30/7/11

Việt Cộng Đời Đời Nhớ Ơn Tàu Cộng...

Phải chăng Việt cộng bắt nhân dân Việt Nam phải hoàn toàn qui phục Cộng Sản...?
Các nghĩa trang liệt sĩ Trung Cộng trong chiến tranh biên giới Trung-Việt đang được đổi tên thành "Nghĩa Trang Liệt Sĩ Trung-Việt". Việc sát nhập lãnh thổ Việt Nam vào đất Trung Cộng đã quá rõ! CÒN BAO NHIÊU NĂM NỮA VIỆT NAM SẼ THÀNH "KHU TỰ TRỊ"? Hãy xem những hình ảnh này. Bọn xâm lược mưu chiếm lãnh thổ Việt Nam từng ngày nay đã được bọn CSVN "hợp thức hóa". Mang ơn sự xâm lược? Ô nhục không bút mực nào tả xiết!


Nghĩa trang liệt sĩ Long Châu (Thủy Khẩu) tiếp giáp với tỉnh Cao Bằng, là nơi đã xảy ra giao tranh ác liệt với
Việt Nam trong chiến tranh biên giới 1978-1988. Hãy quan sát tượng đài!


Một vòng hoa viếng thăm của Việt Nam!
Trên vòng hoa "Đời đời nhớ ơn các liệt sĩ Trung Quốc".

Tổ cha mấy con chó Bắc Bộ Phủ, chết hết đi...!
 
Nhân dân Việt Nam xin lỗi các liệt sĩ Trung Quốc?
Trong chương trình lữ hành từ Quảng Tây sang Việt Nam theo các cửa khẩu Móng Cái hoặc Hữu Nghị Quan. Thăm viếng các nghĩa trang liệt sĩ trong chiến tranh biên giới Trung-Việt là một niềm tự hào của người dân Trung cộng. Những nghĩa trang này khi xưa là đất VN, nay là đất Trung cộng. Có xương cốt tàu phù, kim tĩnh chôn xuống rồi thì mới khó đòi (?). Hôm nay ta theo tàu phù thăm mã một chuyến xem sao (đoàn thanh niên cộng sản HCM và các cấp lãnh đạo bán nước CSVN đã từng đi đấy!).
Nghĩa trang Lão Sơn (trận Lão Sơn ai cũng biết rồi, không giải thích)


Mỗi người sẽ được phát một cái nón bộ đội VN!



Cổng vào nghĩa trang Lão Sơn.
Hàng chữ trên cổng "Tổ Quốc Tri Đạo Ngã" (Tổ quốc biết ta)




Hoành tráng!



Mồ mả hợp thức hóa!



Bà mẹ Trung cộng anh hùng khóc lóc vật vã!



Chụp hình kỷ niệm



Chụp hình kỷ niệm



Chụp hình kỷ niệm


Sảng khoái. Đi ra



Một đoàn khác viếng thăm. Dâng hoa



Thay mặt người VN chúng tôi xin lỗi đã lỡ bắn chết các đồng chí TC!



Trên núi Lão Sơn nhìn sang VN hôm nay.
Năm sau ký hiệp định biên giới mới thì núi kia cũng là Trung Quốc.
Ôi, tổ quốc Đại Hán hùng vĩ!




Chuyện Việt Bắc - Tây Nguyên, muốn biết rõ hơn xin hỏi đồng chí đầy tớ
mang cà vát đỏ (bên trái), hiện là đại diện của tập đoàn
"đất đai không biên giới", trụ sở đặt tại Ba Đình - Hà Nội
ĐẢNG LẢNH ĐẠO.......TRUNG CỘNG LÀM CHỦ
Bên kia biên giới tràn qua,








Bên nầy biên giới trẻ già chết queo !!





Bây giờ chết mẹ đảng ta,
Đám chệch tràn lan khắp nước nhà,
Chẳng thà bám đít bu theo Mỹ,
Thoát cảnh lầm than ôi xót xa.








"16 chữ vàng" mới truyền
 
 tụng ở Việt Nam:
 
"Láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, lấn
 
biển lâu dài, thôn tính tương lai"
 
 
 


, Hình dưới: Bia tưởng niệm những người bị quân xâm lược Trung Quốc giết hại hồi
 
tháng 2 năm 1979 ở thôn Tổng Chúp, xã Hưng Ðạo, huyện Hòa An tỉnh Cao Bằng. Theo
tác giả, bia này "chìm trong gai tre và lau lách". (Hình: Blog Osin)


 

Vụ thảm sát tại Tổng Chúp
xã Hưng Ðạo huyện Hòa An
Quân Trung Quốc xâm lược
Dùng cọc tre búa bổ củi
đập chết 43 phụ nữ và trẻ em
quăng xuống giếng nước


LTS.- Bài viết dưới đây đã được đăng trên tờ Sài Gòn Tiếp Thị với khá nhiều thông tin đặc biệt cả về cuộc chiến giữa Trung Quốc-Việt Nam cách nay đúng 30 năm, lẫn thực trạng biện giới Việt-Trung ngày nay. Sau đó bài viết đã được đưa lên website của tờ Sài Gòn Tiếp Thị nhưng được kéo xuống gần như lập tức... Tuy tờ Sài Gòn Tiếp Thị không cho biết lý do, song nội dung bài viết cho thấy, ở đây, không thể có chuyện "tự ý đục bỏ".

Thêm một lần nữa, chính thực tế cho thấy, từ khi lãnh đạo CSVN đã cam kết tôn trọng "16 chữ vàng" trong quan hệ với Trung Quốc mỗi khi lãnh tụ hai nước gặp nhau ("láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" - đã được dân chúng trong nước sửa lại thành "láng giềng khốn nạn, cướp đất toàn diện, lấn biển lâu dài, thôn tính tương lai"), theo "tinh thần 4 tốt" (láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt - trong một bài khác trên blog Osin, tác giả bài viết dưới đây từng than: ...Thật không dễ dàng gì khi biết một kẻ đang rình rập bên ta mà vẫn phải nghe họ xưng là "láng giềng tốt", một kẻ đem tàu chiến sang giết người giữ đảo của ta vẫn xưng là "đồng chí tốt", một kẻ dùng áp lực để đuổi đối tác tìm dầu của ta mà vẫn nhận là "bạn bè tốt", một kẻ ngang nhiên hút dầu ngoài biển của ta mà vẫn phải gọi là "đối tác tốt" ), không ai được quyền nhớ hoặc ghi nhận những vấn đề vốn thuộc về lịch sử nếu chúng không phù hợp với lợi ích của những kẻ có quyền...

Người Việt

Biên giới Tháng Hai (2009-1979)

Huy Ðức

Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Ðài. Năm ấy, Ðài 22 tuổi. Ông Quế nói: "Ðể ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con". Năm 1979, vào lúc 5 giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái.

"Những đôi mắt"

Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Ðồng Ðăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Ðài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Ðài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Ðài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Ðài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp quân Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Ðài.

Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên "từng đôi mắt" của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Ðồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: "Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!" Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.

"Cuộc Chiến 16 Ngày"

Ngày 15-2-1979, Ðại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: "Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn". Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, "Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ", ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Ðêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Ðêm ấy, Trung Quốc đánh.

Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, tỉnh Cao Bằng ra lệnh "sơ tán triệt để khỏi thị xã"; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có "Việt gian" dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ "Bát Nhất", người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Ðại tá Hà Tám công nhận: "Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ". Tuy nhiên, Ðại tá Hoàng Cao Ngôn, tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.

Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lào Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Ðồng Ðăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.

Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn "10 Năm Chiến Tranh Trung Việt", xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Ðại Học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những "khe núi đẫm máu". Ðặc biệt, tiểu đoàn Ðặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh "biển người" quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Ðầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Ðồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Ðoàn III tới Na Rì; Chủ tịch nước ra lệnh "Tổng Ðộng viên"... ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước.

Lào Cai, Sapa, Ðồng Ðăng, Lạng Sơn... bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Ðạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối.

Lặng Lẽ Hoa Ðào

Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1,680 ngôi mộ. Trong đó, 1,600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sĩ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sĩ xếp chồng lên nhau. Trong số 1,600 liệt sĩ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết năm 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã.

Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H'mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc.

Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sĩ quan biên phòng, Trung Quốc gọi là "đài chiến thắng". Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Ðức Tấn, bí thư chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.
Hà Nội Thú Nhận Mất Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan





Thứ Sáu, Ngày 2 tháng 1-2009
Tin Hà Nội - Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo chí, Thứ trưởng Ngoại giao Cộng sản Việt Nam là Vũ Dũng, cũng là trưởng đoàn đàm phán biên giới giữa Việt Nam và Trung cộng, đã tìm mọi cách để biện minh cho việc cắt đất dâng biển cho Bắc Kinh, và thú nhận đã để mất thác Bản Giốc và ải Nam Quan. Trong cuộc phỏng vấn, Vũ Dũng cho biết hơn Hơn 7 năm sau khi cắm cột mốc đầu tiên, Việt Nam và Trung Cộng đã hoàn thành việc phân giới cắm mốc 1400 cây số biên giới.

Trong cuộc đàm phán cuối cùng trong 3 ngày qua, vấn đề mấu chốt còn lại là khu vực thác Bản Giốc ở Cao Bằng và cửa sông Bắc Luân ở Quảng Ninh. Nay sau khi thương lượng, kết quả vẫn như cũ là tại thác Bản Giốc, hai bên đã thống nhất đường biên giới đi từ mốc 53 cũ. Thác Bản Giốc có hai phần, phần hoàn toàn về phía Việt Nam gọi là thác cao, nhưng lại là thác phụ vì lượng nước không lớn.

Thác thấp là thác chính sẽ chia đôi, mỗi bên được một nửa. Vũ Dũng nói rằng hai bên hứa hẹn sẽ không xây dựng các công trình nhân tạo trong phạm vi hẹp khu vực thác để giữ nguyên cảnh quan, vì đây là một thác đẹp có thể khai thác du lịch, và Trung cộng cũng hứa hẹn sẽ hợp tác phát triển du lịch khu vực thác Bản Giốc. Hai bên còn hai cột mốc nữa ở thác Bản Giốc chưa cắm, đó là cột mốc trên thượng lưu ở mốc 53 và cột mốc ở ngay dưới chân thác. Tưởng cũng nên nhắc lại là trong các sách nghiên cứu về địa lý ghi nhận trước đây, thác Bản Giốc nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam đến 2 cây số, và như vậy có nghĩa là Hà Nội đã cắt hơn 2 cây số để dâng cho Trung cộng mà vẫn chối không có việc này.

Về vấn đề cửa sông Bắc Luân, Vũ Dũng cho biết hai bên đã đạt được thỏa thuận tạo được đường biên giới từ thượng lưu cho đến hạ lưu và đi ra điểm đầu của đường phân định Vịnh Bắc bộ. Thứ trưởng Ngoại giao của Cộng sản Việt Nam còn biện minh rằng bảo vệ chủ quyền lãnh thổ luôn là nhiệm vụ hàng đầu trong đàm phán biên giới, và còn nhấn mạnh là không có lý do gì, không ai được phép, không ai có quyền nhân nhượng về đất đai. Tuy nhiên khi được hỏi vậy đường biên giới mà Việt Nam và Trung Cộng vừa hoàn thành phân định có gì khác so với đường biên giới thời Pháp, thì nhân vật này đã bối rối và biện minh rằng việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc giữa hai bên là để thúc đẩy giao lưu kinh tế thương mại du lịch, và thú nhận đường biên giới trước đây thời Pháp có những cột mốc cách nhau đến 40 cây số nên không thể xác định được. Về Ải Nam Quan, Vũ Dũng còn cho rằng theo tài liệu lịch sử đang được lưu giữ, trấn Nam Quan hay ải Nam Quan đều nằm bên phía Trung cộng. Nhân vật này còn cho rằng dấu tích lịch sử quan trọng của khu vực ải Nam Quan mà nay còn gọi là cửa khẩu Hữu Nghị, là mốc 19 cũ do Pháp Thanh cắm năm 1894.

Tuy nhiên theo nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn, tác giả cuốn biên giới Việt Trung đã cho rằng giải thích của họ Vũ là không thuyết phục. Ông nói theo các tài liệu mà ông tham khảo bấy lâu nay, kể cả tài liệu chính thức của Pháp và nhà Thanh, đều xem thác Bản Giốc và ải Nam Quan hoàn toàn thuộc về Việt Nam, và cho biết ông rất ngạc nhiên về những lời tuyên bố của Thứ trưởng Ngoại giao của Cộng sản Việt Nam.


Ô NHỤC ẢI NAM QUAN!
 Ven trời góc biển buồn chim cá
Dạn gió dày sương tủi nước non
  Thượng Tân Thị
 
Bi thương thay cho lịch sử Việt Nam !
Từng cây số trên quê hương là từng giòng máu lệ, máu của cha ông ngăn thù và máu của hai miền huynh đệ chan hòa vào nhau trong hoan lạc dành cho Quốc tế Cộng Sản. Và đang trở về đây là những bước chân âm thầm của ngàn năm nô lệ. Kết qủa từ công cuộc nhuộm đỏ mạo danh “độc lập, tự do, hạnh phúc” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và đồng bọn.
Hãy tiếp tục nhìn những gì mà CSVN đang ra sức thực hiện: “Thác Bản Giốc, Ải Nam Quan không thuộc lãnh thổ Việt Nam !”. Họ cố chối bỏ lịch sử Việt Nam và ra sức tranh cãi, biện luận với dân Việt thay cho Trung Cộng. Ô nhục! Từ quan đến quân, CSVN chỉ là một lũ tôi mọi dâng đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bang bằng văn tự công hàm, hiện rõ hình hài là một bọn quái thai chưa từng có trong lịch sử nhân loại!  
Chấp bút cho đề tài “Ải Nam Quan”, thay vì tranh luận bằng văn chương, tôi sẽ sử dụng giá trị của những tư liệu bằng hình ảnh. Bởi vì, đã có rất nhiều nghiên cứu công phu của các tác giả yêu nước Việt nồng nàn đã là qúa đủ để khẳng định “Ải Nam Quan là của Việt Nam ! Ải Nam Quan thuộc về Trung Cộng là do sự hiến dâng của Đảng CSVN!”. Những hình ảnh sẽ lưu lại đây để cho con cháu chúng ta hiểu rõ hơn niềm bi thương của đất nước, chỉ cho các em bọn bán nước hiện đại là ai. Để rồi không còn ngày phải tôn thờ hỉnh Hồ-Mao và màu cờ máu chỉ còn là một kỷ niệm buồn. Rất buồn!
Hãy xác tin rằng: “Nước Việt của em từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau” là mãi mãi!  
Chương I  
NHỮNG HÌNH ẢNH LỊCH SỬ
  Trong chương này, việc sắp đặt hình ảnh về Ải Nam Quan sẽ dựa theo sự thay đổi của lối kiến trúc v.v. mà phân chia thành các nhóm hình theo ký tự A,B,C…Để sự diễn tả rõ ràng hơn, những hình ảnh bên phía Trung Cộng (hoặc Trung Quốc theo thời đại) sẽ gọi là “Trấn Nam Quan” “Mục Nam Quan” v.v…; ngược lại, nhũng hình ảnh bên phía Việt Nam sẽ gọi là Ải Nam Quan hoặc cổng Nam Quan theo đúng tinh thần lịch sử. Phân chia như sau.
  - Nhóm A: họa đồ “Trấn Nam Quan” của Trung Quốc (đánh số A1 đến A4)
- Nhóm B: có chung kiến trúc (đánh số B1 đến B4)
- Nhóm C: có chung kiến trúc (đánh số C1 đến C4)
- Nhóm D: có chung kiến trúc (đánh số D1 đến D2)
- Nhóm E: không xác định (E1 đến E3)
- Nhóm F: hình quân sự và bản đồ (đánh số F1 đến F6)
- Nhóm Phụ ảnh: Một số phụ ảnh bất định sẽ đưa trực tiếp vào nơi hình cần thêm minh họa.
 Diễn tả
 1, Nhóm hình A:
  Trước hết, ta có hai bức họa theo lối sơn thủy về hình ảnh “Trấn Nam Quan” trong đời nhà Thanh (Trung Quốc). Niên đại của cả hai được cho rằng họa vào đời vua Ung Chính khi xảy ra cuộc chiến Trung-Pháp (1884-1885)
 A1. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (1)
Còn gọi là “Thanh Quân Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (Họa đồ bố trí phòng thủ Trấn Nam Quan của quân Thanh). Đây là bức họa các vị trí đóng quân của nhà Thanh nơi Trấn Nam Quan bên trong nội địa Trung Quốc. Địa hình đồi núi khái lược. Cổng ra vào với Ải Nam Quan của Việt Nam nằm tại cạnh phải của bức họa (có đóng khung).
 
 A2. “Trấn Nam Quan Bổ Phòng Đồ” (2)
Các vị trí đóng quân của nhà Thanh nhìn từ hướng Việt Nam. Không hiểu tại sao bố cục của bức họa này lại rất giống với bố cục trên bưu ảnh (tham khảo hình B1) do người Pháp chụp vào đầu TK20 (hoặc cuối TK19?) . Có thể bức họa này dựa theo tài liệu của người Pháp mà vẽ ra. Giá trị của bức họa này so với bưu ảnh (B1) là do sự quan sát của người Trung Quốc vào thời đại cũ nên ta thấy được kiến trúc nguyên thủy của Ải Nam Quan bên phía Việt Nam. Ta thấy có một cổng lớn, hai bên cổng là hai dãy tường thành dâng cao nhưng bị cắt ở hai bên lưng núi. Một khoảng sau cổng mới đến phần cổng có mái ngói. Từ phần cổng mái ngói này có dãy tường thành chạy dài lên đỉnh núi. Đó là phần Trung Quốc. Các điểm này tương xứng với bưu ảnh (B1).
 
 
A3. “Trấn Nam Quan Đại Chiến”
Minh họa cảnh giao chiến giữa quân Pháp và quân Thanh tại cổng Nam Quan vào năm 1885. Niên đại của bức họa không rõ nhưng ta thấy tường thành có kiến trúc giống cổng Ải Nam Quan của hình A2.
 

A4. “Trấn Nam Quan Đại Lâu Đồ”
Mô tả cảnh quân Pháp rút quân và binh lực quân Thanh tại Trấn Nam Quan. Hãy quan sát vị trí cổng theo khung hướng dẫn trong hình.
 
 
2, Nhóm hình B:
Bưu thiếp (Carte Postale) phong cảnh Ải Nam Quan do người Pháp thực hiện vào đầu thế kỷ 20. Các nhật ấn sưu tầm được trên bưu thiếp sử dụng từ năm 1908-1912.  
B1. Ải Nam Quan nhìn từ độ cao ở Đồng Đăng
Vẫn dựa theo tường thành phía Việt Nam là hai đoạn ngắn nhưng phần cổng đã thay đổi thành cổng nhỏ. Phía Trung Quốc là cổng lớn và cao hơn, thiết kế hai mái ngói và tường thành chạy dài lên núi giống các bức họa đã nêu trên. Có lẽ sau giao tranh vào năm 1885. Cổng phía Việt Nam đã bị phá hủy nên được xây lại không còn qui mô như xưa.
Khoảng trống đến phần cổng phía Trung Quốc là vùng cảnh giới của hai bên vì dựa theo hình phía bên Trung Quốc ta sẽ thấy có sự đối xứng (tham khảo nhóm hình C).
 
 
Phụ ảnh:(B1) Ảnh màu để xác nhận hai phần mái ngói đỏ.

B2. Ải Nam Quan nhìn từ hướng Đồng Đăng
Ta nhận thấy sự cao thấp của hai phía cổng và cánh phải của tường thành phía Việt nam cũng dừng ở ngang núi theo như họa đồ Trung Quốc (A1). Ở góc phải phía dưới hình là một ụ trắng phủ cỏ xanh, dấu tích lô cốt của quân đội Pháp (tham khảo hình F1 sẽ thấy rõ vị trí lô cốt nhìn từ bên Trung Quốc).
 
 
B3. Bang giao tại Ải Nam Quan
Quan sát các nhân vật trong hình, ta thấy ở cạnh trái có binh lính Việt Nam đứng thành hàng dài. Giữa cổng đi ra là hàng phu khiêng kiệu đội nón vải rộng vành của quân nhà Thanh (chở quan viên?). Ở cạnh phải của hình có những người nhà Thanh đội nón và kết tóc đuôi sam. Có lẽ đang diễn ra một sự kiện nào đó trong lịch sử bang giao tại Ải Nam Quan.
 

B4. Cổng Ải Nam Quan
Cổng đóng then gài, cỏ mọc cao ngất ngưỡng. Hoang tạnh. Trong lời nhắn trên bưu thiếp cho ta biết cổng được tu phục vào năm 1908. Nhật ấn “Lạng Sơn”. Xác nhận bờ tường thành chỉ còn dấu thang bậc đi lên để so sánh với tường thành phía bên Trung Quốc (nhóm hình C).
 
 
 Phụ ảnh: Đường lên Ải Nam Quan từ Đồng Đăng
 3, Nhóm hình C
 C1. Trấn Nam Quan (1)
Nhìn từ bên Trung Quốc. Kiến trúc ở đây đã khác. Phần mái ngói lớn phía dưới đã mất, chỉ còn lại phần mái ngói bên trên và cấu trúc mái cũng khác. Chỉ có dãy tường thành là vẫn chạy dài lên trên. Cạnh trái trên đỉnh núi có doanh trại. Phía dưới trước mặt cổng có cụm nhà ngói. Kiến trúc thay đổi có lẽ do sự phá hủy trong cuộc “Khởi nghĩa Trấn Nam Quan” do Tôn Trung Sơn lãnh đạo vào năm 1907. Để dễ phân biệt với nhóm hình chụp từ phía Việt Nam ta sẽ quan sát thêm sự khác nhau của địa hình đồi núi.
 
 
C2. Trấn Nam Quan (2)
Mặt bằng của Trấn Nam Quan. Bờ tường thành chia theo lô khác với hình thang bậc bên phía Việt Nam . Ta thấy rõ bên phía Trung Quốc cũng có khoảng cách so với cổng lớn (Quan). Một án tường trắng đối diện cổng là theo lối phong thủy ngày xưa tránh sự dòm ngó thẳng vào nhà mình từ phía bên ngoài (ngay trong các kiến trúc cổ của Việt Nam từ đình làng đến lăng miếu ta sẽ nhận ra điểm này). Theo sử liệu Trung Cộng, cụm nhà nhỏ phía trước cổng lớn (nơi có hai nhân vật áo trắng đang đứng) là miếu thờ Quan Công gọi là Quan Đế Miếu và Đền Chiêu Trung. Sau đó vào năm 1896 trong chương trình khảo sát biên giới giữa Trung-Pháp đã xây trên nền này một văn phòng quản lý cùng với 9 điểm khác trên biên giới Trung-Việt. Năm 1914 xây lại lần hai thành kiến trúc nhà lầu kiểu Pháp nên còn gọi là “Pháp Lầu” hoặc “Pháp Quốc Lầu” vẫn còn tồn tại cho đến nay.
 C3. Toàn cảnh Trấn Nam Quan
Có một khu trại và hai dãy nhà mái lá cách xa với cổng lớn ở cạnh tâm phải của hình. “Trấn Nam Quan” là đây! Khởi nghĩa Tôn Trung Sơn là đây! Khu di tích này giờ chỉ còn là ruộng nước, gọi là “khu di chỉ Trấn Nam Quan Khởi Nghĩa”. Các khung trong hình dùng để xác định vị trí so với hình C4.
 

 
C4. Trấn Nam Quan (3)
Trên bưu thiếp có tiêu đề “NAM QUAN (Chine) – Le Village” rõ ràng đây là khu làng mạc (Trấn) trong đất Trung Quốc. So sánh các khung vị trí với hình C3:
Dãy nhà lá và con đường đất ở giữa, trước mặt là cụm nhà ngói và tán cây. Ngang ở tâm trái của hình là bờ tường thành. Phía góc phải là vách núi đá (đá vôi?) trắng.
 
 
Chữ “Trấn” trong văn tự trung Quốc có rất nhiều nghĩa, như “trấn giữ”, “trấn áp”, “trấn tĩnh”, “trấn địa”…v.v. đều là chỉ việc gìn giữ, ổn định. “Trấn” còn là một đơn vị hành chính sau cấp huyện có từ thời xưa tại Trung Quốc (đơn vị hành chính Việt Nam thời xưa cũng thường sử dụng). Trong một số sử sách Việt Nam có nói “Trấn Nam Quan” nằm trong nội địa Trung Quốc. Thì đây, “Trấn Nam Quan” đã xác định là những hình này! Khối nhà lợp mái ngói ta sẽ hiểu là khu nhà quan binh, hai dãy nhà lá là khu dân cư dựa theo binh đội để có cuộc sinh hoạt yên bình. “Trấn” là khu phố nhỏ, làng mạc. Đừng làm lệch lạc lịch sử và đừng theo luận điệu của bọn bán nước mà cho rằng “Ải Nam Quan phải gọi là Bắc Quan”. Chữ “Nam Quan” là do Trung Quốc kiêng kỵ Việt Nam nên không muốn gọi là “Đại Nam Quan” mà thôi. Chữ “Quan” là chiếc cổng qua lại. “Đại Nam Quan” hay “Nam Quan” là cửa ngõ giao thiệp với nước Việt Nam . Hai bên đã thủ lễ với nhau bằng khoảng trống ở hai bên cổng lớn. Theo sử liệu, sau chiến tranh Trung-Pháp thì nhà Thanh đã chiếm giữ cổng lớn và buộc phía Việt nam phải cách xa cổng là 100 thước. Việc này ta thấy tương đương với khoảng cách của hai cổng trong nhóm hình B.
 
4, Nhóm hình D
 
D1. Cổng Nam Quan (1)
Đây là một kiến trúc khác hẳn so với các nhóm hình trên. Có vẻ sơ sài vì đã mất hẳn phần kiến trúc phía trên trong cuộc nội chiến tại Trung Cộng vào năm 1949. Ta thấy có dáng một nhân vật đang cầm súng. Tiêu đề trên bưu thiếp “NAM QUAN (Tonkin)…” đây là bên phía Việt Nam khi qua cổng nhỏ để đứng sát với cổng lớn (vào lúc này có lẽ kiến trúc cổng nhỏ cũng đã mất). Theo sử liệu Trung Cộng, trong cuộc giao tranh vào năm 1949 thì toàn bộ phần trên cổng đã bị phá hoại hoàn toàn (tham khảo hình E2).
 
 
D2. Cổng Nam Quan (2)
Hình đăng trên tạp chí “National Geographic” do GS Nguyễn Văn Canh đưa lên mạng và không rõ niên đại. Một số bạn nghi ngờ bức ảnh này không chính xác với hình ảnh của Ải Nam Quan. Tuy nhiên so sánh với hình D1, ta đã thấy kiến trúc cùng kiểu của hai hình. Tại đây, dãy tường thành chạy lên cao đến vách núi trắng tương ứng với hình C3-C4, có thể xác định là hình được chụp từ cao điểm bên phía Việt Nam .
 
 
5, Nhóm hình E

E1. Không xác định (1)
Một hình ngôi chùa trên đường đi Long Châu nơi có cổng giao thiệp với Việt Nam là Bình Nhi Quan. Cùng với Nam Quan và Bình Nhi Quan còn có Thủy Khẩu Quan là 3 cổng quan yếu để vào đất Việt Nam nên gọi chung là “Tam Quan”, có khi cổng Nam Quan còn gọi là riêng là “Tam Quan” do ở vị trí quan trọng hàng đầu so với hai cổng Bình Nhi-Thủy Khẩu. Nơi hình này có tiêu đề “Chine - NAM QUAN – Loc Hang Thiap”. Chưa rõ chữ “Loc Hang Thiap” là gì nhưng hình xác định là Nam Quan trên đất Trung Quốc, có phải là một ngôi chùa trong “Trấn Nam Quan” hay không? Hay là thuộc Trấn Bình Nhi Quan?
 
 
E2. Không xác định (2)
Quân đội Trung Cộng đứng trên tường thành giương cờ trong cuộc chiến thắng quân Tưởng Giới Thạch vào ngày 11.12.1949 tuyên bố giải phóng Quảng Tây. Thế tường thấp với cổng và trên mặt tường cổng có chữ “Trấn Nam Quan”.
 
 
 
Phụ ảnh: Hình chụp chính diện của Trấn Nam Quan trong ngày giải phóng Quảng Tây tháng 12.1949. Trên mặt tường cổng thành ta thấy rõ chữ “Trấn Nam Quan”. (phòng trưng bầy lịch sử Hữu Nghị Quan)
 
Quân đội Trung Cộng đứng trước cổng nhỏ có khắc chữ “Trấn Nam Quan”. Không rõ niên đại của hình. Chung với hình E2, có lẽ đây là “Trấn Nam Quan” mà tôi đã giải thích (mục 3, nhóm hình C).
 
 
6, Nhóm hình F
F1. Toàn cảnh Ải Nam Quan
Do trinh sát quân Nhật Bản chụp vào tháng 6 năm 1940 trước khi tiến hành “cuộc chiến 3 ngày” nhằm đạt mục đích đưa quân vào lãnh thổ Đông Dương. Hình được mô tả: “…thấy được đường xe lửa Lao Cai-Côn Minh. Lại có đường xe ô-tô từ Đồng Đăng lên tận Trấn Nam Quan. Bờ tường thành này bên trong là đất Trung Quốc, ngay bên ngoài là Bắc bộ Đông Dương”.  
Từ cao điểm như trong hình ta thấy rõ vị trí lô cốt như đã xem qua hình B2. Có khả năng lô cốt đã xây dựng trên một nền kiến trúc cổ xưa của Việt Nam . Và còn “Suối Phi Khanh” nơi thấm lệ của Nguyễn Trãi, có ai nhận ra chưa?…Nước mắt!
 
 
 

F2. Cột Mốc Số 18
Do quân đội Nhật Bản chụp tháng 7 năm 1940 ngay tại tường thành Trấn Nam Quan. Cột mốc số 18 lịch sử xác định biên giới Trung-Việt vào năm 1887. Xác định lãnh thổ bảo hộ của thực dân Pháp tại Đông Dương và cũng là khởi điểm Nam tiến của quân đội Thiên Hoàng giao tranh với các nước Châu Âu.
Trên Cột mốc số 18 ta đọc được: “Trung Việt Quốc Giới, Trấn Nam Quan Ngoại, Đệ Thập Bát Hiệu - No.18 FRONTIERE”
 
 
 
 
 
 
 
 
F3. Bản đồ vị trí Trấn Nam Quan và cột mốc số 18
Do chính quyền Tưởng Giới Thạch họa vào năm Dân Quốc 13 (1925). Khu vực Trấn Nam Quan và cột mốc số 18 (có đóng khung)
 
 
F4. Hữu Nghị Quan (tên gọi cổng Nam Quan do Trung Cộng đặt ra vào năm 1965)
Đây là một bằng chứng sống động nhất cho kết qủa “bác cháu ta cùng giữ nước” trong thời cộng sản cầm quyền tại Việt Nam . Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng (tham gia chiến tranh biên giới Trung-Việt 1979) chụp vào năm 2005. Các vạch và khung đánh dẩu trên ảnh là của tác giả ảnh và được giải thích như sau.
 
Hình trên là từ trên núi Kim Kê chụp xuống. Bên trái là Hữu Nghị Quan, vòng tròn màu vàng là cao điểm tranh chấp Trung-Việt, hiện thời do quân ta khống chế; Vùng màu xanh lá cây hình tam giác là khu vực gài địa lôi. Vạch dài màu tím là con đường sắt qua lại với Đồng Đăng. Vùng trắng giữa hình có hai cửa đường hầm là điểm cuối của cao tốc Nam Ninh đến Bằng Tường
  Nguyên văn:
上图]这是在金鸡山上往下拍的。左侧是友谊关,黄圈部分为中越有争议的高地,目前为我军控制;草绿色的三角为雷区 ,蓝线是通往同登的铁路。图片中间灰白处有两个遂道洞口为南宁至凭祥高速公路的终点站。

Tham khảo tại đây:
Tôi xin thuyết minh thêm. Núi Kim Kê là cao điểm chiến lược nằm ở cánh trái cổng Nam Quan, ngay vị trí chụp ảnh của tên cựu chiến binh này chính là đất Việt Nam . Khu vực tam giác trong hình chính là khu vực của cột cây số Km0 của Việt Nam là nơi mà vào đầu tháng 7.2007, phía Trung Cộng đã tuyên bố hoàn tất gỡ bỏ tấm đạn địa lôi (mìn) cuối cùng, bảo đảm thông thương an toàn cho “vùng Hữu Nghị, Hòa bình vạn tuế!”. Trong các hình ảnh của chương tiếp theo ta sẽ rõ hơn về vị trí này. Ở đây ta đã có khái niệm về việc Ải Nam Quan đã mất trong cự ly ra sao! Việc mất lãnh thổ qủa là nghiêm trọng! không phải là 100m, 150m, hoặc 200m. Cự ly trong hình có thể tính bằng Km! Hai lỗ đen gần giữa tâm hình là đường ra vào của cao tốc Nam-Hữu (Nam Ninh-Hữu Nghị Quan với chiều dài 179.2 Km. Nam Hữu khởi công vào ngày 28.04.2003 và chính thức khai thông vào ngày 28.12.2005, cũng là đường quốc lộ số 322 của Trung Cộng với điểm tận cùng giáp với Km0 của QL1 Việt Nam. Một âm mưu mới hơn đang hình thành!).
Như ta thấy, cả một vùng đồi núi của Việt Nam đã bị Trung Cộng ngang nhiên san bằng và xây dựng công trình trong nhiều năm, vẫn không hề có một chút phản ứng nào của bọn cầm quyền CSVN. Hay nói đúng hơn là đã có một sự thỏa thuận nhượng Ải Nam Quan từ hàng chục năm trước?

F5. Ảnh chụp vệ tinh vị trí của Hữu Nghị Quan
Khu vực Hữu Nghị Quan (đóng khung) so với đường biên giới Trung-Việt màu vàng. Ảnh do cựu chiến binh Trung Cộng thiết kế để mô tả lại chiến trận biên giới Trung-việt năm 1979. Lúc này, Hữu Nghị Quan đã nằm sâu trong đất Trung Cộng từ đời…Hồ Chí Minh!
 
“Con đê đầu khấn lạy Chư Phật mười phương…”
Ải Nam Quan đã mất, Đất thiêng đã mất! Có ai còn nhớ Phi Khanh-Nguyễn Trãi?
 
Chương II
 KẺ BÁN ẢI NAM QUAN VÀ KM ZÉRO Ô NHỤC!
 Kẻ bán Ải Nam Quan là ai?
Kẻ bán Ải Nam Quan và bán luôn cả cơ đồ dân tộc Việt Nam cho Trung Cộng chính là Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Máu bán nước ăn sâu vào từng đời của bọn lãnh đạo CSVN. Để chứng minh rõ ràng những tội lỗi của bọn bán nước buôn dân này vẫn còn những hình ảnh làm tang chứng. Hãy tiếp tục xem…  
Giai đoạn 1938-1945, Hồ Chí Minh hoạt động “cách mạng” tại Quảng Tây.  
Năm 1945 thực hiện cướp chính quyền tại Việt Nam .
 
  Năm 1950 tiếp tục sang Trung Cộng mưu cầu viện trợ vũ khí lương thực kháng Pháp.
 
 
(HCM bí mật sang Quảng Tây ngày 16.01.1950. HCM là người trùm khăn đứng thứ hai bên phải hình)
Việc qua lại giữa hai Đảng CS Trung-Việt liên tục diễn ra tại cổng Nam Quan. Tháng 10 năm 1953, Chánh Vụ Viện Trung Cộng đổi tên cổng Nam Quan thành “Mục Nam Quan” (chữ “Mục” có nghĩa là: hòa thuận, hòa hợp, thân mật, thân thiết…), đồng thời cả hai chính phủ Trung-Việt thành lập Ủy Ban Cửa Khẩu Mục Nam Quan. Cùng năm, thỏa thuận theo Chánh Vụ Viện Trung Cộng, Việt Nam mở cửa tự do cho hai cửa khẩu Bình Nhi – Nam Quan. Năm 1953 đã có 276.000 lượt qua lại cổng Nam Quan giữa hai bên.
 
(HCM qua lại cổng Nam Quan trong những năm 1950)
 
Tháng 2 năm 1954, hai bên chính phủ Hà Nội-Bắc Kinh soạn ra “Hiệp Định Mậu Dịch Biên Giới”.  
Ngày 26.09.1954, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu CSVN xuất phát từ cổng Nam Quan tham dự hội nghị tại Nam Ninh.  
Ngày 10.11.1954, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VN là Phạm Văn Đồng đi từ cổng Nam Quan sang Bằng Tường tiếp tục đi Bắc Kinh ra mắt Chu Ân Lai.
Ngày 26.02.1955, khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội-Trấn Nam Quan. Hồ Chí Minh đọc diễn văn chúc mừng tại cổng Nam Quan.
 
 
  
HCM và Chu Ân Lai yến tiệc xa hoa tại Bắc Kinh tháng 06.1955)
  Tháng 12.1958, hai huyện Ninh Minh, Long Tân kết hợp với Bằng Tường (Trấn Bằng Tường) thành lập huyện Mục Nam.  
CSVN phản ứng! Ngày 27.04 đến 02.05.1959, Trung-Việt hội nghị vấn đề biên giới tại Bằng Tường. Ngày 10.05.1959, chính phủ Trung Cộng quyết định xóa bỏ đơn vị “huyện Mục Nam ”. Ninh Minh, Long Tân , Bằng Tường trở về đơn vị hành chính cũ.  
Ngày 04.09.1959, Chu Ân Lai đáp máy bay đến Bằng Tường hội đàm cùng Hồ Chí Minh vấn đề biên giới Trung-Việt.  
Năm 1960, Phạm Văn Đồng trồng cây si để làm mốc cho Km0 của Việt Nam .
  
(Cây si do PVĐ trồng (?) nhìn từ bên phía VN. Vị trí tương ứng với khoảng cách của tường thành cổng Nam Quan cũ bên VN)
 
 
(Cây si PVĐ nhìn từ bên cổng Hữu Nghị Quan của TC)
 
 
(Cây si PVĐ nhìn từ trên lầu thành Hữu Nghị Quan. Cụm nhà trắng là Hải Quan TC xây lại trên nền "nhà tròn". Xa thẳm bên kia là cột Km0 hiện tại)  
Ngày 09.04.1961, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh “hội đàm” tại lầu 2 của cổ thành Mục Nam Quan. “Hội đàm” về nội dung gì thì cả hai bên đều không công bố. Chỉ biết rằng cuộc “hội đàm” mờ ám tại Mục Nam Quan của hai lãnh đạo cộng sản Trung-Việt được viết trong sách giáo khoa của bọn Trung Cộng là “mở ra một trang sử mới cho quan hệ Trung-Việt”.
 
(Lầu 2 tại Mục Nam Quan với nguyên trạng cuộc "hội đàm" giữa CÂL và HCM)
 
  
(Hình ảnh HCM và các lãnh đạo CSTC trưng bầy)
 
 
(Bảng vàng ghi lại sự kiện)
 
Ngày 05.03.1965, Quốc Vụ Viện Trung Cộng và chính phủ CSVN cử hành lễ đổi tên “Mục Nam Quan” thành “Hữu Nghị Quan”. Tham dự phía bên Việt Nam có Tổng lãnh sự VN trú tại Nam Ninh và đoàn chính phủ VN đến từ Lạng Sơn.
 
…Và kể từ sau đó, chính phủ CSVN đã dâng trọn Ải Nam Quan cho Trung Cộng để tiếp nhận viện trợ vũ khí tiến đánh miền Nam-Việt Nam Cộng Hòa.
 
 
 
 
 
  
(So sánh với hình ảnh Mục Nam Quan năm 1959. Đoàn đại biểu CSTC lễ phép chụp ảnh tại cổng Nam Quan bên phía VN)
 
 (Năm 1965. Công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan tuyên thệ trước khi vào VN làm 
 
 
(Thiết đạo binh: công binh đường sắt TC giả dạng bộ đội VN)
 
  
(Năm 1965. Quân chính qui TC giả dạng bộ đội VN tuyên thệ tại Hữu Nghị Quan. Hướng về TC đồng thanh hô lớn: "Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!". Trong ảnh là Sư đoàn 62 Cao Xạ TC)
 
   
(Tham gia tra tấn tù binh Mỹ tại VN)
  
(Tham gia bắt sống phi công Mỹ tại VN. Người cầm ảnh là cựu chiến binh TC tham chiến tại VN năm 1966)
 
   
(Huy chương "Đoàn Kết Chiến Thắng Giặc Mỹ" do chính HCM ký tặng)
 
 
(Hoặc do TT Phạm Văn Đồng ban thưởng)
   
(Cả hai Hồ - Mao đi từ Ải Nam Quan cùng mang vũ khí vào gây tang tóc cho dân miền Nam VN)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét