26/9/10

Một thoáng Osaka - Nghĩ về thái độ vô cảm ở VN


Một trong những “đặc quyền” của giới làm khoa học là được đi đây đi đó, chẳng những chỉ để tiếp thu và trao đổi ý tưởng với đồng nghiệp, mà còn có cơ hội biết thêm một nền văn hóa khác. Đã từ lâu tôi mong ước được dịp ghé thăm nước Nhật, một quốc gia với nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, xứ sở của hoa anh đào; và cũng là nơi tôi có nhiều bạn bè, đồng nghiệp. Đầu năm nay, dịp may đó đã đến: một hiệp hội chuyên môn quyết định tổ chức hội nghị khoa học thường niên ở Osaka, một thành phố lớn thứ hai ở Nhật. Thế là tôi có cơ hội làm một chuyến đi với hai chuyện: vừa thực hiện được “mộng ước” chu du, lại vừa có dịp đi làm việc.

 Ngắm Nhật… 

Chuyến bay mang danh nghĩa Qantas của Úc với mã số QF-373, nhưng trong thực tế do Hãng Hàng không Nhật, Japan Airlines (JAL), đảm nhiệm. Tôi cảm thấy như mình bị Qantas “bán cái” cho JAL, và trong thâm tâm không hài lòng mấy với cách tổ chức này. Thế nhưng có người bạn cho tôi biết đó là một hình thức “Shared flight”, tiết kiệm xăng dầu, và đôi bên (Qantas và JAL) cùng có lợi. Chẳng phải chỉ có giữa Qantas với JAL, mà ngay cả giữa Qantas với Vietnam Airlines cũng có một hợp đồng như thế. Thời đại “rational economics” có khác!  

Ấn tượng của tôi về Hãng Hàng không JAL là tiếp viên phục vụ (toàn phụ nữ trẻ, nhìn ai cũng giống ai, chắc là do việc bảo tồn gen của họ quá cao!) vừa xinh gái, vừa cực kỳ lịch sự với hành khách. Tự dưng tôi làm một so sánh với tiếp viên hàng không của Vietnam Airlines và phải ngậm ngùi mà nhận xét rằng tiếp viên của ta còn phải học thêm về tính lịch sự với hành khách.  

Về thức ăn trên chuyến bay, JAL chỉ có một món duy nhất: đó là gà rô-ti mà tôi chẳng muốn nhìn đến, chứ nói gì đến ăn (Có ai thích những món ăn trên máy bay với những cái tên nghe rất kêu, nhưng thực tế thì hỡi ơi… phũ phàng làm sao!). Phần lớn các tiếp viên phục vụ nói được tiếng Anh, nhưng khá hạn chế. Tôi nghĩ khả năng tiếng Anh của họ không hơn, nếu không muốn nói là kém hơn, tiếp viên Việt Nam. Có khi họ nói mà tôi phải khá vất vả mới hiểu họ nói gì; ngược lại, họ cũng phải kiên nhẫn để nhìn tôi nói với tay lẫn chân thì họ mới hiểu tôi muốn gì. Sự hạn chế về tiếng Anh còn biểu hiện qua một số biển hiệu trong máy bay. Chẳng hạn như trong một phòng vệ sinh họ đề hàng chữ “Please do not throw foreign articles to the toilet” (“Làm ơn đừng vứt những đồ xa lạ vào bệ xí”)! Chữ “foreign” ở đây rất lạ và không phải là cách nói của người Anh, Mỹ! 

Sau gần 10 giờ bay, máy bay bắt đầu hạ cánh xuống Phi trường Quốc tế Osaka/Kansei. Lúc đó là 10 giờ đêm, nên chẳng thấy gì phía ngoài, mà chỉ toàn biển với nước mênh mông. Sau này tôi mới biết phi trường xây ngoài biển, cách đất liền đến 5 hay 6 cây số. Nối giữa đất liền và phi trường là một xa lộ xây trên mặt biển, như hai cây cầu vĩ đại. Nhìn phi trường như một tòa nhà vĩ đại trên biển này, tôi chợt chạnh lòng nghĩ chả biết bao giờ Úc mới có một phi trường như thế (Ở Úc, 20 năm về trước tôi đã nghe giới chính khách Úc nói đến xây một phi trường quốc tế, và nay hơn 20 năm sau, họ vẫn còn đang … nói!). Bạn tôi nói Nhật đang chuẩn bị xây một phi trường như thế (trên biển) tại một thành phố khác ở Nhật.

http://www.airport-technology.com/projects/kansai/images/4_kansai_international_airport_osaka.jpg
     Phi trường Osaka, xây trên mặt biển

Vào phía trong phi trường thấy vắng tanh. Nhân viên hải quan làm việc một cách uể oải. Thủ tục hải quan tương đối gọn, và an ninh cũng không quá nặng nề như các phi trường ở Mỹ hay Úc sau ngày 11.09.01. Họ chẳng nhìn chứ nói gì đến xét hành lý! Cô nhân viên hải quan chỉ hỏi tôi một câu cho lấy lệ: “You come from Autralia?” (Ông đi từ Úc đến đây à?). Và thế là tôi ra ngoài phi trường... Lúc đó là khoảng 10giờ30 tối. 
Phố đêm Osaka 
Ở ngoài phi trường, tôi lại phải đối phó với vấn đề bất đồng ngôn ngữ. Tôi tìm xe để đi về khách sạn, nhưng chẳng thấy xe taxi đâu cả. Hỏi nhân viên chung quanh thì ai cũng... cười trừ (vì họ không hiểu tiếng Anh và tôi thì mù tịt tiếng Nhật). Nhìn lên các bảng hiệu thì 80% là tiếng Nhật. Tôi than thầm trong bụng: ôi, chả lẽ số mình phải ngủ bờ ngủ bụi tại đây đêm nay sao?!... Nhưng may quá, tôi xông xáo đi hỏi tứ tung thì cũng gặp một hành khách biết tiếng Anh. Anh này chỉ cho tôi cách bấm cái máy tự động chết tiệt kia (toàn tiếng Nhật) để mua vé đi về khách sạn ở trung tâm thành phố. Thực ra, không cần taxi, vì cứ 10 phút thì có một chuyến xe bus (mà họ gọi là “Bus limousine”) rời phi trường đi về thành phố.  

Khi lên xe bus, tôi nghe lời hướng dẫn tự động (bằng tiếng Anh!) là hành trình từ phi trường về trung tâm Osaka khoảng 14 phút. Tôi chuẩn bị tinh thần để về khách sạn, nhưng 20 phút, 25 phút, 30 phút… trôi qua, mà xe vẫn chạy bon bon trên xa lộ! Tôi tưởng mình nghe nhầm (tôi nghĩ chắc có vấn đề phát âm ở đây: 14 và 40 rất dễ bị nhầm!). Đến 60 phút sau thì xe bus mới dừng ở bến xe trung tâm Osaka. Trên đường xe chạy, tôi để ý thấy hai bên đường nhiều building mà trong đó vẫn thấy người cặm cụi làm việc ở văn phòng (nên nhớ lúc đó là gần 11 giờ tối). 

Từ bến xe trung tâm Osaka tôi phải tìm taxi đi về khách sạn. Thấy taxi đậu đầy đường, và tài xế người nào cũng mặc veston màu đen, đeo găng tay màu trắng. Khi lên một chiếc taxi, tôi chỉ cho ông tài xế cái tên khách sạn. Ông ta nhìn tôi thân mật và nói tiếng Nhật xí xô xí xào một hồi, tất nhiên là tôi chẳng hiểu gì. Tôi nói lại bằng tiếng Anh: “Tôi muốn đi đến khách sạn này”, và tay chỉ vào tên cái khách sạn trên tờ giấy in ra từ email. Mặc cho tôi nói tiếng Anh, ông trả lời bằng tiếng Nhật. Lại một tràng xí xô xí xào và quơ tay. Nhưng nhìn qua ánh mắt ông, tôi thấy ông ta có vẻ miễn cưỡng chở tôi. Tôi hơi ngạc nhiên, chẳng lẽ ông ta không thích tôi. Nhưng tôi thì kiên trì đòi đi, và có lẽ vì quá chán với cái ông khách quái gở(!) này, nên ông ta cũng chịu chở tôi đi. Chỉ độ 3 phút sau tôi đã đến khách sạn, và chi phí chỉ 60Y, nhưng cộng với chi phí “background” (chi phí cơ bản) là 660Y, tôi phải trả 700Y, tức gần 10 đô-la Úc. Bây giờ thì tôi hiểu sự miễn cưỡng của ông tài xế (và hối hận khi có ý nghĩ ông ta không thích mình), vì ông không muốn tôi tốn đến 700Y cho một chuyến đi mà tôi nên đi bộ! Ôi, thật là bất đồng ngôn ngữ cũng hao tổn túi tiền như bỡn. 

Nhận phòng khách sạn xong đã hơn 11 giờ rưỡi tối. Vì tính ham vui và thấy phố xá vẫn còn đông người, tôi liền xuống đường nhập với đám đông đi dạo phố. Trời gần nửa đêm mà ngoài đường người ta đi lại vẫn đông. Nhiều người, phần lớn là đàn ông, hình như là vừa xong nhiệm sở, và vào nhà hàng ăn uống, phì phèo thuốc lá tứ tung. Tôi lang thang hết đường này sang phố khác, khám phá, mạo hiểm, chụp hình, nhìn, nghe... Nói chung đường phố Osaka chật hẹp, xe đông, nhưng phong cách lái xe không có vẻ “lưu manh” như ở Sydney hay ở một vài thành phố bên Mỹ. Thời tiết lúc đó tương đối ẩm, nhưng không quá ẩm ướt như ở Thái Lan hay Việt Nam.  

Cuối cùng thấy đói bụng, tôi mạo hiểm vào một quán nhỏ tí tẹo, chỉ vừa cho 6 người ngồi là cùng, nhưng phần trên lầu chắc rộng hơn. Phía ngoài quán có một cô và một thanh niên khi mới gặp tôi đã gập lưng chào và nói những câu gì nghe như “hự hự” mà tôi đoán chắc có nghĩa “Chào mừng khách”. Phía trong quán, người đầu bếp, đầu quấn khăn màu đen, chân đi đi lại lại nhanh nhẹn, tay làm “phù phép” những cọng mì, còn miệng thì cứ như là hò hét gì đó. Nhìn thấy tôi vào, anh chàng đầu bếp nói một tràng tiếng Nhật (mà nhìn qua ánh mắt tôi nghĩ anh ta đang chào đón tôi). Với ngôn ngữ múa tay, và nụ cười trừ, tôi cũng kêu được một lon bia và món xào bắp cải, rồi một mình nhâm nhi. Hai anh chàng Nhật ngồi bên cạnh, với dáng dấp công chức hay quan to, nhìn tôi mỉm cười một cách thân thiện, nhưng chả nói năng gì được. Cũng là một kinh nghiệm thú vị.  

Về đến khách sạn, tôi mới để ý thấy căn phòng 200 đô-la một đêm này thật là chật chội! Chỉ một cái giường nhỏ vừa đủ cho một người ngủ, một cái bàn vừa đủ để cái ti-vi 19 inch, một cái ấm điện nấu nước, và một vài cái ly để uống trà là gần hết chỗ. Cái bàn viết nhỏ tí tẹo, mà chỉ cần đặt cái máy vi tính notebook của tôi lên cũng đã chiếm hơn phân nửa! Vào thám hiểm cái phòng tắm và toilet thì nó còn chật chội hơn nữa! Chật đến nỗi khi ngồi xuống không ngọ ngoạy chân gì được cả. Tuy chật chội thế, nhưng tất cả đều cực kỳ sạch sẽ và ngăn nắp. Tôi thầm bực mình là cái khách sạn như thế này mà tốn đến 200 đô la Úc ư, ở Việt Nam với giá này thì chắc phòng tiện nghi gấp trăm lần. Thôi, biết nói gì đây, mình chỉ ngủ ở đây vài đêm thôi mà, có ăn đời ở kiếp gì đâu mà phải bực mình cơ chứ!

Sáng hôm sau, thức sớm đi họp. Cuộc họp kỳ này chỉ thu hút khoảng 1200 đồng nghiệp từ khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam (Con số dự trù là khoảng 2000 người). Ngoài hành lang, có người cho rằng vì Nhật ở xa quá, nên các đồng nghiệp từ Âu châu và Mỹ châu vắng mặt khá nhiều. Nhiều công ty thuốc và công ty công nghệ y học cao của Mỹ và Âu châu cũng vắng mặt (Tuy nhiên, các công ty lớn như MSD, Eli Lilly, Norvatis đều có quầy hàng). Hầu hết các báo cáo của Trung Quốc đều không có ai trình bày, vì chẳng có phái đoàn nào từ Trung Quốc cả! Cũng chẳng thấy báo cáo nào từ Việt Nam. 

Một ngày dài họp hội qua đi. Tối lại, Ban tổ chức có một buổi khai mạc chính thức cho cuộc hội nghị 5 ngày này. Họ cho mời một đoàn múa truyền thống đến biểu diễn trong ngày khai mạc hội nghị. Đoàn múa gồm nam và nữ; nam thì đầu quấn khăn, mặc quần ngắn; nữ thì đội nón dẹp (cạnh nhọn vút trên không) và mặc áo giống như áo người nông dân Trung Quốc hay mặc. Đoàn múa còn có một ban nhạc gồm khoảng chục người. Họ đánh trống, thổi kèn inh ỏi. Điệu múa lúc chậm, lúc nhanh, lúc dồn dập, lúc khoan thai…Hình như diễn viên trình bày một hoạt cảnh nông dân trong xã hội Nhật khoảng trăm năm về trước. Nói chung, tôi không thấy có gì đặc biệt.  

Đêm sau là “Japanese Night”, hay “Nhật Dạ”, tức là dành cho Ban tổ chức phô trương văn hóa ẩm thực của người Nhật. Họ mời tất cả các tham dự viên đến một nhà hàng rất lớn ở ngoại ô Osaka để thưởng thức các món ăn Nhật. Những món thịt nướng, rong biển, tofu, bún, mì, v.v... được trưng bày khá đẹp mắt, nhưng thử thức ăn để biết thôi, chứ nói là ngon thì chắc tôi tự dối lòng. Sau ăn uống là một màn trình diễn múa. Lần này họ mời một đoàn nghệ thuật trình diễn hai màn múa rắn và múa cá, kể lại một truyền thuyết về một chàng hiệp sĩ múa kiếm giết con rắn ác ôn chuyên vào làng ăn sống các thiếu nữ.  

Một đêm, tôi được mời đến nói chuyện tại bộ môn Nội tiết học thuộc khoa Y của Đại học Osaka, mà ấn tượng về các nhà khoa học Nhật còn lại trong tôi rất lâu. Buổi nói chuyện diễn ra sau hội nghị, tức khoảng 8 giờ tối, ấy thế mà rất nhiều nhà nghiên cứu, giáo sư và sinh viên tham dự. Nhìn qua hội trường với cả 100 người quả thật làm tôi xúc động, bởi vì nếu ở Úc giờ này chẳng còn ai trong phòng thí nghiệm, nói gì đến các giáo sư! Sau buổi nói chuyện là những trao đổi hào hứng, sôi nổi nhưng lịch sự. Chưa hết, ban tổ chức còn mời tôi đi tham quan một vòng cơ sở nghiên cứu trước khi ra quán ăn và… tranh luận tiếp! Tôi quả thật quí trọng các đồng nghiệp này vì thái độ học hỏi, tinh thần cầu tiến thật sự, chứ không hình thức như ở nước ta.  

Lịch sự và rất tận tâm, tận tình 

Một tuần ở Osaka, có dịp đi chung quanh thành phố và ngoại ô đã cho tôi một ấn tượng rất tốt đẹp về người Nhật. Họ có vẻ rất sẵn sàng giúp đỡ bất cứ ai đang gặp khó khăn. Một hôm tôi đi lạc đường (đường phố ở Nhật dĩ nhiên là viết bằng tiếng Nhật rất khó đọc), giữa đám đông người qua kẻ lại, tôi chẳng biết hỏi ai, đành liều hỏi… bất cứ ai đi ngang. Ấy thế mà người tôi hỏi đầu tiên, dù đang tất tả đi như chạy, dừng lại lắng nghe tôi (mà tôi biết anh ta cũng không hiểu tôi nói gì) nhưng qua bản đồ anh ta biết tôi muốn đi đâu; anh ta dẫn tôi đến tận đầu đường và cặn kẽ chỉ hướng đi, thậm chí đứng chờ xem tôi đi có đúng hướng không! Ôi, làm sao ở Mỹ và Úc, thậm chí tại quê hương Việt Nam, tôi có một người chỉ đường tốt như thế! Không chỉ người đi đường, mà ngay tại các trạm xe điện, người Nhật cũng tỏ ra rất lịch sự và rất tận tâm, tận tình chỉ dẫn cho những khách như tôi. Âu đó cũng là một nét đẹp trong văn hóa ứng xử mà chúng ta cần phải học từ họ. 

Nói về sự hiện đại của hệ thống xe điện của Nhật, tôi chỉ có thể mô tả bằng hai chữ: tuyệt vời. Thật vậy, so với Úc, hệ thống xe điện của Nhật chắc phải đi trước cả 20 năm. Điều làm tôi ấn tượng nhất là dù hệ thống xe điện chằng chịt dưới lòng đất như thế, mà xe chạy rất đúng giờ (chứ không phải như ở Úc: 95% xe điện Úc trễ giờ). Tôi nghĩ cũng là yếu tố con người cả thôi. Quả vậy, tôi thấy thái độ làm việc của người Nhật, từ hàng giáo sư, khoa học gia đến người lái xe điện và người phu quét đường, tất cả đều có vẻ nhận lãnh trách nhiệm của mình một cách nghiêm chỉnh, làm đến nơi đến chốn.  

Khi còn ở khách sạn, mỗi buổi ăn sáng tôi nhìn ra đường phố và chú ý đến một ông phu quét đường mà ấn tượng đẹp về ông tôi vẫn còn giữ mãi. Cứ mỗi sáng, đúng 7 giờ, không biết từ đâu ông đi xe đạp đến, dựng xe đạp vào một nơi dành cho xe đạp xong, ông bắt đầu làm việc. Mà đường xá bên Nhật thì quá sạch, chẳng có gì để ông quét dọn. Ấy thế là ông đi chầm chậm xem xét từng ngõ ngách có gì dơ bẩn không, có bao cao-su nào rớt không, có dấu kẹo sing-gum không…và làm sạch tất cả. Xong một đoạn đường, ông lại đến một đoạn đường khác và làm sạch đường. Nhìn qua thái độ làm việc, ông quả là một người yêu việc làm của mình, tự hào vì thành tích của mình, chẳng hề lộ vẻ đau khổ hay tự ti gì cả. Thật là đáng khâm phục!  
Ngẫm ta… 

Chỉ một tuần ở Nhật làm tôi suy nghĩ nhiều về những kinh nghiệm cá nhân ở quê nhà. Báo chí trong nước gần đây có một cụm từ rất hay để mô tả một cái tính rất mới của các nhân viên Việt Nam: vô cảm. Sự phổ biến của tính vô cảm này cực kỳ sâu rộng trong xã hội Việt Nam ngày nay. Đi đến đâu cũng thấy và gặp: nhân viên bán hàng, cán bộ nhà nước, y tá, nhân viên bệnh viện, nhân viên hành chính trong các đại học, v.v… đều biểu hiện thái độ vô cảm, dửng dưng trước khó khăn của khách hàng. 

Tôi có nhiều kinh nghiệm về cái tính này, và xin kể ra đây hầu các bạn. Một hôm tôi vào nhà sách Nguyễn Huệ trên đường Nguyễn Huệ ở Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm mua cuốn sách của tôi cho vài bạn bè. Tôi biết rõ nhà sách có bán sách của tôi, nhưng không biết khu nào. Tôi bèn hỏi cô bán hàng đang xớ rớ trong một quầy sách và hỏi (cho chắc ăn) ở đây có bán cuốn sách đó không. Chẳng cần suy nghĩ, và chẳng cần đi tìm, cô ấy trả lời ngay: không. Tôi nài nỉ cô thử đi tìm xem có không. Cô ta quả quyết là không. Thế nhưng khi tôi đi tìm vài chỗ thì có ngay cuốn sách.  

Một hôm khác, tôi có hẹn với một anh bạn là bác sĩ trưởng khoa một bệnh viện lớn tại thành phố Hồ Chí Minh. Đến bộ môn, loay hoay tìm hoài không thấy, tôi đành phải hỏi một anh nhân viên có vẻ rảnh rỗi (vì anh ta đang chơi games trên máy computer) là có bác sĩ X ở đây không. Anh ta quay lại nhìn tôi một hồi rồi nói: em không biết anh ơi, em chỉ làm hạch toán thu ngân thôi. Tôi nói bác sĩ làm ở khoa này, anh làm ơn hỏi ai xem có anh ấy ở đây không. Trước sự khẩn khoản của tôi, anh ta vẫn thản nhiên nói: em không biết. Sau một hồi gọi điện thoại tôi mới biết văn phòng anh bạn tôi chỉ cách phòng anh chàng thu ngân kia không đầy 5 thước! Khi đã vào và đi ngang chỗ anh chàng thu ngân đó, tôi chẳng thấy anh ta tỏ một thái độ “ăn năn hối lỗi” nào cả. Đúng là vô cảm!  

Một hôm tôi chứng kiến một cảnh rất “gai mắt” tại cổng trường Đại học Bách khoa TPHCM. Dưới cái nắng gắt mùa hè Sài Gòn, một anh công nhân nhễ nhại mồ hôi đẩy chiếc xe thủ công chở một đống sắt nặng nề vào cổng trường. Cổng đóng kín. Ba nhân viên bảo vệ đứng đó hút thuốc thơ thẩn nhìn anh công nhân, lúc này đang giơ tay ra dấu xin mở cổng. Cổng vẫn đóng kín. Anh công nhân phải khó nhọc lắm để xuống xe và đến gần nói gì đó xin phép mở cổng. Lúc này, một anh bảo vệ mới kéo lê bước chân đến mở cổng!  

Bất cứ ai từng quen sống tương trợ với nhau, và quen với tinh thần thông cảm cho người khó khổ đều rất phẫn nộ trước thái độ vô cảm này. Tôi cũng là một người chịu không nổi thái độ đó nên mới có lần đã nói thẳng rằng tôi không thích thái độ, mà tôi cho là bất nhẫn, của một anh bảo vệ. Tất nhiên, tôi phải gánh chịu những hậu quả bất hợp tác sau này của anh chàng bảo vệ ấy, nhưng tôi không hề thấy hối tiếc về cách tỏ thái độ của mình.  

Tôi có một nhận xét chung là thái độ vô cảm thường thấy trong những người có chút chức quyền, như nhân viên bảo vệ, cán bộ công nhân viên nhà nước, những người mà Cụ Hồ thường gọi là “đầy tớ của dân”. Ngày nay, họ chẳng phải là “đầy tớ của dân”, mà là “người đầy khổ dân chúng”. Họ ỷ có chút quyền thế trong tay và ra sức biểu dương quyền lực bằng những bắt chẹt nhỏ nhặt, bắt bẻ từ lời ăn tiếng nói của người dân, và đáng kinh tởm hơn là họ không cảm thấy thông cảm với nỗi khổ của người dân đang rất cần đến dịch vụ của họ. “Vô cảm” quả thật là một cụm từ cực kỳ thích hợp cho những trường hợp này.  

Có thể gọi vô cảm là biểu hiện của hiện tượng mà báo chí gọi là “suy đồi đạo đức” không? Cũng có thể lắm. Nó cũng có thể chính là hệ quả của một nền giáo dục ngày càng đặt nhẹ vấn đề đạo đức xã hội trong giáo dục học đường. Bất cứ lý do gì và nguyên nhân nào, thái độ vô cảm là một tình trạng gây nhức nhối, một căn bệnh “ung thư” đạo đức xã hội cần phải được điều trị ngay.  

Tôi lạm nghĩ ở mức độ cá nhân, người Nhật cũng chẳng sáng dạ hơn chúng ta, nhưng ở mức độ tập thể họ rõ ràng là một sức mạnh đáng kể. Và trong tập thể đó, nếu tất cả thành viên trong xã hội đều làm tốt công việc của mình được giao và đối xử với nhau bằng cái tình (Trịnh Công Sơn từng nói một câu chí lý: “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”) thì guồng máy xã hội chắc chắn sẽ vận hành tốt. Có lẽ nét văn hóa làm việc này đã đưa Nhật thành một cường quốc như ngày nay. Chúng ta cũng có thể học nét văn hóa đó của người Nhật, mỗi người một việc và làm tốt việc của mình, để góp phần nâng cao tầm vóc nước ta cho xứng đáng với tiềm lực của con người Việt Nam.
Bài đã đăng trên Người viễn xứ 2008

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét