúng ta xem tivi, ngày ngày chúng ta đọc báo và ngày ngày chúng ta nghe đài nhưng hình ảnh về một ông Bộ trưởng như vậy lại không nhiều.
Ở buổi làm việc sáng ngày 28/7 chúng ta không nhận ra từ Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên những lời hứa như một số vị Bộ trưởng đã làm cho chúng ta mệt mỏi. Trong những năm tháng này, việc làm như của Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên đã làm cho lòng ta ấm lại và thấy niềm tin thức dậy. Và ta lại nhớ tới những cán bộ vì lợi ích của cá nhân mình mà bước qua lợi ích của người dân hoặc thờ ơ.
Có thể những dòng này của tôi đã quá xúc động. Nhưng sự quá xúc động này cho thấy chúng ta đã đợi chờ những ông quan, bà quan vì lợi ích của người dân như thế nào. Sự xúc động này được “kích” lên gấp bội khi mới đây chúng ta phải chứng kiến những việc làm của bà Cúc Bí thư Tiền Giang.
Người nông dân lâu nay đâu có mong muốn gì cao siêu lắm đâu từ những người lãnh đạo. Họ đâu dám mong lãnh đạo “thiên vị” họ trong công trình này, dự án kia mà chỉ mong lãnh đạo hãy công bằng giữa những chủ dự án, chủ công trình với những người nông dân mà những dự án, những công trình đó liên quan đến đời sống của họ và tương lai con cái họ.
Nếu viết chuyện về hành động của Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên đấu tranh cho lợi ích của người dân theo tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc diễn nghĩa thì Trực Ngôn tôi sẽ tạm kết thúc chương này như sau:
Sau khi Khôi Nguyên Bộ trưởng rời khỏi phòng họp có thơ khen rằng:
Tả xung hữu đột ấy anh hùng
Căm giận Vedan lửa bừng bừng
Gạt lệ nhìn sông, lên ngựa chiến
Ngày về vang động tiếng vui chung
Nước Mỹ nguy rồi:
Theo bản tin Telegraph: Hai cô con gái của Tổng thống Barack Obama là Malia và Sasha có thể đi trông trẻ để kiếm thêm tiền. Tổng thống Obama nói “Malia và Sasha đã đủ tuổi để có thể bắt đầu kiếm tiền bằng công việc trông trẻ. Chúng cũng có tài khoản tiết kiệm riêng của mình…”
Ông tâm sự “Chúng tôi cũng trăn trở về hai đứa con nhỏ và phải tìm cách để tiết kiệm đủ cho chúng vào đại học. Chúng tôi nhìn vào tài khoản hưu trí của mình và tự hỏi liệu số tiền đã đủ cho cuộc sống sau này chưa.”
Những gì Tổng thống Mỹ tâm sự là sự thật. Thế này thì nước Mỹ nguy rồi! Nỗi lo của một Tổng thống mà là Tổng thống của nước Mỹ có làm cho chúng ta ngạc nhiên không? Với tôi, tôi thực sự ngạc nhiên và tôi biết rằng nước Mỹ sẽ còn lớn mạnh nữa khi họ có những Tổng thống như thế.
Lại nhớ đến chuyện cựu Tổng thống Bush có ảnh quảng cáo cho một nhà hàng ở Mỹ mà lòng suy nghĩ mung lung. Có hai điều tôi muốn nói trong chuyện này. Một, sau khi rời ghế Tổng thống của một cường quốc, người đứng đầu quốc gia ấy lại trở về sống như mọi công dân bình thường. Hai, một cựu Tổng thống không hề thấy xấu hổ khi đứng ra làm quảng cáo cho một sản phẩm hay một nhà hàng vì họ vẫn phải lao động để sống và để tiếp tục tu dưỡng làm người.
Trong khi đó, một số những cán bộ quyền chức nước ta sau khi về hưu không sao trở lại cuộc sống đời thường được nữa và không phải làm gì vì bổng lộc thu được lúc đương nhiệm quá thừa mứa. Ví như một ông Chủ tịch thành phố mang nộp tổ chức tiền người ta lễ tết một năm là 4 tỉ đồng. Đấy chỉ là một năm và mới chỉ là tiền mừng tuổi thôi nhé. Chỉ cần “im lặng” một năm là khi về hưu ông Chủ tịch kia đã có 4 tỉ gửi ngân hàng lấy lãi để sống rồi.
Bỗng tôi lại nhớ đến một Giám đốc nhà nước ở một tỉnh phía Nam khi kê khai tài sản thấy con trai ông ta đang học PTTH đã sở hữu mấy ngàn mét đất. Đấy mới chỉ là một ông giám đốc quèn cấp tỉnh thôi nhé.
Bạn đọc có nhớ câu chuyện trên một tờ báo của ngành Công An cách đây dăm bảy năm nói về một cậu ấm con một cán bộ đã mở tủ lấy tiền của mẹ mua 7 chiếc xe @ tặng bạn bè nhân sinh nhật cậu ta không? Và còn bao câu chuyện đắng cay khác về các quý cô, quý cậu con các quan chức đã tiêu tiền như thế nào, đi xe hơi loại gì, uống một đêm mười mấy triệu ở quán bar ra sao.
Các quan đã làm gì để có nhiều tiền như “giấy lộn” như thế? Chỉ có tham ô, chỉ có tham nhũng và chỉ có hối lộ mà thôi hoặc lợi dụng sơ hở của luật pháp mà ta thường gọi là “lách luật” hay lợi dụng quyền chức như ông Thứ trưởng Mai Văn Dâu để vơ vét mà thôi.
Các ông quan như thế vừa tham vừa dốt. Nếu tôi có quyền chức cộng với lòng tham lam của tôi mà có nhiều tiền thì tôi sẽ khôn hơn họ một chút. Tôi sẽ dùng tiền đó cho con cái học hành đến nơi đến chốn để làm người.
Làng tôi có một bà cụ từng đi ăn trộm cám lợn để nuôi con trong những năm đói khát xưa kia nhưng đã không cho các con biết tội lỗi của mình. Khi các con bà đều trở thành cử nhân, bác sỹ bà mới kể lại chuyện đó và khuyên các con hãy học cho giỏi giúp xã hội để có thể xóa đi một phần tội lỗi của bà. Sau này, hầu hết các con bà đều trở thành tiến sỹ, giáo sư thật sự chứ không phải tiến sỹ, giáo sư mua bằng.
Nhưng những ông quan tham ngày nay không có đủ lòng xấu hổ và tự trọng như bà cụ làng tôi. Bởi thế, các quan tham trút tiền vào túi các quý cô, quý cậu của họ, và quá nhiều các quý cô, quý cậu đã trở thành những kẻ nghiện đứng nghiện ngồi và đắm chìm trong hưởng lạc. Lối sống của những ông quan bà tướng như thế không chỉ giết chết gia đình họ.
Ông Nguyễn Trường Tô
Nghề mới của ông Tô và một bức thư ngỏ
HĐND tỉnh Hà Giang đã có cuộc họp bất thường thông qua các nghị quyết bãi nhiệm đại biểu HĐND và chức vụ chủ tịch UBND đối với ông Nguyễn Trường Tô và khẳng định “Hà Giang không mất đoàn kết nội bộ”.
Khi câu hỏi của báo chí đặt ra là công việc của ông Nguyễn Trường Tô sẽ được bố trí thế nào sau khi bị kỷ luật khai trừ Đảng và cách hết các chức vụ thì được một lãnh đạo tỉnh trả lời “Đồng chí Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang và đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Hoàng Minh Nhất đã có ý kiến về vấn đề này. Ông Tô bây giờ là một công dân bình thường, vẫn là cán bộ công chức nhà nước nên vẫn có thể đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh. Vì vậy, trước hết chúng tôi chờ ý kiến, nguyện vọng của ông Tô, sau đó Ban thường vụ Tỉnh ủy sẽ xem xét”.
Không biết nguyện vọng của ông Tô thế nào nhưng thế nào cũng thật khó cho ông. Đương là Chủ tịch thét ra lửa với cấp dưới trong toàn tỉnh chẳng lẽ bây giờ lại thưa gửi với một đồng chí Phó Ban hay Phó phòng ở tỉnh vì nguyên tắc thỉnh thị báo cáo là phải thế. Tất nhiên cũng chẳng ai tỏ ra thế này thế nọ với ông Tô. Nhưng có lẽ ông Tô cũng không chịu được cảnh đó vì nó buồn và khó xử đến thế nào.
Cho dù có tiếp tục làm việc thì ông Tô cũng chẳng còn lòng dạ nào mà đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh nữa. Nếu là người phụ trách tổ chức của Hà Giang, tôi sẽ khuyên ông Tô nghỉ hưu. Nghỉ hưu rồi cũng đừng ở thành phố. Nếu ông Tô có quê thì hãy trở về quê mà sống trong tĩnh lặng để suy ngẫm về cuộc đời này và ngày đêm hương khói cho tổ tiên.
Kinh nghiệm cho thấy người bạn chia sẻ lớn nhất và chân thành nhất với ông Tô những năm tháng này chính là thiên nhiên và những người dân quê hiền lành và nhân ái. Có thể khi đương chức, ông Tô không để ý đến tán lá kia, bông hoa kia, tiếng chim kia, đám mây kia, ngọn gió kia và những người thôn quê lam lũ kia. Nhưng tôi cam đoan rằng tất cả những gì tôi nói trên không vì thế mà tránh xa ông hay khinh bỉ ông.
Thiên nhiên sẽ chia sẻ với ông công bằng như với mọi người. Những người thôn quê sẽ chia sẻ với ông như nhân dân đầy lòng che chở và bao dung cho những đứa con của mình kể cả những đứa con khi quyền cao chức trọng đã lãng quên họ và thậm chí phản bội họ. Nhân dân mình vĩ đại lắm. Đừng e ngại và đừng nghi ngờ đồng chí Tô nhé.
Tôi cũng thành thật khuyên ông đừng hy vọng nhiều vào sự chia sẻ của những người đã mượn danh, mượn uy của ông khi ông đương chức để làm ăn và những kẻ nịnh nọt ông để tiến thân. Còn việc “đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của tỉnh”, ông không chỉ đóng góp cho sự nghiệp của tỉnh mà ông có thể đóng góp cho sự nghiệp của đất nước chỉ bằng một cách thôi mà sẽ là một đóng góp rất lớn.
Đọc đến đây chắc sẽ có một số bạn đọc mỉm cười nghĩ rằng tôi định nói máy nói móc gì đây. Không. Tôi nói thật chứ không hề bóng gió gì. Có bạn đọc sẽ hỏi: Vậy thì theo ông Trực Ngôn, ông Tô phải làm gì để đóng góp lớn cho đất nước sau khi bị kỷ luật?
Vâng. Tôi xin trả lời: ông Tô chỉ cần viết một lá thư gửi cho các đồng chí lãnh đạo ở các tỉnh, các bộ, ngành. Nội dung lá thư đó với danh nghĩa của người đã vấp ngã khuyên các đồng chí có cấp quyền như mình hãy sống một cách trong sạch.
Đã từng là một Chủ tịch tỉnh, ông Tô quá hiểu những con đường dẫn một cán bộ có quyền có chức đến sự hư hỏng dễ như thế nào. Vì nếu những người chưa bao giờ giữ một cái “bỉ chức” nào như Trực Ngôn tôi đây mà nói thì ai thèm nghe. Họ sẽ mắng tôi: Trực Ngôn kia, người thật hàm hồ và ấu trĩ, người đã làm quan bao giờ đâu mà người biết được cái chuyện khi người ta có quyền có chức nó như thế nào.
Nhưng ông Tô nói thì họ phải chịu. Nếu làm được như thế thì đóng góp của ông Tô cho sự trong sạch và phát triển của xã hội sẽ lớn nhường nào. Phải không bạn đọc và các đồng chí?
http://tuanvietnam.net/2010-07-30-pn-and-hd-chuyen-mot-ong-bo-truong-va-thu-ngo-cua-ong-to
Tôi đang đọc lại Tam Quốc Diễn nghĩa đến hồi “ Gia Cát Lượng khéo chối từ Lỗ Túc.Triệu Tử Long lừa mẹo lấy Quế Dương ” thì một cụ lão thành đưa cho mấy bản “ Tin tham khảo nội bộ ” có mấy bài nói về Trung Quốc dự định đánh Việt Nam ( ? ) Trước khi phát biểu cảm tưởng về mấy bản tin trên mạng Sina- Tàu ấy, tôi xin chép lại đây nguyên văn đoạn truyện vừa đọc để “ ôn cố tri tân ” :
“ Chu Du thấy Khổng Minh lấy được Nam Quận, lại nghe tin mất cả Kinh Châu, Tương Dương rồi, trách nào chẳng tức? Du tức quá, uất lên, nằm ngất đi hồi lâu mới tỉnh. Các tướng khuyên giải hai ba lần. Du nói:
- Nếu không giết được Gia Cát Lượng đi, thì làm sao ta hả dạ được ? Trình Phổ hãy gíúp ta, đánh lấy lại Nam Quận cho Đông Ngô.
Đang nói chuyện thì Lỗ Túc đến. Du nói:
_ Ta muốn cất quân quyết một trận sống mái với Lưu Bị và Gia Cát Lượng để đoạt lại thành trì, Tử Kính giúp ta một tay.
Túc nói:
- Không nên! Hiện nay ta với Tào Tháo còn đang kình địch, chưa biết được thua thế nào. Vả lại chúa công cũng chưa hạ được Hợp Phi. Ta với Huyền Đức không nên thôn tính lẫn nhau, quân Tào thừa cơ kéo đến thì nguy lắm. Huống chi, Huyền Đức lại quen thân với Tào Tháo. Nếu ta làm quá, hắn tất dâng thành trì cho Tào Tháo, hợp sức lại đánh Đông Ngô, thì làm thế nào ?”.
Đó là chuyện mấy ông tướng Tầu xưa khuyên mấy ông tướng cha ông họ. Còn ta ngày nay, hãy xem họ đang thèm khát điên cuồng đến mức nao ? đáng sợ đến mức nào ? và, ta phải làm gì ?.
Biển Đông – nguồn lợi sống còn, Việt Nam – con đường tiến tới –
Trước hết, xin giải thích ý nghĩa vế hai của tiêu đề này.
Số là, trong cuộc gặp mặt giữa đại biểu bốn đảng Cộng sản: Việt Nam, Trung Quốc, Indonexia và Lào tại Quảng Đông tháng 9 năm 1963, Thủ tướng Chu Ân Lai nói: “ Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên, rất mong đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam Châu Á ”. Quyết liệt và hung hăng một cách vĩ đại hơn, trong cuộc hội đàm với đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963, Mao Trạch Đông còn tuyên bố thẳng thừng: “ Tôi sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Châu Á ”. ( Tất nhiên cả đạo quân biển người ấy phải ào ạt quét qua Việt Nam ).
Đến thế mà, thật lạ kỳ là, chính ở nước ta từng đã có những người lãnh đạo rất ủng hộ ý đồ xâm lăng này của Trung Quốc. Báo cáo của Bộ Quốc phòng tại Hội nghị Quân ủy Trung ương mỏ rộng ngày 24 tháng 8 năm 2004 do Bộ trưởng Phạm văn Trà chủ trì có những đoạn sau: “ Tại Châu Á-Thái Bình Dương, Mỹ xác định việc tiếp tục duy trì sức mạnh quân sự và chi phối quân sự nhằm: ….. hạn chế và tiến tới triệt tiêu ý đồ lôi kéo Đông Á và Đông Nam Á vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc”, “ Mục tiêu của Mỹ không phải là biến Việt Nam thành một thị trường để góp phần điều tiết nền kinh tế Mỹ, mà là xây dựng Việt Nam thành một khu vực điều tiết nhập siêu Trung- Mỹ, một hàng rào kinh tế ngăn ngừa sự phát triển của Trung Quốc xuống Đông Nam Á ”.
Thấy như là, Bộ Quốc phòng ta, dưới quyền lãnh đạo của bộ trưởng Phạm văn Trà lo ngăn chặn Hoa Kỳ để mong được Trung Quốc thôn tính Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, hơn là lo bảo vệ tổ quốc mình. Cho nên, bức xúc quá, lúc ấy tôi đã phải viết bài có cái tên rất thảng thốt: “ Bộ Quốc phòng rời bỏ nhiệm vụ chính của mình. Cảnh báo nguy cơ mất nước ”.
Bây giờ bàn về cái quyền lợi sống còn của Trung Quốc-Biển Đông.
Với diện tích 3,5 triệu km2, có trữ lượng 50 tỷ tấn dầu mỏ, 15.000 tỷ mét khối khí thiên nhiên, Biển Đông được xem là Vùng Vịnh thứ hai của thế giới. Hơn 200 công ty dầu khí của nhiều nước tham gia tìm kiếm, thăm dò, khai thác đã khoan hơn 1.000 giếng khoan tại quần đảo Trường Sa.. Tại đây, Việt Nam đã khai thác được hơn 100 triệu tấn dầu, 1.500 tỷ mét khối khí, thu được hơn 25 tỷ USD. Ngoài dầu khí, Biển Đông còn có 116 loại khoáng sản khác nhau, trong đó 89 loại khoáng sản đã thăm dò được trữ lượng với 1.400 vị trí có thể khai thác.
Cận kề miếng mồi khổng lồ béo bở như vậy mà Trung Quốc lại đói dầu. Trung Quốc đã bắt đầu phải nhập khẩu dầu thô từ 1993, và đến nay, đã trở thành quốc gia nhập khẩu dầu thô vào loại hàng đầu thế giới. Từ 1993 đến 2002 nhu cầu về dầu lửa của Trung Quốc tăng gần 90%, trong khi sản xuất trong nước tăng chưa đến 15%.. Dự tính đến năm 2030, lượng dầu thô tiêu thụ của Trung Quốc sẽ đến 10 triệu thùng ngày, trong khi lượng sản xuất nội địa chỉ đáp ứng được 20% số đó
Biển Đông là một trong những tuyến đường biển nhộn nhịp nhất thế giới. Quá nửa số tầu chở dầu cỡ lớn thế giới đều qua Biển Đông. Lượng tầu chở dầu qua Biển Đông nhiều gấp 5 lần qua kênh đào Suez, gấp 15 lần qua kênh đào Panama. Biển Đông cũng là tuyến giao thương đối ngoại quan trọng của Trung Quốc, chẳng những thế, còn có vai trò rất quan trọng đối với an ninh năng lượng Trung Quốc. 88% lượng dầu nhập khẩu của Trung Quốc phải đi qua Biển Đông, trong đó 48% là từ Trung Đông, 22% từ các nước Châu Á- Thái Bình Dưong, 18% từ Châu Phi.
Án ngự Biển Đông là khống chế được tuyến đường vận chuyển dầu mỏ huyết mạch của Hoa Kỳ và Nhật Bản. Đặc biêt, quần đảo Trường Sa ở vào vị trí xung yếu trên tuyến đường từ Thái Bình Dương đi Ấn Độ dương nên không chỉ án ngự tuyến đường vận chuyển khu vực Biển Đông mà còn có thể làm phát sinh ảnh hưởng lớn đối với eo biển Malacca.
Thèm khát đến cuồng nộ -
Thời gian gần đây, trên mạng Sina-Tàu xuất hiện một chiến dịch rầm rộ với hàng loạt bài viết sặc mùi kích động chiến tranh: “ Thu hồi quần đảo Nam Sa quan trọng hơn đảo Đài Loan ”, “ Việt Nam gây nên nhiều nỗi lo cho Trung Quốc ”, “ Trung Quốc và Việt Nam khó tránh khỏi lại đánh nhau ở Trường Sa ”, “ Tiến công Việt Nam theo kế hoạch A: đánh một trận, thiên hạ sẽ ổn định ” v v…
Dễ nhận ra rằng, tác giả các bài viết này không hẳn là những trí thức, những nhà văn, nhà báo bình thường mà phải là những nhà chính trị, quân sự, những nhà tư tưởng – văn hóa, những nhà tâm lý chiến …
Họ đặt vấn đề rất rạch ròi: “ Trong giai đoạn hiện nay, việc thu hồi quần đảo Nam Sa quan trọng hơn thu hồi Đài Loan. Vấn đề Đài Loan là vấn đề nội chính của nước ta, sớm muộn cũng sẽ giải quyết, còn vấn đề Trường Sa là vấn đề hiện thực không thể không giải quyết, là vấn đề liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi biển, là vấn đề chống xâm lược nước ngoài, thu hồi vùng đất đã mất, là vấn đề lớn cần phải giải quyết trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước… Nếu chúng ta thu hồi quần đảo Nam Sa, xây dựng tuyến phòng thủ trên biển Nam Trung Hoa, tuyến đường vận chuyển trên biển của chúng ta sẽ bảo đảm, điều này sẽ có lợi cho phát triển kinh tế của đất nước, cũng là bộ phận hợp thành quan trọng của chiến lược biển của chúng ta ”.
Trên cơ sở nhận định: “ Môi trường chung quanh Trung Quốc hiện nay tương đối ổn định. Phía Đông, đã hòa dịu quan hệ với Nhật Bản; phía Bắc đã cùng Nga hoàn thành việc ký kết hiệp định biên giới; phía Tây Tạng đã bố trí lực lượng mạnh hình thành sự răn đe đối với Ấn Độ; quan hệ với Đài Loan cũng đang phát triển một cách lý tính, khi cần thiết sẽ dùng Đài Loan để kiềm chế Nhật Bản ”, họ cho rằng phải “ Đánh Việt Nam để nâng cao ý chí của quân đội Trung Quốc, để cho người Hàn Quốc thấy quân đội Trung Quốc liệu có phải là đội quân chỉ ở tầm thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai như người Hàn Quốc nghĩ hay không? Để cho các chuyên gia quân sự Mỹ thấy quân đội Trung Quốc liệu có phải là đội quân không có ý chí chiến đấu như họ đánh giá hay không? Để cho Nhật Bản thấy nếu không ngồi xuống đàm phán thì Trung Quốc cũng có thể tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ lợi ích của mình. Cuộc chiến tranh này đáng đánh, có thể đánh được. Phải nhằm thẳng vào Việt Nam đánh mạnh.”..Họ quả quyết rằng: “ Muốn kiểm soát lại Đông Nam Á cần chinh phục Việt Nam. Chinh phục Việt Nam là bước đầu tiên, cũng là bước quan trọng nhất để Trung Quốc mở rộng về phía nam ”.
Trên cơ sở phân tích “ Địa hình Việt Nam rất đặc thù, ví von một cách thông tục thì Việt Nam giống như một con rắn nước kỳ quái nằm ở cực đông của bán đảo Trung Nam ”, họ vạch kế hoạch tác chiến cụ thể: “ Làm thế nào chế phục được Việt Nam – “ con rắn kỳ quái ” – này ? Điều chủ yếu quyết định bởi việc làm thế nào nhanh chóng chặt đứt đầu rắn. Tục ngữ Trung Quốc có câu “ Đánh rắn phải đánh vào đốt thứ 7, vị trí đốt thứ 7 là chỗ hiểm của rắn ”. Chúng ta chú ý thấy rằng khu vực ven biển Miền Trung Việt Nam có một địa phương goi là Thanh Hóa. Khu vực này là mũi cực nam của đồng bằng Sông Hồng, là cửa đi ra biển của sông Mã. Từ Thanh Hóa hướng về phía nam và đông tây, địa hình đột nhiên thu hẹp lại giống như cổ con rắn, chia cắt Việt Nam thành hai phần hoàn toàn khác nhau … Vị trí địa lý của Thanh Hóa rất giống tuyến đường độc đạo chiến lược Cẩm Châu của nước ta. Cho nên, Thanh Hóa chính là yết hầu khống chế đầu rắn phía bắc của Việt Nam, Bóp nghẹt yết hầu này có nghĩa là bóp nghẹt đốt thứ 7 của con rắn. Thanh Hóa có địa thế thấp, đồng thời cũng là bình nguyên rộng bằng phẳng, rất thích hợp với việc tiến hành đổ bộ với quy mô lớn ( Tiếc rằng họ quên không kể rằng Thanh Hóa quê tôi, là quê hương của Lê Lọi ). Nếu vận dụng phương pháp đổ bộ, thì có thể nhanh chóng đưa nhiều lực lượng thiết giáp vào chiến trường. Như vậy xe tăng một khi đổ bộ lên bờ sẽ tránh gặp phải địa hình núi non, tận dụng ưu thế địa hình đồng bằng, nhanh chóng tiến về Hà Nội ”. “ Ngày đầu tiên của chiến tranh: lực lượng tên lửa của ta bắt đầu tiến hành tiến công đợt một bằng tên lửa đối với 300 mục tiêu chính trị quân sự quan trọng trên toàn bộ lãnh thổ của địch. Sẽ phóng vào lãnh thổ của địch 500 tên lửa chiến thuật tầm ngắn, 100 tên lửa chiến thuật hành trình, hải quân sẽ phóng 200 tên lửa hành trình từ căn cứ trên đất liền và 100 tên lửa hành trình từ căn cứ trên biển ”. Họ không ngần ngại toan tính đến cả chiến tranh hủy diệt trên cơ sở sử dụng “ những con sông xuất phát từ lục địa Trung Quốc có thể lợi dụng để lập chiến tranh môi sinh, tạo các bệnh dịch cho toàn bộ Bắc Việt Nam ”.
Tờ báo Văn Hối ở Hồng Kông, một tờ báo được coi như cơ quan ngôn luận bán chính thúc của đảng Cộng sản Trung Quốc hôm 31 tháng 7 vừa qua đã hô hào: “ Trung Quốc cần giảng cho Việt Nam một bài học về thế nào là đồng thuận ”. Họ hối thúc phải chớp ngay thời cơ: “ Hiện nay nguy cơ kinh tế Việt Nam là cơ hội cuối cùng ( mà Trung Quốc chờ đợi ) đã xuất hiện ”.
Mê muội chủ nghĩa và lòng tin khờ dại –
Cơn cuồng nộ ăn sống nuốt tươi Việt Nam thêm một lần bột phát dữ dội thực ra đã ấp ủ trường cửu trong lòng những người Trung Quốc mang tư tưởng Đại Hán . Trong tập sách ” Cách mạng Trung Quốc và đảng Cộng sản Trung Quốc ” xuất bản năm 1939 Mao Trạch Đông đã từng viết: “ Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận; Anh chiếm Miến Điện, Ấn Độ, Butan, Hương Cảng; Pháp chiếm An Nam ” . Trong cuộc họp Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc hồi tháng 8 năm 1965, Mao Trạch Đông hơn một lần lại khẳng định: “ Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Châu Á, bao gồm cả Miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Singapo và Malaysia … Một vùng như Đông Nam Châu Á rất giầu, ở đấy có nhiều khoáng sản … xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy ”.
Những người lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Quốc giúp Việt Nam đánh Pháp, đánh Mỹ không phải vì nền độc lập thống nhất của Việt Nam mà chỉ để sử dụng ta như một con bài.
Tại hội nghị Genève năm 1953, Chu Ân Lai thỏa thuận với Mandes France rằng Việt Nam có hai chính phủ, hai vùng kiểm soát, hình thành giải pháp khung chia tách Việt Nam. Kết thúc Hội nghị này, tại tiệc chiêu đãi, Chu Ân Lai coi bốn đoàn có vị trí ngang nhau: Việt Nam dân chủ cộng hòa, chính quyền Bảo Đại, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia. Trung Quốc muốn xé lẻ ra để trực tiếp nắm các bên.
Trong khi họ ra sức phấn đấu chủ yếu vì tư tưởng Đại Hán thì ta cứ mãi ngộ nhận lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong sáng và lòng vị tha vô tư của họ trong việc giúp Việt Nam đánh Pháp, đánh Mỹ mà sẵn sàng xả thân vì họ. Tưởng rằng vì lý tưởng cộng sản nên Trung Quốc sẽ bảo vệ Ponpot cộng sản bằng mọi giá, khi giải quyết vấn đề Campuchia, ta đã đề xuất “ giải pháp đỏ ” để lấy lòng họ mặc dù biết rằng thực hiện “ giải pháp đỏ ”, ta sẽ phải trả giá, sẽ bị quốc tê tẩy chay. Thế mà rồi ! chính họ lại bác bỏ. Họ nói: “ Đúng là trong bốn bên Campuchia, xét về lực lượng quân sự và tổ chức thì hai đảng Cộng sản là mạnh nhất. Họ có vai trò nhiều hơn. Song chỗ chúng tôi không đồng ý là giải pháp này chỉ tranh thủ hai phái cộng sản, còn các lực lượng khác là phái Sihanuc và phái Sonsan ”.
Trong khi họ đã đi đêm với Mỹ để lợi dụng cho công cuộc “ Bốn hiện đại hóa ” của họ, thì đầu tháng 11 năm 1991, sau hơn một thập kỷ tuyệt giao do cuộc chiến Trung- Việt đẫm máu hồi tháng 2 năm 1979, tổng bí thư Đỗ Mười sang thăm Trung Quốc lại hăm hở đề xuất xiết chặt tình đồng chí để cùng nhau “ bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc”. Chua chát sao, tổng bí thư ta chỉ được đáp lại một đối sách hững hờ: “Thân nhi bất cận, sơ nhi bất viễn, tranh nhi bất đấu ” ( thân nhưng không gần, sơ nhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau ).
Vì quá mê muội ý thức hệ nên không chỉ lầm lẫn mà ta còn bị lừa quá nhiều do đặt niềm tin rất khờ dại vào họ.
Ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Quốc ra tuyên cáo về lãnh hải 12 hải lý, kể từ đất liền của họ. Ngoại trừ Cộng hòa nhân dân Triều Tiên, quốc tế không ai công nhận. Riêng Việt Nam lại quá sốt sắng. Chỉ mười ngày sau đó, ngày 14 tháng 9, thủ tướng Phạm văn Đồng, được lệnh, với tinh thần “Bốn phương vô sản đều là anh em ”, đã ký văn bản thừa nhận lãnh hải Trung Quốc bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa.
Sử sách Việt Nam qua “ Thiên nam tứ chi lộ đồ thư ” ( 1630-1653 ) và qua “ Annam lộ toàn tập” của Đỗ Bá Công Đạo đã từng ghi các chi tiết về địa lý của Hoàng Sa. Từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên ( 1613-1615 ), và có thể trước đó nữa, ta đã thành lập các đội Hoàng Sa để tìm kiếm khoáng sản. Học giả Lê Quý Đôn ( 1726-1784 ) qua tham khảo sổ ghi chép của đội Đức Hầu cho biết năm 1702, ta đã khai thác được 30 thỏi bạc, năm 1704 được 5.100 cân thiếc, năm 1706 được 126 thỏi bạc ở Hoàng Sa. Năm 1925, đoàn khảo sát địa chất dưới quyền lãnh đạo của tiến sỹ A. Krempf – giám đốc ngành Hải dương học Đông Dương – đã xác định rằng Hoàng Sa nằm trong cấu trúc địa chất của dải Trường Sơn kéo dài ra biển. Ông kết luận: “ Về phương diện địa chất, Hoàng Sa đúng là một phần của Việt Nam ”.
Cho đến sau Cách mạng Tháng Tám, trong “ Biểu đối chiếu tên cũ và tên mới đối với các đảo ỏ Nam Hải ” ta vẫn ghi rõ tên 172 đảo của mình.
Tiếc rằng, các bản đồ do Cục Bản đồ thuộc Bộ Tổng tham mưu QĐND Việt Nam in năm 1960, bản đồ thế giới do Cục Đồ bản trực thuộc Thủ tướng Chính phủ in năm 1972 và của Nhà xuất bản Giáo dục phát hành năm 1974 đều ghi các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc Trung Quốc !!!
“ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ” –
Những binh sỹ Trung Quốc trẻ ngày nay có thể không nhớ những Bạch Đằng, Đống Đa, Chương Dương, Hàm Tử … Có thể không biết 30 vạn quân Tống đã bị đánh cho tan tác, tơi bời chỉ bởi 10 vạn quân dưới triều nhà Lý; không biết trong cuộc xâm lăng năm 1285, quân Nguyên đông hơn nửa triệu, còn triều đình nhà Trần, lúc động viên cao nhất cũng chỉ có 30 vạn quân. Nhưng, hẳn họ phải biết trong cuộc chiến hồi tháng 2 năm 1979, những người lãnh đạo đất nước họ đã huy động tới 60 vạn quân gồm nhiều quân đoàn và nhiều sư đoàn độc lập, nhiều binh chủng kỹ thuật với gần 800 xe tăng và xe bọc thép, hàng ngàn khẩu pháo, hàng trăm máy bay các loại của hầu khắp các quân khu của Trung Quốc bất ngờ ào ạt tấn công Việt Nam, để rồi 30 ngàn quân trong số đã bị loại khỏi vòng chiến chỉ trong ít ngày.
Hẳn đòn đau vẫn còn ngấm sâu nên mạng Sina-Tàu cũng còn biết gờm: “ Việt Nam là nước có thực lực quân sự mạnh nhất ở Đông Nam Á, lại có kinh nghiệm chiến tranh phong phú, đặc biệt là kinh nghiệm chiến tranh với các nước lớn quân sự. Cho nên nhìn từ góc độ nào thì Việt Nam cũng là “ khúc xương khó nhằn ” ”.
Về tinh thần quyết chiến thì xin hãy nghe đây: “ Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là những phần bất khả phân của lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Chánh phủ và nhân dân Việt Nam Cộng hòa không bao giờ chịu khuất phục trước bạo lực mà từ bỏ tất cả hay một phần chủ quyền của mình trên những quần đảo ấy. Chừng nào còn một hòn đảo của Việt Nam Cộng hòa bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy chính phủ và nhân dân Việt Nam Cộng hòa còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình ”. Đây là lời trích từ “ Tuyên cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa về những hành động gây hấn của Trung Cộng trong khu vực quần đảo Hoàng Sa ”. Tuy nhiên, đấy mới chỉ biểu thị sức mạnh và ý chí của nửa nước, trong tình trạng nước bị phân đôi.
Lại nữa, không phải như dưới thời Lý, Trần, Lê …, chống Trung Quốc, Việt Nam chỉ đơn thương độc mã.
Ngay sau chuyến xuất ngoại để lập đường dây nóng với lãnh đạo Trung Quốc của tổng bí thư Nông Đức Mạnh, tại Washington, trong thông cáo chung Việt Nam – Hoa Kỳ ngày 24 tháng 6 năm 2008 nhân chuyến thăm Hoa Kỳ của thủ tưỡng Nguyễn Tấn Dũng đã vang lên lời cam kết “Hoa Kỳ tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam ” của tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush. Củng cố cho lời tuyên bố này, ngày 7 tháng 8 năm 2008, tại Bangkok, hơn một lần tổng thống Bush lại xác định: “ Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc là một mối quan hệ phức tạp và tôi đã tìm cách gỡ rối mối quan hệ này trên 4 nguyên tắc: củng cố liên minh, tìm bạn mới, thắt chặt quan hệ kinh tế, và sau cùng, hợp tác và bảo vệ quyền lợi chung. Bốn nguyên tắc này giúp Hoa Kỳ và đồng minh tại Á Châu tạo nên một chính sách căn bản để đối đáp với Trung Quốc ”. Trước đó, ngày 1 tháng 6 năm 2008, tại hội nghị thượng đỉnh về an ninh Châu Á ở Singapore, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert Gate cũng tuyên bố Hoa Kỳ không quên cam kết của mình đối với an ninh và ổn định tại Châu Á.
Trong buổi họp báo mới đây ( 20 tháng 8 ), nhân kỷ niệm một năm nhiệm kỳ đại sứ tại Việt Nam của minh, không phải không dụng ý, trong khi tầu đánh cá mang hỏa tiễn Trung Quốc lởn vởn quanh khu vực mà trước đây công ty BP của Anh thăm dò dầu khí theo hợp đồng với Việt Nam, đại sứ Michael Michalak đã thêm một lần dằn lại lời tuyên bố kim cương trên kia: “ Hoa Kỳ ủng hộ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam ”.
Trong chuyến thăm Hoa Kỳ hồi tháng 6 năm 2008 của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, PetroVietnam đã ký kết hợp đồng thăm do khai thác dầu khí trên cả một dải Biển Đông ngoài khơi từ miền Trung đến miền Nam Việt Nam với công ty Exxon Mobil của Hoa Kỳ. Trung Quốc phản đối, nhưng hôm 28 tháng 7, 2008, phát ngôn viên bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã lên tiếng phản bác ý đồ gây áp lực của Trung Quốc đối với Exxon Mobil. Về những lô dầu khí mà công ty BP của Anh đã thăm dò trước đây rồi phải ngừng lại khi bị Trung Quỗc phản đối, báo South China Morning Post cho biết trong mấy tuần gần đây, các nguồn tin từ những công ty dầu khí quốc tế của Anh, Pháp, Nga như BP, Total, Gazprom đều mạnh mẽ xác nhận là vẫn muốn đẩy mạnh sự thực hiện những hợp đồng đã có và sẽ ký với Việt Nam.
Nói chung, cả sử sách, cả tinh thần dân tôc ta và lòng người trên thế giới đều bảo đảm cho ta có thể đương đầu và đánh bại ý đồ xâm lăng của Trung Quốc, nếu có, ngoại trừ điều này: thật là phản phúc, nếu lại có một ông Lê Chiêu Thống hiện đại nào đó trải thảm đỏ đón họ vào để cậy nhờ họ bảo vệ ngai vàng cho mình bằng xương máu của nhân dân. Dẫu sao, nếu có vậy đi nữa thì cuộc chiến cũng chỉ sẽ cam go hơn chứ chắc chắn họ không thể nào xây dựng được một ngụy quyền ổn định lâu dài. Mỹ gặp khó khăn ở Afganixtan, ở Iraq một thì ở đây họ sẽ gặp trăm nghìn lần gian nguy hơn.
Khi họ hối thúc nhau hãy tận dụng thời cơ lực lượng quân sự Việt Nam đang còn yếu thế hơn, đặc biệt về hải quân, so với họ, đồng thời lại đang khó khăn, lúng túng trước nhiều rối ren trong kinh tế, trong xã hội để “ giải quyết sớm vấn đề Việt Nam ” thì không biết họ có nghe thấy không ? Rằng, tại Hoa Kỳ có một khuynh hướng lượng định rằng nếu trước sau Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng sẽ đụng độ nhau trên chiến trường ( trong thế kỷ này ), thì đụng độ sớm có lợi hơn là nấn ná dành thời cơ cho Trung Quốc giàu mạnh lên. Nếu Trung Quốc đánh chiếm Việt Nam để kiểm soát con đường biển huyết mạch qua Trường Sa thì đây là cơ hội ngàn năm có một để Hoa Kỳ có cớ đại tấn công, hủy diệt tiềm năng quân sự và kinh tế của Trung Quốc, đẩy lùi hiểm họa cho nhân loại.
Nhân dân Trung Quốc rất đáng quý trọng và yêu mến, sức mạnh và sự quỷ quyệt của Trung Quốc rất đáng gờm, cho nên không gì hơn là phải bằng mọi cách, kể cả nhún nhường, duy trì và củng cố cho được mối bang giao hữu hảo giữa hai nước. Tuy nhiên, nếu họ điên cuồng xông tới hò nhau “ nhất chiến, an thiên hạ ” ( Đánh một trân, thiên hạ sẽ ổn định ) thì ta lại đành quyết chí một phen “ Đánh một trận sạch sanh kình ngạc ” để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Hà Nội 2 tháng 9 năm 2008
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm Hà Nội
Điện thoại : ( 04 ) 5 534 370
http://www.nguyenthanhgiang.com/
Đôi lời: Một bài báo cũ từ năm 2006, đọc lại thấy vẫn có tính thời sự. Cách hành xử theo lối mafia của nhà cầm quyền đối với nhân dân ngày càng lộ rõ. Mấy vụ công an giết người liên tiếp năm nay mà báo chí ỉm đi, 700 tổng biên tập là lũ vẹt hô một giọng: Đảng CSVN vạn tuế,thiên thiên tuế.
———————————–
Báo Le Paria số 16 ra tháng 7 năm 1923 có đăng bài “Tệ độc đoán ở Đông Dương – Người được bảo hộ và người đi bảo hộ” của Nguyễn Ái Quốc. Nguyên văn như sau:
“Ông Cẩm Đà Lạt (Trung Kỳ)” có một cách hiểu vai trò khai hóa của mình đến là hay. Một hôm, người cộng tác rất xứng của ông Xarô này cần đến ván gỗ. Ông ta sai một người đến kiếm ván ở nhà một người bản xứ làm nghề buôn bán. Nhà buôn này đòi phải trả tiền rồi mới được mang hàng đi. Nghe lời yêu cầu này, ông Cẩm nổi giận, phái ngay lực lượng vũ trang đến với nghiêm lệnh là dù “sống hay chết” cũng phải bắt cho được tên An Nam đó về sở.
Để tránh cơn giận của vị đại diện cho nước bảo hộ, nhà buôn không kể gì đang ốm cũng đành phải bỏ cả nhà cửa quê hương lánh sang tỉnh khác.
Một thầy thuốc người Âu chứng kiến tấn trò kể trên đã can thiệp để bênh vực nhà buôn bản xứ. Vụ can thiệp “chướng tai gai mắt” này làm cho viên thầy thuốc bị đổi đi, bị đầy lên Kon Tum, một nơi nước độc mà người Âu rất sợ… (bỏ bớt một đoạn)
Còn nhà buôn An Nam thì ra sao? Anh ta bị ghi tên vào sổ những người bị tình nghi, liệt vào hạng “chống Tây”, vào số những kẻ cần theo dõi. Một bầy mật thám Pháp và An Nam bám riết, theo gót anh ta. Nhiệm vụ của bọn này là ghi từng giờ từng phút mọi hành động cử chỉ của anh ta, và tô đen tất cả mọi ý định của anh.
Công cuộc theo dõi này được tiến hành một cách khá lộ liễu để làm cho bạn bè quen thuộc người An Nam này phải chùn lại không dám lai vãng nhà anh nữa, đến nỗi đời sống của anh trở nên hết sức khó khăn. Bất cứ thế nào cũng không một người bản xứ nào dám đến nhà anh. Hoàn toàn bị cô lập với đồng bào của mình, nhà buôn này chỉ còn có hai con đường: hoặc đi ăn cướp, hoặc đi ăn mày. Nhưng cái nghề thứ hai này có thể lại làm cho anh đáng khả nghi hơn vì kiếp sống lang thang”.
Bài báo trên gần đây được viết lại như sau:
“Mấy ông lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam có cách hiểu về chuyên chính vô sản đến là hay. Một số trí thức nọ vì quá tin vào lời tuyên bố “Dân được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra công việc của Đảng”, rằng “Dân chủ xã hội chủ nghĩa gấp triệu lần hơn dân chủ tư sản” đã hăng hái vắt óc suy nghĩ, người thì soát xét lại các điểm đúng sai trong đường lối chính sách, người thì nhắc nhở về những cơ hội đã bị bỏ lỡ cho nên nay phải nắm bắt để khai thác cho được thời cơ vàng đang hiển hiện. Nói chung, họ là những đại biểu tinh hoa, dám dũng cảm nói lên những suy tư và ước vọng của nhân dân Việt Nam.
Nhưng…! Mấy ông lãnh đạo kia không biết nghe, không dám nghe, rất sợ nghe nên trợn trừng mắt quát tháo: “Đồ Nhân văn–Giai phẩm, đồ xét lại chống Đảng, đồ cấp tiến phản động, đồ “diễn biễn hòa bình”, đồ chống chủ nghĩa xã hội, đồ gián điệp…” vân vân và vân vân…
Để tránh cơn giận của Đảng cầm quyền, một số không kể gì đang ốm cũng đành phải bỏ cả nhà cửa quê hương lánh sang nước khác. (Không may thì làm mồi cho cá biển. May thì trở thành Việt kiều yêu nước trở về xây dựng quê hương.)
Còn những kẻ ở lại thì sao? (Đến đây, xin được lắp nguyên xi đoạn văn của ông Nguyễn Ái Quốc từ chỗ “Anh ta bị ghi tên vào sổ…” đến chỗ “kiếp sống lang thang” vào chỗ này.)
Người đang viết rất thần phục và thấm thía lời của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc. Anh sững sờ thấy như Nguyễn Ái Quốc sống lại để kể về thân phận của những người như mình hiện nay. Cũng “bị ghi tên vào sổ những người bị tình nghi, liệt vào hạng “chống Tây” (ở đây xin đổi là chống CNXH), vào số những kẻ cần theo dõi. Một bầy mật thám Pháp (hiện nay không có mật thám Pháp) và An Nam bám riết, theo gót anh ta. Nhiệm vụ của bọn này là ghi từng giờ từng phút mọi hành động cử chỉ của anh ta, và tô đen tất cả mọi ý định của anh.
Công cuộc theo dõi này được tiến hành một cách khá lộ liễu để làm cho bạn bè quen thuộc người An Nam này (đổi lại là, người công dân nước CHXHCNVN này) phải chùn lại không dám lai vãng nhà anh nữa, đến nỗi đời sống của anh trở nên hết sức khó khăn. Bất cứ thế nào cũng không một người bản xứ nào dám đến nhà anh. Hoàn toàn bị cô lập với đồng bào của mình, nhà buôn này (đổi lại là người tạm gọi là trí thức này) chỉ còn có hai con đường: hoặc đi ăn cướp, hoặc đi ăn mày. Nhưng cái nghề thứ hai này có thể lại làm cho anh đáng khả nghi hơn vì kiếp sống lang thang”. (Người công dân này không đi ăn cướp, cũng không đi ăn mày nên không đi lang thang nhưng vẫn cứ bị khả nghi hơn.)
Thực tế đang khốn khổ gấp mấy nhà buôn thời Tây kia, người trí thức XHCN này còn bị tù biệt giam, bị khám nhà và tịch thu tài sản bốn năm lần, bị báo chí của Đảng xuyên tạc, vu khống, bôi bẩn, bị cắt điện thoại, bị ném đá vào nhà, bị tông xe giữa đường, bị đưa ra phường đấu tố, bị bọn đầu gấu được chính quyền thuê giả danh thương binh xông vào tư thất thóa mạ và gây sự hành hung…
Vậy mà, nhờ ơn Đảng đèn giời soi xét, anh chàng này vẫn được sung sướng hơn nhiều người khác. Nguyên Chánh văn phòng Bộ Công an, đại tá Lê Hồng Hà bị tù hai năm, tiến sĩ sinh vật học Hà Sĩ Phu bị biệt giam một năm chỉ vì dám cầm đọc bức thư của thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ Chính trị ĐCSVN. Nguyễn Vũ Bình chỉ vì nộp đơn xin thành lập Đảng Tự do Dân chủ, Nguyễn Khắc Toàn chỉ vì đưa giúp đơn kêu oan, Phạm Hồng Sơn chỉ vì dịch tài liệu “Thế nào là dân chủ”, Lê Chí Quang chỉ vì kêu gọi “Hãy cảnh giác với Bắc triều” mà đều bị tù ba bốn năm. Đại tá Phạm Quế Dương chiến tích đầy mình cùng nhà giáo kỳ cựu Trần Khuê chỉ vì nộp đơn xin thành lập “Hội nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng và Nhà nước chống tham nhũng” mà cũng bị bỏ tù ngót nghét hai năm…
Nói là đưa ra phường đấu tố nhưng cách đây mươi năm, Nguyễn Thanh Giang được ngồi trong hội trường trước chỉ khoảng ba chục người gồm chủ yếu tướng tá và cán bộ. Bây giờ, Trần Khải Thanh Thủy – nhà giáo (đã 11 năm đào tạo nên hàng trăm học trò XHCN, trong số đó nhiều người đã trở thành cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước), nhà văn (đã có hơn chục tác phẩm với hàng trăm bài viết đăng trên các báo của Đảng) – bị lôi ra giữa sân vận động cho mấy trăm người được tập trung đến để nghe các “chuỗi, rễ của Đảng” lên đấu tố, xỉ vả bằng những bài bản đã được bồi dưỡng trước.
Cùng bị Nhà nước tổ chức cho bọn anh chị xông vào nhà hành hung nhưng Nguyễn Thanh Giang chỉ bị “tiếp” vài chục tên còn Trần Khải Thanh Thủy bị hàng trăm người xông vào giẫm sập giường, phá tan tành cửa sổ. Rồi, vả vào miệng, tát vào mặt vợ, túm tóc giật ngược mặt chồng ra đằng sau…
Ông già ngoại 80 Hoàng Minh Chính thì bị ném mắm tôm pha dầu nhờn vào nhà. Phạm Hồng Sơn thì bị hô hoán vu cho là buôn bạc giả để bọn giả danh đầu gấu bóp cổ, đấm vào đầu. Mục sư thì bị nữ sĩ quan công an nắn bóp hạ bộ (thú thật riêng việc này rất khó tin)…
Thật là “Chặt hết trúc Nam Sơn không ghi tầy tội ác. Múc cạn nước Biển Đông không rửa sạch oán hờn”.
Đảng và Nhà nước làm như vậy để làm gì nhỉ ? Để tô thêm đẹp hai chữ vinh quang cho Đảng ư? Để giữ vững ổn định chính trị ư ? Để hòng ôm chặt được cái ghế ư ?
Nhầm!
Chính sự đàn áp thô bạo của nhà cầm quyền đã chuyển những thiện chí thành đối địch, ôn hòa thành nộ khí và dần dần xuất hiện những “quyết tử quân cảm tử cho tự do, dân chủ, nhân quyền quyết sinh”.
Trước ngày bị vào tù, linh mục Nguyễn Văn Lý chỉ đấu tranh trong giáo phận Nguyệt Biều. Ra tù, ông trở thành một trong những ngọn cờ lớn đấu tranh cho tự do tôn giáo, tự do ngôn luận…
Trước ngày bị vào tù, Nguyễn Khắc Toàn như một người rất nhát. Đến nhà những người hoạt động dân chủ anh thường nghiêng nghiêng ngó ngó mắt trước mắt sau làm cho ai cũng tưởng anh là công an giả dạng. Anh có viết một số bài đấu tranh dân chủ nhưng mỗi bài phải ký một mật danh. Cho nên, anh vào tù sau một thời gian dài mà rất ít thấy có tiếng nói bênh vực. Riêng mỗi tôi biết các mật danh của anh nhưng chỉ dám công bố sau khi tìm được cách hỏi ý kiến anh. Thế mà ra tù, anh vượt lên hàng đầu trở thành tấm gương dũng mãnh đạp qua sợ hãi cho cả một lớp trẻ ào ào noi theo. Đang trong thời gian bị quản chế nhưng anh ngang nhiên phá rào, công khai ra báo, công khai đứng lên thành lập và đảm đương vai trò thủ lĩnh Công đoàn Độc lập Việt Nam.
Trước ngày bị khủng bố dữ dội, hầu như không ai biết những hoạt động đấu tranh cho dân chủ của Trần Khải Thanh Thủy. Càng bị đàn áp dã man, nhà văn này càng mạnh mẽ quật cường, càng trở nên bất trị đối với nhà cầm quyền. Những kẻ cay cú với cô gọi cô là “giặc cái”, những người cảm mến gọi cô là “anh hùng”. Thực ra không hẳn là cô đã thu phục được mọi người. Nhưng rồi, ngay cả nhiều người vốn không đồng tình với cách viết chát chúa của cô cũng quay lại đứng hẳn về phía cô để che chở cô, để tôn vinh cô vượt mức, như một cử chỉ chống trả tương thích sự tàn bạo quá mức của nhà cầm quyền đối với cô.
Trường hợp Hoàng Minh Chính cũng vậy. Đảng đang được tiếng độ lượng khi cho Hoàng Minh Chính sang Mỹ chữa bệnh trong khi uy tín Hoàng Minh Chính đang giảm xuống rất thấp vì những tuyên bố hớ hênh trên đất Mỹ thì hành động tạt nước pha át xít vào nhà, đập chai nhựa vào đầu ông làm cho niềm thương cảm cháy lên hừng hực, tỏa hào quang vào ông.
Trong nước càng đàn áp mạnh thì đồng bào Việt Nam ở nước ngoài càng ghê tởm chính quyền cộng sản Việt Nam, càng trực tiếp tố cáo dồn dập với các tổ chức quốc tế, với chính phủ các nước, làm cho bộ mặt giới lãnh đạo càng trở nên nhem nhuốc trước nhân loại, dẫn đến những tẩy chay, những trừng phạt từ mức độ này đến mức độ khác.
Không biết rồi người ta có nghiêm chỉnh rút kinh nghiệm, có biết phân tích để có được bài học không nhỉ ? Thử hỏi, nếu thấy bất lực, không thể nào thuyết phục nổi thì hãy cứ đành để một Trần Khải Thanh Thủy ở mức nhà văn đối kháng là hơn hay cứ ra sức cưỡng bức cho cô phải trở thành “giặc cái” hay “anh hùng” là hơn đối với họ? Tự họ đã tạo ra tình huống trớ trêu này: không đàn áp thì hóa ra Đảng thua một người dám chống đối, mà sử dụng mọi mưu ma chước quỷ, cùng với vũ lực chuyên chính khổng lồ đề thỏa mãn uy nộ thì cũng có vẻ vang gì đâu, khi Đảng thắng được một người phụ nữ! Không kể rằng qua vụ này họ còn trở nên có tội lớn đối với cụ Hồ. Trước đây, khi phỉ báng cụ Hồ, Trần Khải Thanh Thủy phải lấy các bút danh khác như: Nguyễn Thái Hoàng, Nguyễn Quý Dân… Hầu hết người đọc nghĩ rằng đấy là một người đang ở nước ngoài (mà người ở nước ngoài thóa mạ cụ Hồ thì nhiều lắm, cho nên thêm Thái Hoàng hay Thoáng Hài gì nữa thì cũng thường thôi, mấy ai để ý). Nay công an ta công bố rõ ràng rằng ngay cả một cô giáo, một Hội viên Hội Nhà văn của Việt Nam, con một đảng viên kỳ cựu của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ năm 1947) cũng căm ghét và phỉ báng cụ Hồ thậm tệ đến thế thì mức độ tai hại hẳn được nhân lên bội phần hơn chứ! Nói chung, tất cả những người bị tù đầy, bị đàn áp càng nặng nề đều trở nên càng quyết liệt hơn.
Những đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp đã dựng nên những Nguyễn Trung Trực, Đội Cấn, Nguyễn Thái Học…, làm nổ ra những Khởi nghĩa Yên Bái, Xô Viết Nghệ Tĩnh rồi dẫn đến Cách mạng tháng Tám thành công.
Một triết gia phương Tây có câu nói nổi tiếng: “Sự tàn bạo tự nó uống một phần lớn thuốc độc của nó”. (La méchanceté boit telle-même la plus grande partie de son poisons). Những người lãnh đạo ĐCSVN và nhà cầm quyền Việt Nam nên tâm niệm điều này.
Hà Nội 6 tháng 11 năm 2006
Nguyễn Thanh Giang
http://www.nguyenthanhgiang.com/
Tớ rất lười đọc, nhưng thấy tập Nhật ký Rồng Rắn của trung tướng Trần Độ rất hay, ngôn ngữ bình dân, không quá cao siêu theo phong cách hàn lâm. Mượn tài liệu của vnthuquan về đọc dần, ai thích thì xin mời đọc cùng cho vui
———————————————–
PHẦN MỘT
I. Hiện nay, cái gì là quan trọng nhất ?
14.11.2000
Thử nghĩ về tình hình đất nước Việt Nam hiện nay.
Thử nêu một câu hỏi ?
Điều gì là điều quan trọng nhất cho đất nước hiện nay, điều gì là quan trọng cốt tử ?
Đó là tìm ra con đường phát triển đất nước cho mau chóng để thoát khỏi nghèo khổ, lạc hậu, để bù lại 50 năm gian khổ và 30 năm chiến tranh, gọi tắt là tìm đường phát triển.
Nay lại có vấn đề quan trọng hơn, quan trọng nhất, là: giải quyết bằng được cái gọi là Chủ nghĩa xã hội, đề cao và giữ vững vai trò của Đảng cộng sản ?
Hãy nhìn lại xem: từ năm 1975 đến 1985, mười năm xây dựng xã hội chủ nghĩa trong cả nước và nước có tên là: “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa” thì đất nước ra thế nào ? Có phải suýt chết đói, suýt rơi xuống vực thẳm rồi không ? Thắng lợi 1975, ta đã thu lại một nửa nước no đủ và đầy hàng hoá, thế mà ta đã phát huy thắng lợi đó ra sao, mà đến những năm đầu của thập kỷ 80, cả nước đói nghèo, ngắc ngoải.
Đó có phải là một sự thật hiển nhiên không ?
Đảng cộng sản chân chính thì coi việc “phát triển đất nước” là quan trọng hơn là cố giữ vững và đề cao vai trò của Đảng.
Mọi tư duy phải xuất phát từ điểm này. Hồ Chí Minh cũng luôn nói về Đảng rằng Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của đất nước và dân tộc. Thế là rất đúng.
17.11.2000
Nếu chỉ lấy yêu cầu phát triển đất nước là mục tiêu quan trọng nhất để xem xét, thì thử hỏi:
Có nhất thiết chỉ có chủ nghĩa Mác- Lênin, chỉ có chủ nghĩa xã hội, mới làm cho đất nước phát triển hay không ? Nếu chỉ cần nêu cao vai trò của Đảng, thì có nghĩa là đất nước phát triển hay không phát triển là không quan trọng.
Vậy hãy cứ xem quanh ta: Đài Loan, Đại Hàn, Singapore và thêm nữa, Thái Lan và Malaysia, mấy nước này có do chủ nghĩa Mác-Lênin hướng dẫn không ? Những nước ấy có cần có một Đảng cộng sản lãnh đạo tuyệt đối theo chủ nghĩa xã hội không ? Thế mà cả 5 nước ấy, khi bắt đầu còn nghèo khổ, vậy mà chỉ sau khoảng 20-30 năm họ đã trở thành những nước phát triển rõ ràng, nhân dân đa số có đời sống khá phong lưu.
Họ không có một Đảng cộng sản “tài tình”, “sáng suốt”, mà chỉ có những chính khách, có được chính sách kinh tế xã hội thông minh và có hiệu quả. Còn Việt Nam, kể từ khi toàn thắng trong cuộc chiến tranh đến nay đã hơn 25 năm và sắp sửa có hoà bình 30 năm, dài bằng thời gian chiến tranh rồi, mà vẫn chưa thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Chậm hay nhanh không quan trọng, cứ phải là xã hội chủ nghĩa đã. Thế tại sao hiện nay đất nước lại có những mặt phát triển rõ rệt là nông nghiệp, thương mại. Là vì nông dân được tự do làm ăn, tiểu thương được tự do buôn bán, là nhờ sau Đại hội VI, hai mặt đó được mở ra. Mới chỉ thế thôi, đất nước đã chuyển mình mạnh mẽ. Nhưng còn nhiều người, nhiều cái không được tự do, còn nhiều trở ngại. Muốn cho đất nước phát triển nhanh thì cần phải làm sao cho mọi người dân đều được tự do làm ăn, nông dân, thương nhân, nhà doanh nghiệp (nhà doanh nghiệp sẽ kéo theo công nhân), các nhà khoa học, trí thức văn nghệ sĩ. Tất cả đều phải được tự do.
Tự do là chìa khoá của phát triển.
Tôi nghĩ thế này: nước Việt Nam ta hiện nay, sau bao nhiêu năm đấu tranh và chiến tranh gian khổ, cần phải hoà bình phát triển và cần phải phát triển nhanh, để bù lại những thời gian đã mất, và để theo kịp các nước chung quanh. Đó là mục đích và yêu cầu quan trọng nhất của đất nước. Những cái khác là phụ. Do đó, để phát triển đất nước thì rõ ràng ta phải tìm đường lối nào, học thuyết nào phục vụ được yêu cầu đó.
Nếu thật sự coi phát triển đất nước là quan trọng nhất thì Đại đoàn kết dân tộc là quan trọng hơn đấu tranh giai cấp; trí thức quan trọng hơn công nhân và nông dân; phát triển sức sản xuất là quan trọng hơn mọi thứ; để dân làm chủ mọi lĩnh vực quan trọng hơn các trò chuyên chính đàn áp; nghe và thu thập được nhiều ý kiến khác nhau và trái ngược nhau kể cả về đường lối chính sách, quan trọng hơn là bắt mọi người phải tuân theo một quan điểm, một ý kiến.
22.11.2000
Thật ra, không cần phải tranh cãi lý luận nhiều. Cứ nhìn một số sự thật hiển nhiên thế này:
- Cả thế giới, cả cuộc đời cứ vận động và cứ diễn biến, khó có thể dự liệu trước được.
- Trên thế giới có đến hơn 100 nước không cần chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội, không cần có Đảng cộng sản “tài tình” và “sáng suốt” mà cứ phát triển đến trình độ giàu có, văn minh cao. Gần 100 nước khác còn đang nghèo đói cực kỳ, nhưng họ cũng không phát triển theo chủ nghĩa xã hội.
- Bây giờ chỉ còn lại có 4 nước theo chủ nghĩa Mác- Lênin và chủ nghĩa xã hội. Trong đó nước lớn nhất và quan trọng nhất thì miệng nói chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng họ đưa đất nước tiến lên theo kiểu “có màu sắc Trung Quốc”. Họ phải chơi với Mỹ, xác định vai trò kinh tế tự do và vai trò kinh tế tư nhân. Còn Bắc Triều Tiên cũng đang buộc phải mở cửa, phải hoà hợp với Nam Triều Tiên để thoát khỏi cảnh đói nghèo và khó khăn.
- Nửa đầu thế kỷ, Cách mạng Tháng 10 Nga thành công, rồi Liên Xô ra đời và sau đó, cả một thế giới xã hội chủ nghĩa hình thành, có sự phát triển một thời rất mạnh. Nhưng sau 70 năm thì chủ nghĩa xã hội không phát triển kịp với thế giới, bị sụp đổ và tan rã. Tiếp theo đó, nhiều Đảng cộng sản phải thay đổi tôn chỉ và đường lối. Nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa không hề tỏ ra nhớ tiếc.
- Càng ngày càng rõ ra là chủ nghĩa Mác – Lênin không dự đoán đúng được mọi việc, không giải quyết được tất cả mọi vấn đề mới nảy sinh của cuộc sống. – Có người nói cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga thành công và Liên Xô ra đời là sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ 20. Vậy thì sự sụp đổ của cái “quan trọng” ấy lại càng “siêu quan trọng”.
- Ở Việt Nam, từ 1975 đến 1985 ta chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Điều đó đã làm đất nước và nhân dân khốn khổ. May mà năm 1986, Đảng cộng sản phải nghe theo dân và phải đổi mới, nhưng sự đổi mới ấy lại cứ nửa vời, chập chờn, làm cho sự phát triển đất nước cũng cứ chập chờn, cứ nhùng nhằng, do đó đã qua đi 25 năm mà tương lai chưa hứa hẹn gì nhiều. Trong khi đó sự tụt hậu cứ càng ngày càng tụt xa, ta không sao theo kịp các nước không xã hội chủ nghĩa. Như vậy “xã hội chủ nghĩa” chỉ là một lý thuyết của một học thuyết chưa được chứng thực (chỉ mới có sự chứng thực của sự thất bại và đổ vỡ sau 70 năm tưởng rằng đã thành công).
Như vậy nó không thể là con đường duy nhất để phát triển đất nước.
Cách mạng và xây dựng, và tiến hoá
Hình như mỗi xã hội, mỗi đất nước trong tiến trình phát triển của mình đều phải trải qua những thời kỳ cách mạng và thời kỳ xây dựng.
Cách mạng là đập phá, đánh đổ. Nó có ý nghĩa xây dựng ở chỗ nó đập phá và đánh đổ những cái gì là lỗi thời cũ kỹ để tạo điều kiện cho những cái mới mẻ, cái tiến bộ ra đời và phát triển.
Khi xây dựng thì vẫn tiếp tục phải loại bỏ những cái gì lạc hậu, lỗi thời, cũ kỹ, phản động, nhưng xây dựng thì chủ yếu phải có việc xây đắp và tạo ra những giá trị mới cả tinh thần vật chất làm cho xã hội tiến bộ và phát triển cao hơn.
Nhưng cho đến ngày nay, với sự phát triển rất cao của khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và nhân văn, thì hình như ỏ tất cả các xã hội nhân dân đều mong muốn đất nước phát triển hoà bình và mong muốn tránh bớt những bạo lực, những lật đổ và chiến tranh. Phải chăng lịch sử loài người đã bước sang kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên hoà bình và loại trừ bạo lực, loại trừ chiến tranh ? Nhân dân chỉ muốn tiến hoá, chứ không muốn cách mạng bạo lực! Đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử kéo dài gồm những cuộc chiến đấu chống xâm lược giành độc lập, hoà bình xây dựng, rồi lại bị xâm lược. Và lại chiến tranh chống xâm lược. Qua quá trình đó mà đất nước ta trưởng thành và phát triển. Cho đến nay, đất nước đã được hoà bình độc lập, thống nhất.
Không biết tương lai loài người sẽ phát triển, tiến bộ thế nào và do đó đất nước ta sẽ gặp những tình huống thế nào ? Nhưng chắc chắn là những bước đi sắp tới của ta cũng không có thể lặp lại y nguyên những tình hình trước đây. Tuy nhiên, trước mắt ta thấy rất rõ là đất nước ta đang ở chỗ đã thực hiện được 3 chữ trong 5 chữ của chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra: đó là một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.
Ta đã đạt 3 chữ hoà bình, độc lập, thống nhất. Ta đang phải thực hiện cho được 2 chữ dân chủ và giàu mạnh.
Theo cách khác, cũng do Hồ Chí Minh nêu ra 3 chữ:
1. Độc lập,
2. Tự do,
3. Hạnh phúc.
Ta đã đạt được độc lập và phải tiếp tục thực hiện nốt tự do và hạnh phúc, cũng tức là hai chữ dân chủ và giàu mạnh.
Hồ Chí Minh đã nói một câu mà bây giờ rất nhiều người biết và nhắc đến: “Độc lập mà không có tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng vô nghĩa”.
Như thế cũng có nghĩa là phải có dân chủ và giàu mạnh. Nhiều người cho rằng: có xã hội chủ nghĩa thì tất nhiên có tự do hạnh phúc. Nhưng sự thật lớn của thế giới đã chứng thực là không phải vậy. Chiến tranh lớn và các hoạt động bạo lực, lật đổ càng ngày càng trở nên lạc hậu lỗi thời.
Để có tự do và hạnh phúc, không nhất thiết phải có bạo lực, không nhất thiết phải đánh đổ ai. Thậm chí ngày nay có những nền độc lập giành được cũng không cần có bạo lực và chiến tranh. Hiện nay nước ta đang bước vào xây dựng, mà xây dựng thì phải hoà bình, mà hoà bình xây dựng thì đất nước cũng hoà bình phát triển, tiến hoá ngày càng cao.
Không nên lạm dụng chữ cách mạng. Ta bây giờ không phải là cách mạng chống ai cả, không phải đánh đổ ai cả. Xây dựng hoà bình thì phải đoàn kết, có gì trở ngại thì hoá giải nó để tiến lên. Ta đã làm chủ đất nước. Vậy thì ta thực hiện cái nguyên lý mà Đảng cộng sản đã nêu ra và đề cao chất ngất. Đó là phê bình và tự phê bình. Ta có thể tự phê bình dân tộc, tự phê bình chính quyền, tự phê bình các cơ quan. Tự phê bình thì sẽ tiến bộ và có dân chủ. Tự ca ngợi, lại tự ca ngợi quá nhiều, quá đáng, thì đó là chỉ dấu báo hiệu sự tàn tạ.
Không được lạm dụng chữ cách mạng. Ta đang xây dựng thì chỉ có xây dựng: xây dựng xã hội chủ nghĩa, chứ không phải làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, không thể lúc nào cũng phải có chương trình hoạt động cách mạng, lúc nào cũng phải hành động cách mạng.
Sản xuất không phải là cách mạng. Giáo dục không phải là cách mạng. Đại hội cũng không phải là cách mạng. Hội nghị liên hoan văn nghệ càng không phải là cách mạng. Chống lụt chống bão, cứu trợ từ thiện cũng không phải là cách mạng. Ở rất nhiều nơi, nhiều lúc, không cần đến cách mạng. Nhưng ở tất cả các nơi đều cần có tự do, và lớn nhất là “tự do làm ăn” phải có tự do hưởng lợi ích của kết quả sự làm ăn đó.
Chính quyền bây giờ không phải là chính quyền cách mạng. Điều đó chỉ có ý nghĩa khi cách mạng vừa mới thành công.
Ngày nay chính quyền phải là chính quyền xây dựng.
Chính quyền xây dựng thì phải có những chủ trương, chính sách làm cho mọi người dân đều được tự do làm ăn. Và từ đó người dân phải có tự do nói, tự do tìm thông tin và trao đổi thông tin. Như thế tự do làm ăn mới thực hiện được. Xây dựng thì hàng ngày hàng giờ phải tạo ra những giá trị mới, từ nhỏ đến lớn. Nhưng công tác tư tưởng của Đảng thì lại chỉ quan tâm tới những công việc có ý nghĩa – có ý nghĩa kỷ niệm, có ý nghĩa lịch sử vv…, mà không quan tâm tới những công việc có hiệu quả tạo ra những giá trị mới.
Nguyện vọng tha thiết và sâu sắc của dân là được quyền sống, được quyền tự do kiếm sống nuôi mình, được quyền tự do lo cho con cái, cháu chắt. Mọi người ai cũng đều mong có nhà, có phương tiện đi lại, có phương tiện học tập giải trí. Muốn thế phải được tự do làm ăn, tự do thu nhập hợp pháp. Đó là điều cốt yếu và là lý tưởng thiết thực, chứ không cần một thứ tinh thần cách mạng để đánh đổ ai, không cần một lý tưởng cách mạng xã hội nào. Chính quyền của nhân dân cần hiểu rõ điều đó. Chỉ có nhân dân được tự do, đất nước mới phát triển được. Làm khác đi chỉ trở ngại cho sự phát triển của đất nước.
Ở Việt Nam cuộc cách mạng 50 năm đã đập tan được cái gì và xây dựng nên cái gì ?
3.12.2000
Quanh đi quẩn lại vẫn phải trả lời cho câu hỏi: nước ta đã từ cái gì bước sang cái gì và hiện đang là cái gì ?
Rõ ràng là ta đã từ chiến tranh bước sang hoà bình, đang từ tình trạng cách mạng bước sang tình trạng bình thường.
Và cũng có thể nói cách khác là ta đã từ tình thế chiến tranh cách mạng bước sang cuộc sống hoà bình đời thường.
Ai cũng phải nhận thấy rằng tình thế chiến tranh và cách mạng là tình thế không bình thường, là tình thế bất thường. Và hoà bình xây dựng là bình thường, là đời thường. Những ai cả đời, hoặc phần lớn cuộc đời, sống trong chiến tranh và cách mạng là những người có cuộc đời phi thường. Nhưng dù như thế những người phi thường đó cũng phải có một cuộc sống đời thường: ăn, ngủ, mặc, ốm đau, học tập, giải trí, nhất là lấy vợ (chồng) đẻ con, nuôi con vv… Chỉ có điều những chi tiết cuộc sống đời thường đó đã phải giải quyết và thực hiện một cách bất thường.
Bây giờ phải giải quyết và thực hiện cuộc sống đời thường đó một cách bình thường.
Đó là lẽ tự nhiên, và lẽ tự nhiên đó phù hợp với sự tự nhiên của tạo hoá. Ai cứ muốn làm khác lẽ tự nhiên đó thì trở nên gàn dở và điên cuồng.
Cuộc sống chiến tranh và cách mạng có những yêu cầu đặc trưng của nó. Những yêu cầu như:
• Có Đảng lãnh đạo tuyệt đối toàn diện;
• Có nguyên tắc tập trung dân chủ. Có yêu cầu kỷ luật sắt, chỉ có chấp hành không bàn cãi;
• Chịu đựng gian khổ, hi sinh;
• Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng.
Đó là những yêu cầu cần thiết và hợp lý, mỗi người và toàn thể nhân dân vui lòng chấp nhận, tự nguyện chấp nhận và thực hành. Và thực sự, cuộc đấu tranh đã nhờ những yêu cầu đó mà có sức mạnh để giành thắng lợi.
Nhưng khi đất nước đã chuyển sang hoà bình xây dựng và cuộc sống đời thường thì không thể tiếp tục yêu cầu như vậy được nữa.
Trước đây phải có một Bộ chỉ huy, một bộ máy lãnh đạo mạnh mẽ để lãnh đạo và chỉ huy chiến tranh và cách mạng. Bộ máy lãnh đạo có quyền đề ra những yêu cầu như vậy và mọi người sẵn sàng tự nguyện tuân theo.
Nhưng không thể cứ kéo dài những yêu cầu đó trong hoà bình và xây dựng.
Nếu cứ tiếp tục cứ yêu cầu như vậy trong hoà bình xây dựng thì đó là phản tiến bộ, phản dân chủ, là phản động.
Trong điều kiện hoà bình xây dựng, tức là trong đời thường cần có một bộ máy quản lí xã hội phù hợp với cuộc sống đời thường.
Tôi được đọc ý kiến của một số nhà nghiên cứu nêu lên một cách có lý luận là một xã hội đời thường như vậy cần có 4 thứ: (coi như 4 bánh xe của một cỗ xe)
1. Một xã hội công dân.
2. Một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh chứ không định hướng gì lôi thôi.
3. Một nhà nước pháp quyền.
4. Một nền dân chủ đầy đủ.
Như vậy là một xã hội đời thường phải có: xã hội công dân, thị trường, pháp quyền và dân chủ.
Bộ máy quản lý xã hội ấy là một bộ máy dân chủ. Nói dân chủ thì cứ phải dân chủ đã, không phải chưa nói dân chủ đã đề phòng “dân chủ quá trớn”, đề phòng “lợi dụng dân chủ”. Khi dân có dân chủ thì dân phải “dùng” cái quyền dân chủ đó, “dùng” không phải là “lợi dụng”. Mà dân chủ nào cũng là dân chủ có quy chế, có quy tắc. Ai làm sai những quy chế, quy tắc đó thì phải phạt. Người đứng đầu như Chủ tịch, Thủ tướng, Chánh án, Giám đốc mà làm sai quy chế dân chủ thì cũng phải phế truất, không thể có chuyện đổ cho người ta tội “dân chủ quá trớn” và “lợi dụng dân chủ”. Và tại sao lại chỉ đề phòng “lợi dụng dân chủ” mà không đề phòng “lợi dụng không dân chủ” ? Bộ máy quản lý xã hội dân chủ là một bộ máy phải được xây dựng nên một cách dân chủ, nó có đủ quyền hạn mà nó được phân công, nhưng quan trọng nhất là nó phải được giám sát, tức là phải được nhân dân giám sát và các cơ quan trong bộ máy ấy giám sát lẫn nhau. Muốn thế phải thực hiện tự do ngôn luận và tự do bầu cử.
Ở ta, những điều đó đã được ghi trong Hiến pháp. Phải rà soát lại, phải thay đổi tất cả các bộ luật và các điều luật để bảo đảm đúng tinh thần Hiến pháp.
Nhưng rõ ràng có nhiều hiện tượng người dốt người kém lại cai trị, điều khiển người có tri thức; người không biết chuyên môn lại có quyền sai bảo dạy dỗ người có chuyên môn; người có trình độ rất thấp lại đi dạy dỗ chỉ đạo khắp nơi khắp chốn. Những hiện tượng đó là có thật, có thật rõ ràng, ai ai cũng thấy, ai ai cũng biết.
Quả là vào thập kỷ 80 thì cả nước mong ước thoát khỏi khủng hoảng toàn diện. Quả là đất nước lúc ấy ở vào tình trạnh “suýt chết”. Đó là chưa kể sau khi thắng lợi, hàng trăm nghìn người đã bỏ nước ra đi. Thế là hình thành nhiều trung tâm người Việt ở thế giới gần 2 triệu người.
Vậy là tại sao ? Tình trạng đó có phải do kẻ địch nào tạo ra, có kẻ địch nào bịa ra để nói xấu ta ?
Không !
Tất cả những ai đến nay ở tuổi 40-50 đều chứng kiến, cả “thắng lợi” lẫn “suýt chết” !
Vậy là do đâu ?
Quả thật là 50-70 năm vừa qua, đất nước ta đã trải qua nhiều biến động long trời lở đất, đã biến chuyển vĩ đại từ một đất nước nô lệ không tên tuổi trên thế giới, cực kỳ đói nghèo, dốt nát và lạc hậu, đầy nhục nhã, đầy dối trá, lừa đảo, đầy tệ nạn và oan khuất, trở thành một đất nước tên tuổi lừng lẫy, sự đói nghèo đó giảm bớt, sự dốt nát bị tiêu diệt.
Suốt quá trình đó, đều có vai trò nổi bật của Đảng cộng sản Việt Nam, có lúc tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Nhưng tất cả những thắng lợi và tiến bộ ấy không thể quy hết vào công của Đảng cộng sản được, tuy rằng Đảng cộng sản có công lớn. Cũng không thể quy hết công vào chủ nghĩa Mác được.
Vì 50 năm và 70 năm ấy, nhiều nước ở quanh ta cũng có những biến chuyển lớn, lớn hơn cả nước ta. Họ đã từ nghèo nàn lạc hậu trở thành những nước giàu có và văn minh, còn nước ta vẫn còn ở trạng thái tụt hậu, đang phải cố gắng đuổi theo, mà sự đuổi theo ấy còn đang đuối sức.
Những nước ấy không hề nhờ vào chủ nghĩa Mác và Đảng cộng sản. Đó là một sự thực hiển nhiên, bất cứ ai dù có nhắm mắt cố tình cũng không thể không nhìn thấy.
Hiện nay những người khoảng trên 70 tuổi, tức những người được sinh ra trước năm 1930, cũng tức là những người đã được sống trong xã hội trước Cách mạng Tháng 8, thường có sự so sánh mặt nọ mặt kia của xã hội ngày nay với xã hội ngày xưa.
Khi so sánh như thế, ai nấy cũng đều thấy xã hội ta, đất nước ta ngày nay được độc lập, đã “sạch bóng quân xâm lược”. Thật là rõ ràng, hiển nhiên ngày nay dân ta có đời sống khá hơn nhiều so với trước đây. Trước đây là đường phố đầy người chết đói và ăn mày, ngày nay một người dân trung bình cũng mơ ước và có khả năng thực hiện một ngôi nhà cho mình, cho con, một xe máy, một bộ ti vi, tủ lạnh, bếp ga, nhất là đối với người ở thành phố và đô thị. Như thế so với thời chết đói và ăn mày thì đã là một trời một vực. Cái chuyện thời nay khác thời trước cách đây 50- 70 năm là một sự thường vì nhiều nước được như thế và còn hơn thế nữa. Không thể nói là nhờ vào chủ nghĩa Mác và Đảng cộng sản được.
Nhưng còn xã hội ngày nay đã tốt đẹp chưa ? đã tự do, dân chủ chưa ? thì không ai thấy được. Nhưng ai cũng thấy rằng:
1. Xã hội hiện nay có một bộ máy quản lý to lớn kềnh càng quá, nhất là ở xã phường và huyện tỉnh. Bộ máy lại có nhiều Quan quá. Có một thời chữ Quan mất đi rồi, thay vào đó là chữ “Cán bộ”, “Đồng chí”. Nhưng ngày nay chữ “Đồng chí” chỉ còn trên giấy, còn thường ngày dân vẫn nói “các Quan” và “Quan càng to, càng nhiều bổng lộc”. Ngôn ngữ ấy trở lại như ngày xưa, trong xã hội rất nhiều người cũng cố gắng “phấn đấu” để được làm Quan. Vợ kiêu hãnh vì có chồng là Quan, con hãnh diện vì có bố, mẹ là Quan. Điểm này, xã hội ngày nay giống trước và trắng trợn, tệ hại hơn trước.
2. Càng Quan to thì lễ lạt, biếu xén càng to và bổng lộc càng nhiều.
3. Nhiều Quan to có mức độ sống không kém gì các quan ở những nước giàu có (nhà cửa, xe cộ, quần áo, ăn uống).
4. Trong bộ máy, có nhiều người khiến nhân dân phải sợ, phải kiêng nể, có nhiều bộ máy to nhỏ đáng sợ. Dân phải sợ công an, sợ cán bộ Đảng, vì cán bộ Đảng giống công an quá, cũng hay dò la, xem xét, hay doạ nạt. Công an ngày càng nhiều và ngày càng có nhiều nét của một hình ảnh khủng bố, là hình ảnh doạ trẻ con được “Ấy chết, chú Công an kia kìa!”.
5. Các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng khá đông đảo, nhưng không bênh vực được nhân dân chút nào. Nhân dân vẫn phải khiếu kiện nhiều, khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người (tức là biểu tình), vừa gửi đơn, vừa muốn trực tiếp đưa đơn, có rất nhiều trường hợp oan trái và oan khuất từ đời cha, đời ông đến đời con, đời cháu.
Những điều đó, báo chí lẻ tẻ đều có nói đến, nhưng còn rất ít. Phải nghe nhân dân nói với nhau ở hè phố, góc chợ và khắp nơi mới thấy rõ được bức tranh xã hội thật.
Vậy một xã hội mà ta mơ ước, ta lý tưởng hoá, lại tồn tại trong hiện thực như vậy, thì có thể coi là ta đã xây dựng được một xã hội tốt đẹp hay chưa ?
Ta đã từng mơ ước, và từng lý tưởng hoá, ta đã từng chỉ ra là xã hội tương lai sẽ không có thất nghiệp, không có cờ bạc, không có gái đĩ, không trộm cắp vv… Nhưng xã hội ta ngày nay như thế nào? Vẫn có đầy đủ các tệ nạn của một xã hội cũ mà ta đã từng nguyền rủa và đã từng đập tan. Trước đây ta cho rằng chỉ có xã hội tư bản mới xấu xa như thế. Còn xã hội xã hội chủ nghĩa thì một trăm phần trăm tốt đẹp, một trăm phần trăm ngược lại với xã hội tư bản.
Thực ra, chủ nghĩa Mác rất nhân đạo, rất nhiều lòng tốt, nó chỉ ra cho loài người một tương lai sáng lạn: sẽ không có tư hữu, do đó không có bóc lột, thế là cuộc sống xã hội hoàn toàn công bằng và dân chủ.
Nhưng thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng nó không thể đơn giản như vậy. Hình ảnh ấy chỉ là một cái bánh vẽ khổng lồ. Thực tiễn cuộc sống khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều. Loài người cứ phải tìm kiếm và tìm kiếm, tạo ra cho mình những kinh nghiệm và những giá trị tốt đẹp. Xã hội tư bản có những cái xấu, nhưng trong xã hội đó, nhân dân cũng tạo ra những giá trị tốt đẹp cho mình, miễn là nhân dân được tự do. Cái điều mà chủ nghĩa Mác, cộng sản hay xã hội chủ nghĩa tưởng rằng có nhờ nó sẽ có một bộ máy nhà nước bảo đảm được mọi mặt nhu cầu đời sống của mọi người, chỉ là một ảo tưởng hão huyền.
Thế mà Đảng lại cứ bắt mọi người phải tin theo vào cái ảo tưởng hão huyền đó. Như thế là phạm vào một tội ác lớn với nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng.
Nhân dân cần được tự mình làm chủ cuộc đời của mình, nghĩa là phải được tự do sống, tự do làm ăn, rồi mọi việc của cuộc sống sẽ được giải quyết dần, không cần một lý thuyết, một chủ nghĩa nào cả.
Nói đúng hơn là nhân dân cần đến tất cả các học thuyết, các chủ nghĩa, rồi nhân dân sẽ chọn lọc, cân nhắc, so sánh chúng với nhau để tìm ra cái nào có lợi cho đường đi của mình.
Đảng nào sáng suốt và tài tình là đảng tạo ra được những tự do như vậy cho nhân dân. Chứ còn đảng nào mà cứ bắt nhân dân phải nghe theo và sống theo các nghị quyết của mình thì đảng ấy chỉ là duy ý chí một cách dốt nát và tàn bạo.
Đảng ấy quyết không thể tồn tại.
7.12.2000
Tiếp tục câu hỏi lớn: cuộc cách mạng Việt Nam đã đem lại được cái gì cho nhân dân Việt Nam ?
Cứ xem xã hội Việt Nam hiện nay, cuộc sống Việt Nam hiện nay, thì có thể thấy một nét lớn rất đau lòng là: tất cả những gì xấu xa, tàn bạo, mà cách mạng đã có lúc xoá bỏ và đập tan thì nay đang được khôi phục lại hoàn toàn, mà khôi phục lại còn mạnh hơn, cao hơn, nhân danh cách mạng.
Bộ máy quản lý xã hội thực hiện một nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn tất cả các thứ chuyên chính.
Đó là chuyên chính tư tưởng, sự chuyên chính tư tưởng được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là những “lưu manh tư tưởng”. Chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói … Những điều luật quy vào các tội: có hại cho lợi ích cách mạng, không lợi cho sự nghiệp cách mạng, nói xấu chế độ, nói xấu lãnh đạo vv… để đàn áp tàn khốc mọi tiếng nói.
Nền chuyên chính tư tưởng này đang làm cho tất cả trí thức không dám suy nghĩ gì, hoặc ít nhất cũng không muốn suy nghĩ gì, nói năng gì. Thực ra, nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch toàn bộ tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ, giáo điều. Nó làm cho nền giáo dục khô cứng, làm cho các hoạt động văn học nghệ thuật nghèo nàn, mất hết cơ hội sáng tạo và mất hết hào hứng, nó làm cho các hoạt động khoa học bị khô cứng và nô dịch.
Nó tạo ra và nó bắt buộc nhân dân phải có một tâm lý lệ thuộc, lệ thuộc vào nhà nước, lệ thuộc vào Đảng, lệ thuộc vào cán bộ, và một tâm lý phải tuân phục, kể cả người cao nhất cũng phải tuân phục một cái gì bí và hiểm.
Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thuỷ Hoàng và các vua quan tàn bạo của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài.
Nó tàn phá cả một dân tộc, huỷ hoại tinh anh của nhiều thế hệ.
Xét đến cùng, đó là tội nặng nhất về sự vi phạm nhân quyền. Vì không phải nó chỉ xâm phạm đến quyền sống cuả con người mà nó huỷ hoại cuộc sống rất nhiều người, đó là cuộc sống tinh thần, cuộc sống tư tưởng của cả dân tộc.
Nó đang làm hại cả một nòi giống.
9.12.2000
Vẫn có một câu hỏi lớn mà không biết có tìm được câu trả lời thoả đáng hay không ? Câu hỏi đó là:
Nhân dân Việt Nam, sau 70 năm đấu tranh gian khổ và 30 năm chiến tranh ác liệt với những hi sinh rất lớn lao và sâu sắc đã mang lại cho mình, cho đất nước một chế độ xã hội và một chính quyền thế nào ? một xã hội kiểu gì ?
Ta biết chắc là có những câu trả lời ngon lành như sau:
“Ta đang có một chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp và có một xã hội xã hội chủ nghĩa cũng rất tốt đẹp. Vì nhà nước của ta ngày nay tên là nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Bản chất của chế độ ta là công bằng dân chủ, nhân dân rất hạnh phúc.”
Đó là câu trả lời chính thống.
Ai nói khác đi là chống lại chủ nghĩa xã hội, chống lại Đảng cộng sản. Nhưng người dân thường và nhất là nhiều bậc lão thành, nhiều nhà trí thức và cả nhiều thanh niên nữa, đều thấy là không phải thế. Những người này thường lấy sự thực thường ngày ra đối chiếu, rồi thấy rằng chữ xã hội chủ nghĩa thật là vô duyên và vô nghĩa. Vì vậy đã có rất nhiều ý kiến cho rằng nên trở lại với tên nước mà Hồ Chí Minh đã đặt: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4nnn3n4n31n343tq83a3q3m3237nvn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét