26/9/10

Vinashin – chuyện bây giờ mới kể B

Vinashin chuyện bây giờ mới kể (Bài 4) [*]: 

NGƯỢC SÔNG HỒNG BẤT THÀNH TÀU “CỬU LONG – VINASHIN” GÃY LÁI

Lê Trung Thành
Từ khi Tập đoàn kinh tế Vinashin (VNS) thành lập tháng 5/2006, họ đã mau mắn kết nạp khoảng 200 doanh nghiệp lớn nhỏ để trở thành một tập đoàn kinh doanh đa ngành nghề lạ lùng nhất từ trước tới nay.
Những ông, bà “con nuôi” trải rộng từ Bắc vào Nam, từ đồng bằng đến vùng núi cao xa lắc, xa lơ đều được ân huệ gắn tên Vinashin ở phần cuối tên doanh nghiệp. Chẳng biết cách quản lý đàn con này ra sao nhưng thoạt nhìn, ai cũng biết nếu ông Chủ tịch Tập đoàn Phạm Thanh Bình dù có chỉ số IQ cao hết cỡ và có ba đầu sáu tay cũng không nhớ nổi tên và có chăm chỉ “đến thăm và làm việc” thì ông cũng chẳng bao giờ giáp mặt hết đống “con cái” sinh sôi mau mắn của mình! Tuy nhiên, vẫn có vài doanh nghiệp được ông đặc biệt “quan tâm, chăm sóc, hồ hởi mở rộng vòng tay đón chúng về với “mẹ” Vinashin. Nói một cách ví von, ông cho con tàu mang tên “Cửu Long – Vinashin” xuất bến từ km 9 – Quán Toan thuộc quận Hồng Bàng – Hải Phòng (Trụ sở Công ty Cổ phần Thép Cửu Long – Vinashin) ngược lên Hà Nội theo đường sông Hồng lên tận Yên Bái làm cuộc giải cứu ngoạn mục nhất, ly kỳ nhất chưa từng xảy ra trên đất Việt Nam!
Diễn biến câu chuyện này hơi dài dòng bởi sự việc xảy ra từ giữa những năm cuối thế kỷ hai mươi sang đầu thế kỷ hai mươi mốt, lúc các ông Vũ Tiến Chiến(1), Hoàng Quốc Hiển(2) còn đang giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái. Vào thời đó, Yên Bái còn nghèo lắm, các nhà lãnh đạo lo dân nghèo, dân đói nên nghe có cây gì, con gì chăn trồng mang lại ấm no là sẵn sàng du nhập. Trước tất cả là cây trẩu, cây sở, cây lai được trồng khắp nơi nhưng ít năm sau lại đốn bỏ, người dân nghèo vẫn hoàn nghèo, cụm từ “khổ sở lai” hình thành từ đó. Tới năm 1994, 1995 lãnh đạo Yên Bái quyết định chọn cây cà phê Catimo làm cây xóa đói giảm nghèo. Vào cuối những năm 2.000 đã có gần 1.800ha cà phê được trồng hầu hết các huyện, có năm cao nhất đạt gần 3.000ha! Cây cà phê Catimo xanh tốt được chạy vào thơ ca, nhạc họa, chạy vào các bài diễn văn đầy hào hùng của thời đại! Lúc đó, Công ty Vật tư Nông nghiệp Yên Bái – một doanh nghiệp nhà nước có hạng chuyên kinh doanh phân bón, giống cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật… được lãnh đạo tỉnh tin tưởng nên ngân hàng cho Công ty vay vốn, đầu tư hơn 41 tỷ đồng mua giống, phân bón cùng nhiều loại vật tư cần thiết đưa xuống tận các thôn các xã vùng sâu vùng xa để cung cấp cho các hộ trồng cà phê. Vật tư sẵn trong kho, bà con cần bao nhiêu cứ tới lấy về. Lãnh đạo các xã đứng ra nhận nợ thay, chờ khi có sản phẩm bán ra sẽ trừ vào số tiền đã nợ. Để chuẩn bị cho công tác thu mua, chế biến, Công ty cà phê Yên Bái ra đời và ông Tiến sỹ Nông học – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn Yên Bái được tỉnh ra quyết định giữ chức Giám đốc Công ty này.
Nhưng… Khi cà phê đến tuổi ra hoa, người ta chẳng thấy mấy cây kết trái! Cây nào có quả thì lưa thưa, năng suất cực thấp. Dân chúng hoang mang, chán ngán, lo lắng vì bao công sức, tiền của bỏ ra trồng cà phê nay chẳng thu lại được 5% - 10%. Thế là bà con bảo nhau chặt cà phê làm… củi. Đến năm 2004, diện tích chỉ còn lại 360ha. Catimo… về… mo! Kế sách tưởng như chắc ăn bị đổ vỡ hoàn toàn đã đẩy nhiều gia đình vào diện thiếu đói, mất đất, mất nhà, người ta đành gom góp chút sức tàn mua giống tre Bát Độ của Đài Loan về trồng lấy măng, lấy lá đắp đổi qua ngày. Còn Công ty Vật tư Nông nghiệp Yên Bái mất trắng vài chục tỷ đồng cả gốc lẫn lãi. Tuy nhiên vẫn có nhiều vị Chủ tịch xã (đứng nhận nợ thay dân) phải ra hầu Tòa án Nhân dân huyện sở tại!
Dư âm về cái chết tức tưởi của “Công chúa Catimo” chưa dứt thì kế hoạch trồng giống dứa Cayen ra đời. Sau khi điều tra thổ nhưỡng , người ta chọn ra 5 xã phía Bắc huyện Văn Yên gồm Châu Quế thượng, Châu Quế hạ, Đông An , Lâm Giang và Lang Thíp thành vùng chuyên canh trồng dứa với diện tích 2.400ha. Dựa vào phép tính mỗi ha dứa cho 50 tấn quả, nếu bán mỗi cân một ngàn đồng thì chẳng mấy chốc người nông dân sẽ có trong tay vài ba trăm triệu. Dứa nhiều như vậy, chắc phải xây ngay một nhà máy chế biến dứa và hoa quả xuất khẩu nên cái lễ khởi công xây dựng Nhà máy chế biến dứa, hoa quả xuất khẩu Đông An diễn ra khá rình rang. Lần này, Công ty Vật tư Nông nghiệp Yên Bái lại được vay hơn 41 tỷ đồng để thực hiện dự án hoành tráng với ước mong cây dứa Cayen mang đến vị ngọt ngào xóa nỗi chát đắng của cây cà phê catimo. Ngoài ra Công ty Vật tư Nông nghiệp còn đầu tư thêm 18,5 tỷ đồng xây dựng và mở rộng Nhà máy chế biến thức ăn gia súc Bình Sơn với thiết bị hiện đại mua từ CHLB Đức và 8,5 tỷ đồng triển khai xây dựng Trung tâm nuôi lợn công nghệ cao. Vậy mà, trời chẳng có mắt, lại gây “họa vô đơn chí” cho Yên Bái lần nữa. Cây dứa Cayen tàn lụi rất nhanh sau 3 năm thử nghiệm. Công ty Vật tư Nông nghiệp mất hơn 32 tỷ đồng vốn trồng gần 500 ha dứa, mất 6,7 tỷ đồng ở dự án xây Nhà máy chế biến thức ăn gia súc và mất hơn 3 tỷ đồng ở dự án chăn nuôi lợn. Tổng cộng họ bị lỗ và mất vốn khoảng 42 tỷ đồng.
Với một tỉnh nông nghiệp, thu nhập thấp thì con số thất thoát 42 tỷ là quá lớn nên cơ quan thanh tra, Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy Yên Bái vào cuộc sau khi nhận được nhiều thư tố cáo có quá nhiều sai phạm ở Công ty Vật tư Nông nghiệp. Sau khi làm rõ, Thanh tra tỉnh yêu cầu Ban giám đốc Công ty Vật tư Nông nghiệp kiểm điểm và đề nghị tỉnh ủy, UBND tỉnh có hình thức kỷ luật nghiêm khắc với các cá nhân sai phạm, đồng thời ra quyết định thu hồi số tiền thất thoát nộp vào ngân sách. Hơn thế nữa, các cơ quan chức năng đã chuẩn bị chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra Sở công an Yên Bái nghiên cứu, điều tra làm sáng tỏ thêm sự vi phạm pháp luật của các cá nhân liên quan…
***
Chính trong thời gian này, công ty Cổ phần Thép Cửu Long – Vinashin đang tiến hành các bước cuối cùng để triển khai dự án xây dựng Nhà máy luyện gang thép đặt tại khu công nghiệp phía nam thuộc xã Văn Tiến huyện Trấn Yên trên diện tích 28ha với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 là 594 tỷ đồng. Ngày 29/01/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh yên bái cấp giấy chứng nhận đầu tư số 119/ UBND-CNDT cho Công ty Cổ phần Thép Cửu Long - Vinashin xây dựng Nhà máy luyện gang thép có quy mô đầu tư: dây chuyền thiêu kết công suất 150.000t/năm, lò cao luyện gang lỏng 180m3/giờ, dây chuyền luyện phôi thép 200.000 tấn/ năm, dây chuyền sản xuất ô xy 3.000 m3/ giờ, tiến độ thực hiện là 18 tháng. Ngày 07-03-2007, lễ khởi công xây dựng Nhà máy được tổ chức khá lớn với sự có mặt của các ông Hoàng Quốc Hiển - Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái, ông Hoàng Xuân Lộc - Chủ tịch UBND tỉnh, ông Dương Anh Điền Phó bí thư Thành ủy Hải Phòng và tất nhiên có mặt ông Chủ tịch Vinashin Phạm Thanh Bình. Trong bối cảnh Yên Bái đang trống vắng các doanh nghiệp đầu tư và lĩnh vực sản xuất công nghiệp thì dự án xây dựng cơ sở sản xuất thép có suất đầu tư lớn của Vinashin được lãnh đạo tỉnh Yên Bái hết lòng giúp đỡ. Thông qua dự án đầu tiên thành hiện thực, Yên Bái ngỏ lời hợp tác toàn diện, lâu dài với Tập đoàn Vinashin đang “bừng bừng khí thế” và một biên bản chính thức ra đời ghi nhận rằng Vinashin sẽ sẵn sàng mở rộng đầu tư vào Yên Bái trên các lĩnh vực như công nghiệp, du lịch, thương mại và sẵn sàng giúp đỡ các huyện vùng cao giảm nghèo và phát triển bền vững. Có lẽ xuất phát từ mối quan hệ thân thiết này nên UBND tỉnh đã bàn bạc với lãnh đạo Vinashin cứu cho tỉnh một bàn thua trông thấy, ấy là tiếp nhận nguyên trạng Công ty Vật tư Nông nghiệp Yên Bái đang thua lỗ kéo dài và đầy bê bối. Sau khi nhất trí cao, UBND tỉnh Yên Bái phát ngay Công văn số 704/UBND-TH ngày 27/04/2007 gửi Thủ tướng Chính phủ xin chuyển giao Công ty Vật tư Nông nghiệp Yên Bái cho Vinashin quản lý. Hơn 6 tháng sau, ngày 30/11/2007 văn phòng Chính phủ gửi thông báo ý kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ tới UBND tỉnh Yên Bái và Vinashin “đồng ý chuyển Công ty Vật tư Nông nghiệp Yên Bái thuộc UBND tỉnh Yên Bái về làm đơn vị thành viên của Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam”.
Trước khi kết thúc năm 2007 sáu ngày, UBND tỉnh Yên Bái tổ chức lễ bàn giao nguyên trạng Công ty Vật tư Nông nghiệp Yên Bái cho Vinashin nhưng đến lúc này, người ta mới biết doanh nghiệp Nhà nước “hàng đầu” của tỉnh sẽ về làm “công ty con” dưới quyền quản lý của ông Nguyễn Tuấn Dương - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thép Cửu Long - Vinashin. Dẫu có chút thắc mắc tại sao Công ty cổ phần lại có quyền quản lý doanh nghiệp Nhà nước (?) nhưng vẫn là một kết thúc có hậu. Cơ quan điều tra, cơ quan thanh tra, Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy… ngậm ngùi tạm xếp lại hồ sơ đang thụ lý dở dang. Mấy vị lãnh đạo cao cấp của tỉnh thở phào nhẹ nhõm và sung sướng nhất chính là các cá nhân đang bị đưa vào tầm ngắm của pháp luật. Họ đã “bơi từ sông ra biển”, đã trở thành “con” được cấp giấy khai sinh với tên gọi “Công ty Vật tư Tổng hợp Cửu Long-Vinashin”. “Thừa thắng xông lên”, Thường vụ Tỉnh ủy Yên Bái lại trao đổi với lãnh đạo Vinashin đề nghị mau chóng tiếp nhận thêm 2 doanh nghiệp nữa là Công ty Cổ phần Sứ Kỹ thuật Hoàng Liên Sơn và Công ty Cổ phần Khoáng sản Yên Bái. Thế là ngay tại vùng cao xa tắp vinashin có ba Công ty con được gắn tên Cửu Long-Vinashin. Tên tuổi của ông Phạm Thanh Bình và ông Tổng Giám đốc Nguyễn Tuấn Dương nổi lên như cồn. Người ta dành không ít lời ngợi ca hai ông đã mang lại sự ổn định tình hình chính trị, kinh tế cho tỉnh Yên bái đầy sóng gió… Biết tin Vinashin tiếp nhận doanh nghiệp khá dễ dàng nên có vài ba công ty khác ở Yên Bái muốn được gia nhập nhưng họ bị từ chối bởi không có sự “giới thiệu”của các cơ quan đầu tỉnh.
***
Những tháng đầu tiên mang nhãn mác “Cửu Long - Vinashin” Công ty Vật tư Tổng hợp được Vinashin ưu đãi cho vay 6.7 tỷ đồng để có vốn kinh doanh vật tư nông nghiệp và trả mấy khoản nợ quá hạn nhưng vì đang lún sâu vào thua lỗ triền miên, số tiền còm cõi này không cứu nổi doanh nghiệp và hơn 500 người lao động. Con số nợ 80 tỷ đồng không có nguồn thanh toán đẩy Công ty vào đường cùng không lối thoát nhưng khốn khổ nhất là các cán bộ, công nhân vốn gắn bó với công ty hàng chục năm trời không có tiền lương, không có tiền bảo hiểm xã hội (là không có bảo hiểm y tế) nhiều người đành rời bỏ công việc quen thuộc để tìm kiếm nghề khác mưu sinh. Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội tỉnh Yên Bái, năm 2009 có năm doanh nghiệp trong tỉnh nợ 5,321 tỷ đồng tiền bảo hiểm xã hội thì riêng Công ty Vật tư Tổng hợp Cửu Long – Vinashin nợ 32 tháng với số tiền 3,441 tỷ đồng, Công ty Cổ phần Khoáng sản Cửu Long – Vinashin nợ 228 triệu. Cho đến nay, chỉ còn khoảng 200 cán bộ công nhân cố gắng “bám trụ” nhưng tương lai khá mịt mù.
Thiếu tiền kinh doanh, không tiền trả nợ và tập đoàn “mẹ” cùng “ông bố nuôi” Nguyễn Tuấn Dương đã cạn túi từ lâu nên Công ty Vật tư Tổng hợp lại nghĩ tới chuyện vay vốn ngân hàng có sự bảo lãnh của Tập đoàn. Tuy nhiên, dù đã hai lần ông Phạm Thanh Bình ký vào thư bảo lãnh tín dụng ngắn hạn cho Công ty Vật tư Tổng hợp vay số tiền 56 tỷ đồng (mỗi lần 28 tỷ) nhưng chẳng ngân hàng nào chịu mở hầu bao cấp tiền cho Công ty Vật tư Tổng hợp dù ông Bình cam kết Vinashin chịu trách nhiệm trả toàn bộ gốc và lãi thay trong trường hợp Công ty Vật Tư Tổng hợp không trả đúng hạn cho ngân hàng. điều đó cho thấy uy danh Vinashin đã tụt dốc thảm hại đến nhường nào!
Không vay được tiền, Công ty VTTH đành nhắm mắt đưa chân, lập hội đồng đánh giá thực trạng, lập hội đồng thanh lý bán công khai nhiều tài sản cố định của các cửa hàng, kho vật tư nông nghiệp, thu được gần hai tỷ đồng nhưng thanh tra tỉnh Yên Bái đã phát hiện ra nhiều sai phạm về công tác quản lý đất đai trong quá trình tiến hành thanh lý, nâng giá bán quá cao so với giá trị tài sản còn lại.
Mặc cho Công ty Vật tư Tổng hợp Cửu Long – VNS ở bên bờ vực phá sản, Tập đoàn VNS chưa có phương thức nào cứu vãn “đứa con bị ruồng bỏ” này. Bằng chứng xác thực nhất là vào ngày 11/12/2009 tại thành phố Yên Bái trong Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Nghị định 30A/2008 Nđ – CP, Chính phủ giao trách nhiệm cho các tập đoàn, Tổng Công ty nhà nước hỗ trợ các huyện nghèo nhất nước. VNS nhận giúp hai huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải, ông Bình khoe rằng, năm 2009, VNS đã chi 2 tỷ đồng xóa nhà dột nát cho hơn 830 gia đình ở hai huyện trên. Ông cũng dõng dạc tuyên bố một kế hoạch gây xúc động lòng người là từ năm 2010 đến năm 2020, VNS sẽ hỗ trợ 200 tỷ đồng giúp Trạm Tấu và Mù Cang Chải phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, giáo dục, đào tạo nghề, y tế và văn hóa xã hội. Nhiều cán bộ, công nhân còn lại ở Công ty Vật tư Tổng hợp Cửu Long – Vinasin tự hỏi nhau “ông Chủ tịch hứa bỏ ra 200 tỷ đồng vậy tại sao không bỏ ra vài chục tỷ cứu doanh nghiệp của mình đang sống dở, chết dở???” Còn các nhà thầu đang xây dựng Nhà máy luyện gang thép thì buồn ra mặt bởi từ tháng 8/2009, công trình “trọng điểm ngành cơ khí” mang tên Cửu Long – VNS không còn tồn tại nữa mà thay bằng tên khác “Nhà máy luyện gang thép Cửu Long – Yên Bái” mất hẳn cái tên VNS kiêu hãnh một thời! Họ hứng khởi bao nhiêu khi tham gia thi công dự án sản xuất thép xốp từ hạt quặng sắt Yên Bái để chế biến thành phôi thép đưa vào lò cán nóng thành thép tấm đóng tàu như ông Phạm Thanh Bình, ông Nguyễn Tuấn Dương lên giọng vào tháng 3/2007 thì bây giờ đây, họ ngán ngẩm vì vốn liếng không đủ, thanh toán chậm chạp dẫn đến dự án kéo dài tới tận bây giờ chưa sản xuất được sản phẩm nào. Quặng sắt chất đầy sân bãi vài chục tháng nay đã ngả mầu, cỏ mọc ngập đầu…
***
Đến lúc này, các vị lãnh đạo tỉnh Yên Bái và ông chủ Vinashin cay đắng nhìn thảm cảnh suy sụp của Công ty Vật tư Tổng hợp không phương cứu chữa. Ông Phạm Thanh Bình rơi vào cảnh… “tiến thoái lưỡng nan”, hy vọng giải cứu Công ty Vật tư Tổng hợp Cửu Long VNS bất thành lại tiền mất, tật mang. Nhưng điều an ủi cho các vị lãnh đạo Tập đoàn là ở triển lãm Vietship - một triển lãm về ngành đóng tàu, công nghiệp phụ trợ và vận tải biển do VNS đứng ra tổ chức thu hút ba, bốn trăm các hãng tàu lớn, các tập đoàn từ khắp nơi thế giới tới dự, thì trong gian hàng của VNS người ta thấy trưng bày cả… dứa, làm khách quan nước ngoài hết sức… thích thú và lạ lẫm!
Cuộc giải cứu có một không hai có vẻ như đã xong từ ba năm trước, những người trong cuộc liên quan tới sự kiện này tưởng được yên thân nhưng họ không ngờ đến việc vẫn có rất nhiều cán bộ, công nhân đã viết đơn tố cáo, kiên trì đấu tranh đòi đưa ra ánh sáng công lý những vi phạm pháp luật của Ban lãnh đạo Công ty Vật tư Nông nghiệp Yên bái trước kia và Công ty Vật tư tổng hợp Cửu long – VNS hiện tại. Họ cũng dũng cảm quy kết Ban thường vụ Tỉnh ủy Yên Bái đã tiếp tay che giấu cho một nhóm người… Chính vì vậy sau khi tiến hành kiểm tra các dấu hiệu vị phạm, tại kỳ họp lần thứ 32 ngày 5/7/2010, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã ra kết luận như sau: “Ban thường vụ tỉnh Yên Bái đã buông lỏng lãnh đạo, chưa chỉ đạo xử lý dứt điểm, triệt để các vụ việc nổi cộm để nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm, trong đó có một số cán bộ diện Ban thường vụ Tỉnh ủy Yên Bái quản lý chưa được xem xét, xử lý kịp thời, gây dư luận bất bình… Qua kiểm tra dấu hiệu vi phạm, phát hiện ba doanh nghiệp thực hiện ba dự án sử dụng vốn Nhà nước đang bị thua lỗ, mất vốn, chưa được xem xét xử lý đã bàn giao cho VNS do Chính phủ quyết định”.
Kết luận đã quá rõ ràng!
Con tàu “Cửu Long – VNS” do ông Phạm Thanh Bình phát lệnh ngược sông Hồng “cứu bạn” đã thất bại hoàn toàn. Liên minh “hợp tác toàn diện, lâu dài” giữa các vị lãnh đạo Yên Bái và VNS ẩn chứa âm mưu xóa bỏ dấu vết vi phạm pháp luật của mấy doanh nghiệp bước đầu đã bị phanh phui.
Ủy ban kiểm tra Trung ương quyết định tiếp tục xem xét vụ việc trên và sẽ thông báo vào kỳ họp thứ 33 sắp tới.
Chúng ta hãy chờ xem những ông nào, bà nào tham gia cuộc giải cứu này phải lộ mặt nguyên hình???
Chú thích:
[*] Xem từ Bài 1, BVN ngày 21-7-2010
(1) Ông Vũ Tiến Chiến – Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái nay là Chánh văn phòng Ban chỉ đạo TW chống tham nhũng.
(2) Ông Phùng Quốc Hiển – Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái nay là Chủ nhiệm Ủy ban Ngân sách và tài chính Quốc hội.

Vinashin – Chuyện bây giờ mới kể (Bài 5) [*] 

khi người khổng lồ chân nặn bằng đất sét mắc bệnh “Sở Cuồng” [1] mãn tính

Lê Trung Thành
Khoản tiền Chính phủ phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu tiên đã biến Vinashin sau một đêm ngủ dậy trở thành “người khổng lồ”. Sau khi ký hợp đồng vay lại 750 triệu USD từ Bộ Tài Chính VNS ồ ạt rải tiền dọc theo “bờ biển nước ta dài 3.200km…” với sự hậu thuẫn của những người từng mộng mơ tới cụm từ “lọt vào tốp 5 cường quốc đóng tàu”! Ông Phạm Thanh Bình chi tiền quá mạnh tay cho nhiều dự án chưa lập luận chứng, chưa cần báo cáo đầu tư khiến nhiều địa phương lầm tưởng rằng, VNS đang đầy ắp vốn sẽ là cứu cánh giúp họ mau chóng nâng cao tỷ trọng sản xuất công nghiệp, mở ra một niềm hy vọng mới cho những tỉnh thuần nông quanh năm đầu tắt mặt tối mà dân vẫn nghèo nàn, lạc hậu. Nhờ cách nghĩ cả tin đến ngây thơ, VNS nhanh chóng “chiếm đoạt” được những vùng lúa năng suất cao, những cánh rừng ngập mặn phòng hộ đẫm phù sa, những vùng làng đông đúc dân cư, những đầm tôm, hồ cá, những ruộng muối trắng ngần mà chẳng tốn kém mấy tiền. Được nuông chiều, được mời mọc, được đãi đằng còn hơn cả các chính khách, ông Chủ tịch Tập đoàn VNS ở đâu cũng hứa với những lời có cánh cỡ chim đại bàng khiến quan chức địa phương ngây ngất.
Các ông Lê Lộc – Tổng giám đốc phụ trách đầu tư và ông Nguyễn Quốc Ánh – Tổng giám đốc phụ trách kinh doanh lại có dịp trổ tài biến những bài “đít-cua” của Chủ tịch Phạm Thanh Bình thành hiện thực bằng những lễ khởi công hoành tráng, có đủ mặt văn võ bá quan chứng kiến. Dự án nối tiếp dự án ra đời và tập trung nhiều nhất, lớn nhất là vào năm 2006 và 2007 bởi VNS đã nắm trong tay 750 triệu USD, 8.300 tỷ đồng phát hành trái phiếu trong nước và 600 triệu USD vay của Ngân hàng Thụy Sĩ.
Nếu tính từ vùng đất Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh (đã viết trong bài 3) với siêu dự án khổng lồ 15 tỷ USD khởi công tháng 3.2007 thì tại khu kinh tế tổng hợp Đình Vũ (Hải Phòng) công ty đóng tàu Phà Rừng khởi công xây dựng cảng tổng hợp và cụm công nghiệp phụ trợ vào ngày 1.8.2007 với tổng mức đầu tư 2.500 tỷ đồng. Về đến tỉnh lúa Thái Bình, VNS lập dự án xây dựng Nhà máy đóng tàu và cảng Tân Đệ, chiếm 28,5 ha đất của huyện Vũ Thư, đồng thời xây dựng Nhà máy đóng tàu Diêm Điền thuộc huyện Thái Thụy trên diện tích 30 ha. Tổng vốn đầu tư của hai dự án là 1.109 tỷ đồng. Lãnh đạo tỉnh Thái Bình mừng lắm, nghĩ tới những diêm dân trẻ sẽ trở thành những công nhân kỹ thuật đóng tàu nên quyết định trích ngân sách hỗ trợ cho VNS tiền san lấp mặt bằng 18.000 đồng/m2 giảm 50% tiền thuê đất và cấp cho mỗi học viên được đào tạo nghề là 500.000 ngàn đồng cho một người. Tiến vào đất Nam Định, dự án của VNS vĩ đại hơn cả với kế hoạch xây dựng Khu kinh tế Ninh Cơ trên diện tích 8.780 ha của hai huyện Hải Hậu và Nghĩa Hưng. Một cảng biển Lạch Giang hiện đại sẽ hình thành để phục vụ 4 khu công nghiệp trong đó có một nhà máy nhiệt điện công suất 600MW và… một sân bay hạng trung làm bàn đẩy cho Nam Định tiến vọt lên… mây xanh. Cùng lúc ấy vào tháng 6.2007, VNS chính thức triển khai ba dự án khác bao gồm “Nhà máy đóng tàu Thịnh Long (thị trấn Thịnh Long), Nhà máy chế tạo thiết bị đóng tàu VNS ở khu công nghiệp Mỹ Trung huyện Mỹ Lộc”. Hai nhà máy này sẽ hoạt động vào quý 1 năm 2008. Để đảm bảo năng lượng cho các cụm công nghiệp hoạt động, VNS giao cho Công ty cổ phần công nghiệp đóng tàu Hoàng Anh làm chủ đầu tư xây dựng. Nhà máy nhiệt điện Sông Hồng công suất 175 MW với số vốn 1.481 tỷ đồng, khởi công vào ngày 12.5.2007 và dự kiến sẽ phát điện tổ máy đầu tiên vào cuối năm 2009. Trước một nhà đầu tư đáng kính như VNS, lãnh đạo tỉnh Nam Định vui mừng khôn xiết. Nhưng rồi niềm vui cứ giảm dần theo thời gian, khi các cơ quan hải quan, cảnh sát bảo vệ môi trường phát hiện những chuyện động trời trong gần 931 tấn thiết bị nhập khẩu từ Hàn Quốc về cảng Cái Lân có giá trị 610 tỷ đồng mà chủ hàng là Công ty cổ phần đầu tư Cửu Long – VNS (một công ty con của Công ty cổ phần thép Cửu Long – VNS). Khi tiến hành kiểm tra, người ta thấy hầu hết các “thiết bị xây dựng Nhà máy nhiệt điện Sông Hồng” đã qua sử dụng. Loại cũ nhất sản xuất… 1967 và sớm nhất là 1978, 1979. Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) đã gửi văn bản số 2242/BCN ngày 22.5.2007, tới Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Nam Định về việc thẩm tra dự án Nhà máy nhiệt điện Sông Hồng nêu rõ: “Dự án đầu tư và thiết kế cơ sở cho thấy có dấu hiệu sử dụng máy móc thiết bị cũ (kể cả thiết bị chính)…”. Ngày 15.6.2007, Bộ công nghiệp lại gửi công văn tới UBND tỉnh Nam Định yêu cầu đình chỉ dự án xây dựng Nhà máy. Vì trong danh mục quy hoạch nhiệt điện đến năm 2010 và 2020 không có chủ trương xây dựng Nhà máy nhiệt điện Sông Hồng nên tới ngày 6. 9. 2007, Bộ Công thương chính thức gửi văn bản số 1501 tới UBND tỉnh Nam Định và Tập đoàn VNS khẳng định việc xây dựng Nhà máy nhiệt điện không phù hợp với quy hoạch kế cả đến năm 2025. Còn với lô hàng 931 tấn han rỉ, cũ nát đến vậy nhưng VNS vẫn bao biện rằng, các thiết bị này… còn dùng tốt, còn đáp ứng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và đề nghị sớm giải tỏa cho họ mang về công trình lắp đặt!
Trên dải đất miền trung, VNS cũng có hàng chục dự án lớn nhỏ, nào là đầu tư xây dựng cụm công nghiệp tàu thủy Quảng Bình, cụm công nghiệp phụ trợ và cảng Cửa Việt (Quảng Trị) tiếp nhận chuyển giao cảng Chân Mây (Thừa Thiên – Huế) và xây dựng cụm công nghiệp tàu thủy tại Đà Nẵng… Tuy nhiên chẳng có dự án nào lớn bằng đại dự án xây dựng Công ty công nghiệp tàu thủy Dung Quất tại Quảng Ngãi. Từ năm 2001, khi khu kinh tế Dung Quất đang im ắng vì sự chuẩn bị thoái lui của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Nga khỏi liên doanh xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất thì sự có mặt của lá đơn xin đầu tư xây dựng Nhà máy đóng tàu và cụm Công nghiệp phụ trợ của Tổng công ty CNTT Việt Nam thổi một làn gió ấm xua bớt sự hoang lạnh của toàn dự án. Các vị lãnh đạo tỉnh và khu kinh tế Dung Quất “trải thảm đỏ” đón những người hùng VNS, cắt ngay 118 ha đất của xã Bình Đông, huyện Bình Sơn và cấp giấy chứng nhận đầu tư… nhanh chưa từng thấy! Ngày 17.2.2003, vns tổ chức lễ khởi công trong niềm hạnh phúc vô bờ của người dân quanh vùng. Cái tin VNS sẽ tuyển đến 6.000 lao động rồi lên 10.000 vào năm 2010 làm nức lòng trai tráng đang sống lắt lay trên đồng ruộng. Nhờ khoản vay ưu đãi 99,8 triệu USD của Chính phủ Trung Quốc thông qua Chính phủ Việt Nam, ngày 20.10.2004, VNS ký hợp đồng với nhà thầu Tổng công ty đầu tư phát triển Hoa Nguyên – Thượng Hải và Tổng công ty xuất nhập khẩu máy Vân Nam (Trung Quốc) làm tổng thầu thiết kế, mua sắm, xây dựng Nhà máy đóng tàu Dung Quất. Với tổng vốn của cả hai giai đoạn ước tính 6.200 tỷ đồng (giai đoạn 1: 3.700, giai đoạn 2: 2.500), ông Phạm Thanh Bình sẽ đẻ ra một chàng khổng lồ mang tên Dung Quất, có thể đóng tàu 150.000 DVVT tiến đến đóng tàu 400.000 DVVT. Bên cạnh đó, khu công nghiệp phụ trợ bao gồm mười nhà máy cộng với nhà điều hành bảy tầng, khu hậu cần tại thành phố Vạn Tường khang trang có đầy đủ biệt thự, nhà ở cao cấp rộng 25 ha đủ cho 6.000 hộ gia đình, chuyên gia, Kỹ sư sinh sống, kèm theo một nhà ăn ba tầng “lớn nhất Việt Nam” vì mỗi tầng rộng đến 3.200 m2 và một nhà nghỉ ca đêm có 320 phòng đủ chứa 1.500 người! Thật là đáng nể! Dự án này có mức đầu tư 1.200 tỷ đồng, khởi công ngày 20.12.2007 nhưng chẳng nhúc nhích là bao nên cách đây ít ngày UBND tỉnh Quảng Ngãi có công văn nhắc nhở VNS đẩy nhanh tiến độ, nếu chậm nữa thì sẽ bị thu hồi! Điều đáng nói nhất vẫn là chuyện đóng tàu của người khổng lồ Dung Quất. Ông Lê Lộc từng tuyên bố chắc như “đinh đóng … vào giấy” là hết năm 2008, con tàu chở dầu 104.000 DVVT đóng mới cho Công ty vận tải viễn dương VNS sẽ xuất bến đi chở dầu cho Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, thế mà tới bây giờ, tàu chẳng thấy đâu! Còn ba chiếc tàu 105.000 DWT đóng theo hợp đồng ký với Tổng công ty cổ phần vận tải dầu khí Việt Nam (Pvtrans) từ ngày 14.2.2007 với sự chứng kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hà Nội cũng mới xong…10%. PVtrans thiệt đơn, thiệt kép, phải bỏ hơn 50 triệu USD mua một con tàu chở dầu của Hàn Quốc thế chỗ cho việc VNS không giao tàu đúng hẹn. Nghe đâu đến quý IV – 2010, may ra có một con xuống biển nhờ sau khi Tập đoàn Dầu khí quốc gia tiếp nhận Nhà máy đóng tàu Dung Quất, họ đã gấp rút đầu tư tiền vốn đẩy nhanh tiến độ, tạo thêm việc làm cho hàng ngàn công nhân mất việc từ thời ông Bình, ông Cao Thành Đồng quản lý.
Nghĩ đến chuyện Dung Quất, nhắc tới chuyện từ ngày ký nhiều hợp đồng đóng tàu với các chủ hàng mà chưa xong chiếc nào, những ai từng đến, từng ngắm nhìn “khẩu hiệu hành động” của ông Phạm Thanh Bình “Đóng tàu lớn, giao tàu nhanh, chất lượng tốt, an toàn cao, giá thành hạ” mới thấy hài hước làm sao! và người ta cũng nhớ tới câu nói đầy kiêu hãnh của ông Tổng giám đốc Lê Lộc “Nhà tỷ phú Gami - người Isarel đã đặt VNS đóng 8 tàu chở dầu loại 315.000 DWT tại Dung Quất” . May mà lời nói khuếch khoác này không thành hiện thực!
Trong lúc “lên đồng”, Chủ tịch Vinashin đã tới Khánh Hòa bàn chuyện xây dựng Nhà máy sản xuất thép liên doanh với tập đoàn POSCO – Hàn Quốc trên diện tích 996 ha vùng vịnh Vân Phong. Dự án đã được Thủ tướng gật đầu cho tiến hành nghiên cứu nhưng kẹt một nỗi nếu nó ra đời sẽ phá hỏng quy hoạch và môi trường của vịnh Vân Phong nên ông Bình đã ngãng ra. Thay vào đó, ông tuyên bố sẽ bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng đầu tư một loạt dự án rộng 1.300 ha phía vịnh Cam Ranh. Theo đó, các khu công nghiệp, khu du lịch sinh thái sẽ được xây dựng từ 250 – 300 ha ở thôn Hòa Diên, xã Cam Thịnh Đông, từ 400 – 450 ha tại khu công nghiệp Cam Ranh và 100 ha tại Bắc Hòa Quy. Một khu đô thị lớn rộng 200 ha sẽ mọc lên trên vùng xoài và cát trắng Cam Phú – Cam Linh. Hơn thế nữa VNS sẽ thay chỗ Tổng công ty hàng không Việt Nam đầu tư vào dự án Hồ Sông Cạn và cùng Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước đầu tư xây dựng lại cảng hàng không dân dụng Cam Ranh thành một nhà ga quốc tế sang trọng bậc nhất miền trung.
Còn vào đến vùng muối công nghiệp và chế biến, nuôi trồng thủy sản ở khu vực Cà Ná, huyện Ninh Phước của đất Ninh Thuận ngập nắng, ông Phạm Thanh Bình dẫn theo phái bộ của Công ty Maju Stabil mới thành lập ngày 24.5.2007, thành viên của Tập đoàn Lion - Malaysia tới bàn chuyện thành lập Công ty TNHH Thép VNS – Lion với số vốn điều lệ 780 triệu USD tương đương 12.480 tỷ đồng. Trong đó vốn của Maju chiếm 70% VNS góp 30% bằng … đất. Giai đoạn 1 sử dụng 662 ha để xây dựng khu liên hợp thép công suất 4,5 triệu tấn một năm và kết thúc giai đoạn 2 sẽ sản xuất 14,4 triệu tấn/năm vốn đầu tư lên tới 9,8 tỷ USD. Liên doanh sẽ xây dựng một nhà máy điện công suất 1.450 MW và cảng biển công suất bốc xếp 50 triệu tấn một năm. Khỏi phải nói tới sự sung sướng cao độ của các vị lãnh đạo Ninh Thuận. Vùng đất quá nghèo, thu nhập thấp vào loại nhất nước, có một dự án thép là trên cả tuyệt vời! vội vã cấp đất, vội vã cấp giấy chứng nhận đầu tư, Ninh Thuận làm hết sức mình để cho dự án không tuột khỏi tay mình. Đáp lại thịnh tình của địa phương, VNS và đối tác tổ chức lễ khởi công vào sáng 23.11.2008 hứa hẹn tới hết 2010 kết thúc giai đoạn 1. Thế nhưng sau lễ, sau khi đền bù 84 tỷ đồng để thu hồi 662 ha, liên doanh chẳng thấy động tĩnh gì! VNS đỗ lổi cho Maju, còn Maju im hơi lặng tiếng, chắc là lại do… khủng hoảng kinh tế giống VNs nên nhà đầu tư bỏ cuộc.
Một số nhà kinh tế phân tích rằng, Lion là tập đoàn kinh doanh đa ngành, không thạo sản xuất thép bằng buôn bán nên họ thừa thông minh để làm bài toán góp vốn với VNS. Chộp được hơn sáu trăm ha đất đền bù cho dân hết hơn tám chục tỷ đồng mà VNS tính đổi lấy 30% vốn trị giá 234 triệu USD thì mỗi ha đất Cà Ná có giá lên tới gần… 8 tỷ đồng. Như vậy Maju tìm đường tháo thân là có lý lắm! Chỉ tiếc cho tỉnh Ninh Thuận, mong chờ mãi mới có nhà đầu tư “xịn” đến nhưng chưa nóng chỗ đã thấy mùi thất bại.
Vào tới vùng đồng bằng sông Cửu Long, VNS vừa ngỏ lời đã nhiều tỉnh chìa tay đón rước trọng thể. Mấy ông lãnh đạo tỉnh Tiền Giang nhiệt tình đến mức sẵn sàng giao ngay 285 ha đất trồng rừng phòng hộ ven đê biển thuộc xã Vàm Láng, huyện Gò Công Đông cho VNS san lấp mặt bằng xây dựng Khu công nghiệp tàu thủy Soài Rạp. Dự án xây dựng nhà máy đóng tàu cỡ 70.000 DVVT tại vùng đất nghèo của tỉnh Tiền Giang mang lại niềm hy vọng cho biết bao người. Hy vọng đến mức trong bản quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Gò Công Đông có đoạn viết “Lấy công nghiệp cơ khí đóng tàu, làm trọng tâm phát triển công nghiệp. Xây dựng khu công nghiệp tập trung Vàm Láng – Gia Thuận với quy mô diện tích 500 ha doVNS đầu tư”. Vậy mà từ khi giao đất cho VNS tính đến nay đã hơn 4 năm nhưng chưa xong công tác san lấp. Chờ mãi không thấy tiến triển gì, vào tháng 6.2009, UBND Tiền Giang gửi công văn yêu cầu VNS mau chóng hoàn thành các thủ tục đầu tư và chính thức thu hồi 200 ha đất định giao thêm cho VNS xây dựng khu công nghiệp.
Khu công nghiệp tàu thủy Soài Rạp – VNS, cái tên kêu như chuông giờ tắt lịm. Phần đất san lấp cỏ mọc lút đầu, còn người dân Vàm Láng sống trong lắt lay tạm bợ. Những đầm tôm mang lại giàu có cho bao hộ gia đình biến mất từ lâu nhưng không ai quên được cái giá đền bù chỉ có… 8.000 đồng một m2 không đủ mua một tô hủ tiếu! Chẳng thế mà toàn bộ 285 ha, VNS “són” ra có… 30 tỷ đồng tiền bồi thường!
Tương tự như số phận đen đủi của Khu công nghiệp tàu thủy Soài Rạp, Cụm công nghiệp và đô thị ở huyện Lai Vung và cảng sông, khu đô thị mới, trường dạy nghề ở thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp cũng chẳng hơn gì. Vào tháng 11.2007, VNS khẳng định quyết tâm đầu tư lớn vào vùng Đồng Tháp với đủ loại dự án. Nào là xây dựng Nhà máy đóng tàu 30.000 DWT, nào là xây dựng Khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng hiện đại tại khu vực Tràm Chim huyện Tam Nông để góp phần bảo vệ các loài chim di cư… Toàn là dự án cực lớn, cực hấp dẫn nên lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp chủ động lên phương án bồi hoàn cho dân và dài cổ ngóng nhà đầu tư từ Hà Nội vào. Càng chờ, càng lặn bóng chim, tăm cá nên UBND Đồng Tháp cũng gửi công văn cho VNS ngày 16.7.2009 đề nghị trả lời về việc đầu tư vào Đồng Tháp. Trong khi chờ đợi, người dân vùng dự án treo phấp phỏng, lo âu, chẳng dám sửa nhà, xây nhà, chẳng dám bỏ vốn cấy trồng vì sợ VNS “bất ngờ đánh úp”.
Khổ đau, tức tưởi, dẫn tới việc nhiều gia đình căm giận VNS đã tước đoạt nguồn sống bao đời của họ rồi để hoang hóa nhưng bi hài nhất, có lẽ là dự án Khu công nghiệp tàu thủy và Nhà máy đóng tàu Hậu Giang. Được ra ở riêng từ năm 2004 sau khi tách khỏi Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang thiếu thốn trăm bề. Ước mong xây dựng hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng kỹ thuật điện, nước, cầu đường giao thông song song với các kế hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp nhưng vốn ngân sách nhỏ nhoi nên Hậu Giang có nhiều chính sách ưu đãi các nhà đầu tư có hướng làm ăn lâu dài trên đất Hậu Giang. Chính vì vậy, khi Tập đoàn VNS lập dự án xây dựng Cụm công nghiệp tàu thủy và Nhà máy đóng tàu Hậu Giang thì đến cả Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng mừng rỡ. Tại lễ khởi công sáng 30.4.2007, ông có mặt từ sớm để chia vui cùng lãnh đạo và nhân dân xã Đông Phú, huyện Châu Thành. Ông bày tỏ sự cảm thông với 887 hộ dân phải từ bỏ ruộng vườn màu mỡ, phì nhiêu để nhường lại 290 ha đất chuẩn bị xây dựng các nhà máy phụ trợ và hạng mục quan trọng nhất là Nhà máy đóng tàu có vốn đầu tư 1.100 tỷ đồng chia làm hai giai đoạn. Tại đây chẳng bao lâu nữa sẽ đóng mới những con tàu từ 20.000 – 30.000 DWT và tương lai sẽ đóng các loại tàu 50.000 – 70.000 DWT. Chắc chắn bà con nông dân và con em họ sẽ đổi đời. Ông Thủ tướng tràn đầy hưng phấn khi đề cập tới VNS xây dựng dự án này không chỉ giúp Hậu Giang, mà giúp toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển. Ông chỉ đạo VNS cần nhanh chóng thành lập một trường đào tạo nghề công nghiệp tàu thủy tại khu vực này để lớp thanh niên địa phương có cơ hội trở thành những công nhân kỹ thuật giỏi tay nghề…
Sau buổi lễ lớn, những người nông dân mừng ít lo nhiều. Những nỗi lo lớn nhất là không còn đất đai canh tác, không còn nhà ở, nếu cầm một nắm tiền mà chẳng có việc làm thì chẳng mấy chốc lại tiêu tan. Còn “người khổng lồ” VNS có vẻ biết điều hơn nhiều công trình khác. Họ tiến hành san lấp, xây dựng mấy nhà làm việc, lắp dựng mấy dàn cẩu, tuyển dụng vài ba trăm công nhân kể cả ngoài miền Bắc vào và đóng vài chiếc… xà lan. Bên cái barie có một tấm pa-nô khổ đại thể hiện quy mô dự án cực kỳ hoành tráng… Thời gian lần lữa trôi qua, dân tình xung quanh vừa thở dài tiếc của, tiếc ruộng bỏ hoang, vừa bàn chuyện chẳng thấy công trình xây dựng triền tàu 30.000 DWT, chẳng thấy xây cầu tàu cỡ tàu 50.000 DWT neo đậu. Các chú công nhân hì hục làm suốt tháng chỉ nhận vài trăm ngàn tạm ứng, đánh ra quán “cắm sổ”. Chủ quán cho thiếu mãi cũng sạt vốn luôn! Nhiều người rủ nhau bỏ việc đi nơi khác kiếm kế sinh nhai. Vậy mà ông chủ đầu tư VNS vẫn thực hiện được một “cú lừa tinh thần” ngoạn mục. Ấy là vào ngày 19.3.2008 trước lúc khai mạc Festival Lúa gạo lần thứ nhất tổ chức tại thị xã Vị Thanh, và trước buổi hội thảo kêu gọi đầu tư vào Hậu Giang, VNS đã tổ chức một lễ ký kết hợp đồng tại Hội trường UBND tỉnh, có mặt nhiều lãnh đạo Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, Tỉnh ủy, UBND và nhiều chức sắc khác. Nội dung của bản hợp đồng ký kết giữa Công ty TNHH một thành viên Nhà máy đóng tàu Hậu Giang với Công ty TNHH một thành viên đầu tư và phát triển CNTT Hậu Giang là: Đóng mới 5 tàu biển loại 20.000 DWT với tổng giá trị 1.500 tỷ đồng, thời gian giao lô hàng vào cuối năm 2012. Trong thời gian đó, Nhà máy đóng tàu Hậu Giang sẽ đóng vài con tàu loại 6.800 DVVT “lấy ngắn nuôi dài”. Hợp đồng đã ký gần hai năm rưỡi nhưng nào có thấy sắt thép chuyên chở về, nào có thấy triền đá, ụ iếc như nhà máy vẽ lên. Dĩ nhiên càng không thấy bóng hình Khu công nghiệp phụ trợ với các công trình xây dựng nhà máy sản xuất container công suất 120.000 TEU/năm, nhà máy nghiền xi măng công suất 1 triệu tấn/năm, nhà máy nhiệt điện công suất 3.600 MW! Eo ơi, toàn là công trình vĩ đại mà VNS muốn dành tặng cho Hậu Giang mau đứng ngang tầm… thế giới??? Khỏi phải nói, đến giờ này lãnh đạo tỉnh Hậu Giang thất vọng về “người khổng lồ” VNS đến mức nào nhưng sự thất vọng ấy không chứa hết khổ đau cùng cực của hàng ngàn người dân Châu Thành sống dở, chết dở vì các dự án hoang đường của tập đoàn VNS.
***
Trong một bài báo, thậm chí là hàng chục bài, chẳng người viết nào có thể tả hết, chuyển tải hết thói ngông cuồng của một số người lãnh đạo Tập đoàn VNS. Họ toan tính đầu tư tới mọi nơi, mọi chỗ với cách nghĩ, cách làm cẩu thả, không nhìn trước, trông sau, thích chỗ nào là cắm chỗ đó, chà đạp lên số phận của người dân cần cù, chất phác, thấp cổ, bé miệng vì họ ỉ lại vào sự nôn nóng của không ít người lãnh đạo địa phương. Thói hư danh ngấm vào máu khiến họ mắc phải căn bệnh “Sở Cuồng” trầm trọng không phương cứu chữa. Hậu quả khôn lường tất yếu xảy đến. Hàng ngàn tỷ đồng từ vốn vay trả lãi từ 7 – 12 % một năm nằm chôn chết ở các dự án đầu voi đuôi chuột kéo dài từ địa đầu Móng Cái đến chót mũi Cà Mau. Hàng ngàn, hàng chục, hàng trăm ngàn người, đa phần là nông dân, diêm dân hết cơ hội sống trên mảnh đất họ từng chôn rau, cắt rốn vì giấc mơ cường quốc đóng tàu ám ảnh các ngài quản trị VNS.
Bởi vậy, dẫu sẽ có năm người, bảy người nào đó rồi đây bị pháp luật trừng phạt nghiêm khắc thì hậu quả căn bệnh “Sở Cuồng” mãn tính của “người khổng lồ có đôi chân nặn bằng đất sét” – VINASHIN – vẫn còn đeo bám dai dẳng mấy thế hệ mới có thể nguôi ngoai!
LTT
HC Mạng Bauxite Việt Nam biên tập
[*] Xem từ Bài 1 trên BVN ngày 21-7-2010.
[1] Sở Cuồng: Tên là Tiếp Dư, một người cuồng nước Sở thời Xuân thu, lấy hiệu là Sở Cuồng, ngông nghênh, lánh đời, Khổng Tử muốn gặp không thèm gặp mà bỏ đi, vừa đi vừa hát. Ở đây tác giả muốn mượn một cái tên quen thuộc trong kho điển cố phương Đông để gọi cái kẻ mà về mặt ngông cuồng một tấc đến trời thì trên đời này có lẽ hiếm người sánh được và có lẽ cũng không người nào tỉnh táo dám đặt cược niềm tin vào ba tấc lưỡi của anh ta trừ mấy vị quan đầu tỉnh và... Thủ tướng chúng ta – BVN chú.

VINASHIN – CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ Bài 6: 

Con ngựa hoang sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật

Lê Trung Thành
Cuối năm 2005, tin tức về những cuộc đánh bạc cỡ triệu đô của ông Bùi Tiến Dũng, Tổng giám đốc Ban quản lý dự án 18, làm xôn xao dư luận xã hội. Khi ông ta bị bắt giam thì những người am tường chuyện hậu trường đã nói tới “cái sảy, nảy cái ung” và một “cơn động đất” sẽ xảy ra làm “sụp đổ” căn biệt thự đẹp nhất cơ quan Bộ GTVT ở số 80 phố Trần Hưng Đạo – Hà Nội. Đó là nơi ông Bộ trưởng Đào Đình Bình và Thứ trưởng thường trực Nguyễn Việt Tiến ngồi làm việc. Diễn biến của trận động đất không phải xảy ra mấy giây mà dồn dập vào những ngày cuối tháng 3, đầu tháng 4.2006.
Ngày 29.3:
Thủ tướng Phan Văn Khải ký quyết định số 481/QĐ-TT tạm đình chỉ chức vụ Thứ trưởng GTVT Nguyễn Việt Tiến để kiểm điểm.
Ngày 31.3:
Thủ tướng gửi văn bản tới Bộ Chính trị đề nghị tạm đình chỉ công tác của Bộ trưởng GTVT Đào Đình Bình.
Ngày 1.4:
Ban bí  thư TW Đảng ra quyết định 4735 đình chỉ  sinh hoạt đảng của ông Nguyễn Việt Tiến tại Ban cán sự Đảng bộ GTVT, BCH Đảng bộ Khối các cơ quan kinh tế TW và BCH Đảng bộ cơ quan Bộ GTVT.
Ngày 3.4:
Bộ Chính trị họp xét kỷ luật ông Đào Đình Bình nhưng để ngỏ … cho ông Bình tự nhận hình thức kỷ luật.
Ngay buổi chiều, tại phòng làm việc, ông Đào Đình Bình viết đơn xin từ chức Bộ trưởng GTVT, Bí thư Ban cán sự đảng bộ GTVT và xin rút tên khỏi danh sách dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.
Ngày 4.4:
Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an bắt tạm giam ông Nguyễn Việt Tiến …
***
Quay trở  lại những hình ảnh đầy sóng gió cách đây hơn bốn năm để thấy một thảm cảnh tan hoang, xơ xác đã xảy ra (do những hệ lụy của vụ án PMU18) tại cơ quan đầu não của Bộ GTVT. “Rắn đã mất đầu”, hoạt động ở các cục, vụ tham mưu gần như tê liệt và lúc này, mọi người lại rì rầm chuyện ông A, ông B … sẽ lên thay quyền Bộ trưởng, ông C, ông D … sẽ được về làm bộ trưởng. Trong bối cảnh xáo trộn nhân tâm như thế, ông chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Phạm Thanh Bình cũng thử so găng cùng các đối thủ. Cái rủi của người này có thể là cái may của người khác. Nắm được lợi thế ngành đóng tàu đang phất lên nhờ khoản vốn vay “từ New York bay xuống” và dư âm của bản hợp đồng đóng 15 tàu hàng khô 53.000 DWT cho hãng Graig – Anh Quốc, ông Phạm Thanh Bình muốn chứng tỏ sức mạnh của mình bằng việc gấp gáp tổ chức hạ thủy con tàu 53.000 DWT đầu tiên mang tên HL01-Florence vào chiều tối ngày 6.4.2006 tại Nhà máy đóng tàu Hạ Long – Quảng Ninh.
Buổi lễ hạ thủy được chuẩn bị khá kỹ lưỡng, rình rang vì sự có mặt của Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và nhiều quan chức cao cấp khác. Sự có mặt của ông Phó Thủ tướng (đang được phân công theo dõi hoạt động của vài bộ, trong đó có Bộ GTVT) giữa lúc nước sôi lửa bỏng mang nhiều hàm ý sâu xa nên mặc dù có rất nhiều chuyên gia khuyên can ông Bình chưa nên hạ thủy con tàu vì điều kiện con nước và triền đà thiếu an toàn, ông ta không nghe và vẫn quyết định tiến hành theo chương trình đã lập.
Khi chai sâm-banh đập mạnh vào đuôi tàu vỡ tan theo phong tục, con tàu lao xuống nước… Những lời chúc tụng ngợi ca, những cái bắt tay hoan hỷ, làm chủ lẫn khách ngất ngây. Nhưng khi họ ngủ gà, ngủ gật trên xe trực chỉ Hà Nội thì một vết rách lớn ở vỏ tàu khu vực khoang hầm số 4 làm nước biển tràn ngập nhiều khoang, cỗ máy chính giá trị hàng triệu đô la cũng bị đe dọa bởi các khoang đang thông nhau qua những lỗ công tác. Tin dữ đến tai ông Bình. Đế trấn an dư luận, cả ông Giám đốc Nhà máy đóng tàu Hạ Long lẫn ông Phạm Thanh Bình đều xuất hiện trong bản tin thời sự tối 9.4 của Đài truyền hình Việt Nam. Các ông nói bừa rằng “sự cố rò tàu Florence khi hạ thủy là bất khả kháng”, còn nguyên nhân là “do một thanh dầm gỗ bị xô lệch đã dựng đứng lên và đâm vào vỏ ngoài của tàu. Cú đâm đã khiến vỏ tàu tại khoang hầm số 4 bị xé một lỗ thủng dài gần 1 mét”.
Sự việc xảy ra ngoài mong đợi của ông Phạm Thanh Bình đã bồi thêm một cú đấm trời giáng vào thời khắc xấu nhất của ngành GTVT, ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của chính ông. Do vậy, ông phải tìm mọi cách bưng bít thông tin hậu quả tai họa này.
Người ngoài nghe qua rồi cũng lắng dần nỗi hoài nghi, chỉ người trong ngành, chẳng mấy ai tin lời ông Bình nói. Thực tế là vết rách dài 3-4 mét, hàng chục ngàn m3 nước đã tràn vào. May mà máy chính chưa hoạt động nên sự cố chỉ dừng lại ở phần vỏ đáy. Tuy nhiên, việc hàn vá, bơm nước ra chỉ là biện pháp cấp cứu tạm thời. Muốn sửa chữa đến nơi đến chốn phải cho con tàu chạy vào tạm Nhà máy sửa chữa tàu biển Huyndai-VNS tận Khánh Hòa mới có đủ triền đà và thiết bị. Như vậy, VNS và Nhà máy Đóng tàu Hạ Long phải chi thêm nhiều tỷ đồng để “bù” vào thói chơi ngông của ông chủ tịch!
Chẳng rõ ông báo cáo lên cấp trên thế nào về chuyện tàu rách vỡ, mà lại vỡ đúng con tàu đầu tiên của sê-ri tàu 53.000 DWT đã mang lại cho ông sự vinh thân, phì gia, con đường công danh rực rỡ mở ra phía trước? Có lẽ lời tâu trình êm ái lắm và hợp lý lắm nên chỉ hơn một tháng sau, vào ngày 15.5.2006 bản đề án thí điểm thành lập Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam được nhanh chóng thông qua. Và ngay lập tức, quyết định thành lập Tập đoàn do ông Phan Văn Khải ký không cần có đề nghị của Bộ GTVT đã chính thức đưa ông Phạm Thanh Bình ngang hàng, phải lứa với những người lãnh đạo Bộ GTVT dù về mặt hình thức, Bộ GTVT vẫn được giao quản lý VNS. Vì sao ông ta và kể cả các thành viên hội đồng quản trị đựợc đặc quyền ấy? Đó là vì chính Thủ tướng ký quyết định bổ nhiệm và có việc gì cần, ông bẩm báo trực tiếp với người lãnh đạo chính phủ, còn Bộ “chủ quản” là câu chữ nói cho vui, chẳng có thực quyền quản lý VNS.
Chiểu theo Điều 1 (mục 7) của quyết định số 104/2008/QĐ-TTg, ông Thủ tướng là người trực tiếp phê duyệt mục tiêu, chiến lược, kế hoạch dài hạn và ngành nghề kinh doanh, phê duyệt điều lệ, phê duyệt sửa đổi và bổ sung điều lệ, tổ chức lại, giải thể, đa dạng hóa sở hữu, bổ nhiệm thành viên HĐQT, chủ tịch HĐQT là chủ tịch Tập đoàn… và người ta chỉ cần có ý kiến của các bộ liên quan mà thôi.
Tiếp đó, Thủ tướng còn trực tiếp phê duyệt các dự án của Tập đoàn VNS, các dự án đầu tư ngoài ngành thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng theo quy định của pháp luật về đầu tư. Còn Bộ GTVT được làm có hai việc chính: “báo cáo Thủ tướng Chính phủ ý kiến khi HĐQT Vinashins trình chính phủ về mục tiêu, chiến lược, điều lệ, sửa đổi và bổ sung điều lệ, tổ chức lại, giải thể, bổ nhiệm thành viên HĐQT”… và điều thứ hai là cùng các Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương), Kế hoạch và Đầu tư… “giám sát thực hiện các dự án đầu tư của VNS thuộc thẩm quyền của pháp luật về đầu tư”. Các Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng được phân công kiểm tra, giám sát theo phần việc chuyên môn nhưng rõ ràng là, kể cả Bộ GTVT là nơi ruột thịt nhất cũng không được trực tiếp chỉ đạo và kiểm tra VNS trong mọi lãnh vực. Hơn thế nữa, vào lúc Tập đoàn VNS ra đời, ông Hồ Nghĩa Dũng, nguyên Bí thư tỉnh ủy kiêm Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi được phê chuẩn giữ chức Bộ trưởng GTVT thay ông Đào Đình Bình bị Quốc hội miễn nhiệm vào ngày 29.6.2006 tại kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa XI. Ông vốn là kỹ sư cán thép, tốt nghiệp tại Hungari nên là người “ngoại đạo” ngành GTVT. Ngày 11.7.2006, khi đưa ông Hồ Nghĩa Dũng tới nhậm chức tại 80 Trần Hưng Đạo, ông Nguyễn Tấn Dũng nhắc đến công lao của ông Đào Đình Bình và đề nghị tân bộ trưởng “xắn tay” cùng tập thể lãnh đạo ngành mau chóng giải quyết các vấn đề nhức nhối do hậu quả của vụ án PMU18, hoàn thành nhiệm vụ năm 2006 để lấy lại uy tín của ngành. Giữa một bãi lầy như vậy cộng với các cơ quan tham mưu của Bộ gần như án binh bất động, ông Hồ Nghĩa Dũng chơi vơi trong hàng núi công việc bị bỏ bễ từ đầu năm nên khi nghe về những hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn VNS, ông không thể tự mình phân tích, đánh giá đúng, sai, hay, dở. Đây là cơ hội cho VNS qua mặt Bộ GTVT một cách dễ dàng. Những dự án đầu tư mặc dù chuẩn bị hết sức sơ sài và chẳng có cơ quan nào thẩm định nhưng đầy ắp mỹ từ về hiệu quả kinh tế, về cả “ý nghĩa nhân văn”, đã được phê duyệt rất dễ dàng. Con số hơn 180 dự án lớn, nhỏ đưa vào danh mục đầu tư để nâng cao năng lực đóng tàu cực lớn và gấp gáp xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ tiến tới mục tiêu nội địa hóa hơn 60% (tương lai đến 75%) sản phẩm đóng tàu đã cuốn nhiều cơ quan đầu não, nhiều ngân hàng, nhiều địa phương vào vòng xoáy của chiếc chân vịt Vinashin mới đúc vội từ loại hợp kim pha đồng lẫn đất. Trước khi cái chân vịt dỏm này tan vỡ, nó đã kịp nghiền nát hàng chục container chở tiền xuống biển sâu.
Tiền xài như nước nên chẳng mấy đã hết nhẵn, dù được hà hơi tiếp sức, dù được Ngân hàng phát triển Việt Nam lên cơn mê muội triền miên dốc tiền vào con tàu thủng đáy, VNS vẫn khát vốn để tiếp tục bỏ vào các dự án không tiền khoáng hậu và một phần không nhỏ dùng để đảo nợ và trả lãi các khoản vay. Để mong được cấp trên rủ lòng từ bi và các ngân hàng trong nước, ngoài nước yên lòng cấp vốn, VNS sử dụng nhiều kênh quảng bá hình ảnh của một “tập đoàn kinh tế” hùng mạnh, sẵn sàng chiều chuộng, o bế nhiều nhà báo đến viết bài, đưa tin theo ý muốn của ông chủ. Trong làng báo, chẳng ai lạ gì mặt mũi một ông “lít-đơ” trước kia công tác ở một Đài phát thanh truyền hình rồi chuyển qua phòng quảng cáo một tờ báo “nhớn”, chuyên dẫn dắt đồng nghiệp theo gót ông chủ tập đoàn. Chẳng thế mà ở Khu kinh tế Hải Hà mới phun được vài chục ha rồi để hoang hóa mặc cho mưa dập sóng vùi, có ông nhà báo được VNS mời sang Nhật Bản, đã ca ngợi dự án hết lời, tưởng như cả khu kinh tế sắp cắt băng khánh thành! Nhờ chiêu PR loảng xoảng tiếng gõ vào vỏ tàu, người ta thường nghe điệp khúc VNS đã ký được mười mấy tỷ đô la, hợp đồng đóng tàu đủ xài đến 2012, 2015 !!! Cái con số tỷ, tỷ đô la đó cũng chẳng mấy khi nhất quán. Lúc thì 4,5 tỷ, lúc thì 8 tỷ… nhưng tựu trung lại, là để vòi vay thêm tiền. Muốn tăng thêm “độ tin cậy” của các định chế tài chính quốc tế, ông Phạm Thanh Bình ký kết hợp đồng chỉ định, rồi tái chỉ định Công ty kiểm toán KPMG có trụ sở đóng tại Hà Lan để làm công tác kiểm toán và tư vấn quản trị cho mình. Ông bảo rằng, với một cơ quan kiểm toán danh tiếng lẫy lừng như KPMG, VNS sẽ minh bạch hóa công tác tài chính, nâng lên mức uy tín quốc gia để bất cứ tổ chức tiền tệ hay ngân hàng quốc tế nào nhìn vào là … OK ngay! Nhiều người cố tin lời ông Phạm Thanh Bình vì KPMG đang hoạt động ở hơn 140 quốc gia và vùng lãnh thổ, có tới 165.000 nhân viên thì không lý gì phải nghi ngờ vào năng lực và kinh nghiệm của công ty xuyên quốc gia này. Thế nhưng tại trang Web của Tập đoàn VNS, chẳng ai thấy một dòng báo cáo tài chính nào trong mục “quan hệ đầu tư”, càng chẳng bao giờ thấy VNS “khoe” báo cáo kiểm toán do KPMG thực hiện. Chuyện thật giả thế nào, chuyện vàng thau lẫn lộn đến mức nào xung quanh bản hợp đồng kiểm toán với KPMG chưa ngã ngũ thì vào đầu tháng 1.2009, Chủ tịch Phạm Thanh Bình “đơn phương” công bố kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008. Ông chủ tịch loan tin thị trường vận tải biển sụt giảm do khủng hỏang kinh tế thế giới nên VNS có khoảng 10% giá trị hợp đồng bị hủy và 40% hợp đồng kéo dài thời hạn tuy nhiên vẫn bảo đảm đủ việc làm cho các nhà máy đóng tàu biển đến hết năm 2010. Ông cũng “vui mừng” thông báo năm 2008, VNS đạt giá trị tổng sản lượng hơn 36.800 tỷ đồng, doanh thu đạt trên 32.538 tỷ đồng, tăng 39-48% so với năm 2007. Sau khi trừ các khoản chi phí, trả tiền lãi vay… các ông còn lãi 1.000 tỷ đồng! Thật là ấn tượng trước những “thành tích” của VNS. Và ông cũng nói rằng đến tháng 3.2009, KPMG sẽ công bố báo cáo kiểm toán VNS với các số liệu chi tiết về tổng tài sản và lợi nhuận. Tháng 3 tới, tháng 4 qua… và cho đến hôm nay, các báo cáo (nếu có) vẫn ở trong vòng … bí mật. Theo kết luận của Ủy ban kiểm tra Trung ương ngày 5.7.2010, “trong những năm qua Tập đoàn đã báo cáo không trung thực  về tình hình tài chính của doanh nghiệp”. Điều đó cho thấy không riêng có ông Bình mà cả tập thể thành viên Hội đồng quản trị và Ban Tổng giám đốc điều hành VNS đã đồng thanh dối trá, biến lỗ thành lãi để lừa bịp từ Thủ tướng đến dư luận xã hội. Họ phải chịu trách nhiệm về sự đồng lõa và che giấu nhằm động cơ trục lợi, tiếp tay cho ông Phạm Thanh Bình có điều kiện thao túng, chuyên quyền, vô hiệu hóa cả đảng bộ Tập đoàn lẫn hệ thống tổ chức điều hành.
Sự tha hóa, dối trên, lừa dưới của lãnh đạo tập đoàn VNS đã đẩy hàng chục ngàn công nhân, trong đó có nhiều thợ giỏi, tay nghề cao lâm vào cảnh mất việc làm, giảm thu nhập, nhiều tháng không nhận được tiền lương, gia đình con cái khốn đốn. Xin hãy vào Nhà máy đóng tàu Bến Thủy tọa lạc trên đất Nghi Xuân – một công ty con thuộc Công ty công nghiệp tàu thủy Nam Triệu (NASICO), dưới quyền quản lý một thời của ông Trần Quang Vũ (đương nhiệm Tổng giám đốc điều hành VNS) – để thấy tình cảnh cơ cực của hơn 600 cán bộ, công nhân như thế nào! Số là từ năm 2006, sau khi giám đốc Phan Đình Thuận qua đời, Nhà máy đóng tàu Bến Thủy nho nhỏ nhưng vẫn sống bình yên, no đủ được đưa về làm con của NASICO. Ông Trần Quang Vũ háo hức lập dự án đầu tư tiền của để nâng cấp nhà máy có thể đóng được tàu đến 10.000 DWT với số vốn 900 tỷ đồng, sẽ tuyển dụng thêm cả ngàn công nhân vào làm việc để đạt con số 3.000 người! Trong danh mục xây dựng thấy có đủ nhà xưởng, ụ tàu, mua sắm nhiều thiết bị hiện đại, lắp đặt cần cẩu lớn, xây hệ thống bến bãi, giao thông nội bộ trên diện tích mở rộng thêm 16 ha. Một khu văn phòng được xây cất tốn kém, một khách sạn mang tên “San hô đỏ” ở bãi biển Xuân Thành, đầu tư xấp xỉ 90 tỷ đồng ra đời … Cái gì cũng mới toanh xóa sạch dấu vết nhà máy cũ (đang còn dùng tốt) để chứng tỏ tài nghệ của ông Tổng giám đốc NASICO. Chỉ tiếc rằng ông Vũ “quên” tập trung vốn xây dựng triền đà! Thế là hai con tàu trọng tải 7.000DWT có giá trị 500 tỷ đồng không hạ thủy được vì triền đà không bảo đảm an toàn. Công ty TNHH Rạng Đông (Thanh Hóa) thuê đóng 2 tàu cũng bị mắc kẹt vì NASICO “chót” vay tiền trước của khách hàng đầu tư lung tung, chẳng còn tiền mua vật tư nên 1 chiếc đã lắp ráp sườn khung, 1 chiếc trơ trọi dàn khung xương, chẳng biết đến lúc nào nhà máy mới giao được tàu cho khách! Tàu nhỏ, tàu lớn không xong, tiền lương của công nhân cũng không có trả. Tính đến hết năm 2009, Nhà máy nợ bảo hiểm xã hội Hà Tĩnh hơn 3,8 tỷ đồng trong đó số tiền bảo hiểm y tế là 1,8 tỷ đồng. Mấy trăm công nhân cần khám bệnh không có thẻ bảo hiểm y tế, nên nhiều người bỏ tiền túi về quê xin mua bảo hiểm y tế tự nguyện để khám, chữa bệnh. Thật là tủi nhục, đau đớn cho số phận của hàng ngàn công nhân đang lắt lay chờ đợi tiền lương, tiền bảo hiểm ở các nhà máy đóng tàu Đà Nẵng, Cam Ranh, ở Công ty TNHH một thành viên công nghiệp thủy sản VNS trong khu công nghiệp Tam Hiệp, huyện Núi Thành (Quảng Nam) và kể cả ở những nhà máy đóng tàu “đàn anh” ở Nam Định, Hải Phòng, Quảng Ninh cũng chịu chung số phận hẩm hiu.
***
Tại sao VNS và những người lãnh đạo Tập đoàn này đã bưng bít sự thật phũ phàng đến hơn bốn năm trời kể từ ngày thành lập “thí điểm” mới bị phanh phui phần lớn?
Tại sao điều lệ hoạt động và quy chế tài chính của Tập  đoàn VNS không được ai phê duyệt và chẳng ai nhắc nhở VNS phải mau chóng đệ trình? Bốn năm qua, VNS được thả lỏng như con ngựa hoang trên đồng cỏ, nó không bị chi phối, không bị chế tài bởi không ai trực tiếp quản lý nó. Cơ quan kiểm toán nhà nước mấy lần “lên kế hoạch” kiểm toán VNS thì lại “trùng” vào kế hoạch thanh tra nên sợ “bị chồng chéo”, họ “đành” thúc thủ chờ dịp nào thuận tiện. Còn cơ quan thanh tra, vào nhiều lần nhưng làm chưa rốt ráo, chưa sờ đến “hang ổ” của VNS vì vậy chẳng phát hiện được gì. Đó là do năng lực hay do…???
Tóm lại, từ việc “thí điểm” thành lập  đến việc phải “tái cơ cấu” VNS là sự trả giá đau đớn nhất vì sự vô trách nhiệm của những cá nhân và tổ chức liên quan đến hoạt động của VNS hơn bốn năm qua.
Tuy vậy, vẫn có một an ủi là: Nhờ có khủng hoảng kinh tế nên VNS không vay được thêm nhiều tiền từ các ngân hàng trong và ngoài nước. Nếu không, bây giờ, nhân dân này, đất nước này sẽ è cổ trả nợ thay VNS hàng chục tỷ đô la chứ không phải 4,5 tỷ như đã công bố!
L. T. T.

Vinashin – chuyện bây giờ mới kể (Bài 7) [*]: 

Không dám đối mặt với sự thật, không thể có một Vinashin mới

Lê Trung Thành
Từ đầu tháng 7 đến nay, cụm từ “tái cơ cấu” Vinashin (VNS) được nhắc đi, nhắc lại với những nội dung cụ thể được phát ra từ kết luận của Bộ Chính trị ngày 31/7/2010 và của Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập Ban chỉ đạo “giải cứu” VNS do ông Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng làm Trưởng ban. Sau khi các ông Phạm Thanh Bình, Trần Quang Vũ và mấy “yếu nhân” khác của VNS bị bắt tạm giam, một Ban lãnh đạo mới của Hội đồng quản trị và Ban điều hành VNS được thành lập lại do ông Nguyễn Hồng Trường - Thứ trưởng Bộ GTVT kiêm Chủ tịch HĐQT, ông Nguyễn Quốc Ánh - nguyên Tổng giám đốc kinh doanh được cử làm Quyền TGĐ điều hành VNS. Cuối tháng 8/2010, Đảng ủy VNS do ông Nguyễn Quang Khải - quyền Bí thư đã họp với Ban lãnh đạo mới, ra một thông báo liên tịch nói về quyết tâm của họ, sẽ điều chỉnh lại đề án “Chiến lược phát triển của Tập đoàn VNS giai đoạn 2010-2015 và hướng tới năm 2020”. Họ đặt mục tiêu từ năm 2010-2015 là 5 năm “Củng cố, ổn định và phát triển”, cụ thể là:

− Từ 2010-2012: giai đoạn củng cố, giảm lỗ;
−Từ 2012-2014: giai đoạn ổn định, cân bằng và có lãi;
−Từ 2015: giai đoạn phát triển, sản xuất kinh doanh có lãi và phát triển ổn định.
Đây cũng là mong muốn của mọi người đang quan tâm đến sự phục hồi của VNS nhờ vào sự chi viện hết lòng của các vị đứng đầu Chính phủ, bời nếu VNS chết thì tất cả chỉ còn lại là đống sắt vụn như lời của ông Trưởng ban Nguyễn Sinh Hùng từng nói. Đợt cấp cứu đầu tiên đã đến với các thuyền viên còn lại trên “chiếc tàu VNS đang chìm một nửa” là Chính phủ quyết định thả “chiếc phao bè” trị giá 2500 tỷ (tương đương 135 triệu USD) bổ sung vào vốn điều lệ nhằm hỗ trợ các cơ sở đóng tàu đẩy nhanh tiến độ đóng mới, bàn giao tàu trong năm 2010 và triển khai các sản phẩm trọng điểm năm 2010-2011. Số tiền này chẳng thấm tháp gì so với cơn đói khát tiền vốn của VNS từ hai, ba năm nay nhưng cũng là liều thuốc an thần hiệu nghiệm cho các nhà quản lý VNS. Họ yên tâm rằng Chính phủ đã giữ đúng lời hứa và còn cố tìm kiếm thêm nguồn tiền để cấp cho đủ số vốn điều lệ là 14.655 tỷ đồng đã ghi trong Quyết định số 984/QĐ- TTg ngày 25/6/2010 do ông Nguyễn Sinh Hùng ký, chuyển Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam thành Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu.
Quyết định này, một lần nữa đặt tên (bằng tiếng Việt) cho Vinashin là: Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam và tên tiếng Anh là “Vietnam Shipbuilding Industry Group”, tên giao dịch quốc tế là “Vinashin Group”. Vậy mà, kể từ thời ông Phạm Thanh Bình đến thời ông Nguyễn Quốc Ánh, họ vẫn vỗ ngực khoe công khai là “Tập đoàn kinh tế Vinashin” và đặt tên tiếng Anh là “Vinashin business group”: Không phải vô cớ mà họ thích dùng cái tên Tập đoàn kinh tế hơn là Tập đoàn công nghiệp tàu thủy bởi chính là họ thích kinh doanh đa ngành nghề như mấy năm từng sản xuất thức ăn gia súc, nấu bia và trồng dứa bên cạnh công việc đóng tàu “mãi không xong”. Vả lại, Tập đoàn kinh tế thì oai hơn, oách hơn tất cả các tập đoàn khác, chứng tỏ từ lâu những người lãnh đạo VNS thừa hiểu, đóng tàu chẳng mang lại hiệu quả kinh tế là bao mà phải kinh doanh đất đai, kinh doanh chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm… mới mong mở mặt mở mày với đời!
Có thể họ hiểu điều này hơn hẳn ông Nguyễn Sinh Hùng nên trong lần đề nghị (cuối cùng hay chưa???) vào tháng 6/2010, Hội đồng quản trị VNS (lúc còn do ông Phạm Thanh Bình làm Chủ tịch) đã tham mưu cho Phó thủ tướng thường trực ký quyết định (đã nói ở đoạn trên) - [Xin một lần nữa viết rằng, chỉ cần có đề nghị của chính HĐQT VNS mà không cần ý kiến của Bộ GTVT - Bộ được gọi là cơ quan chủ quản của VNS?]. Ở điều 1 - mục 5 phần Ngành, nghề kinh doanh tại thời điểm chuyển đổi có tới 10 ngành nghề kinh doanh chính! Từ kinh doanh tổng thầu đóng mới và sửa chữa tàu thủy đến đào tạo cung ứng, xuất khẩu lao động ngành công nghiệp tàu thủy thì lại có tới 34 ngành liên quan đến ngành nghề chính. Nào là, hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tới dịch vụ khách sạn, đầu tư kinh doanh nhà, xây dựng dân dụng, khu đô thị, nhà ở… rồi còn cả kinh doanh lữ hành nội địa, quốc tế... để tiếp tục… sản xuất rượu bia, nước giải khát, mua bán, chế tạo, sản xuất xi măng, mua bán, chế tạo lắp ráp xe máy, ô tô các loại… Nghĩa là, vẫn cái nồi lẩu hổ lốn mà VNS miệt mài canh lửa suốt mấy năm qua. Tuy nhiên, mấy năm trước là làm thêm, làm chui, còn tại quyết định do ông Nguyễn Sinh Hùng ký ngày 25/6/2010, VNS được “chính thức” hóa các ngành nghề “ba lăng nhăng” nhưng lại được ghi rõ trong văn bản “mới toe” của Chính phủ!
Nếu so với Quyết định số 103 và 104 QĐ/TTg ngày 15/5/2006 của ông Phan Văn Khải - Thù tướng Chính phủ ký quyết định “thí điểm” thành lập Tập đoàn VNS thì quyết định của ông Nguyễn Sinh Hùng mở rộng đường cho VNS kinh doanh mọi thứ mà VNS mong muốn bấy lâu nay!
Có nhiều nhà kinh tế “soi chiếu” hơi kỹ về vai trò của ông Nguyễn Sinh Hùng trong quá trình nuôi dưỡng VNS đã nói với nhau rằng ông Phó thủ tướng khá dễ tính khi đặt bút ký quyết định này. Dễ đến mức… hài hước vì chỉ gần hai tuần sau đó, vào dịp cả nước quen với từ Vinashin, cả nước (và cả thế giới!) biết chuyện VNS nợ đầm đìa thì chính ông, tại cuộc họp báo thường kỳ tháng 7 do Văn phòng Chính phủ tổ chức chiều 4/8 tại Hà Nội - đã nói rằng: “Ngành chính của Tập đoàn mới là đóng tàu, sửa chữa tàu và công nghiệp phụ trợ cho tàu, không làm vận tải biển nữa. Vinashin cũ đầu tư cả xi măng, du lịch, đa ngành nghề… Ông nói như vậy vì ông vừa được “tấn phong” làm Trưởng ban chỉ đạo tái cơ cấu VNS nhưng lúc ấy, ông quên (hay giả vờ quên?) nội dung quyết định do ông ký chưa ráo mực? Thêm một nhiệm vụ mới rất nặng nề, có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của ông nhưng dường như ông coi là chuyện đơn giản nên ông bình thản, tự tin: “Tình hình hiện nay vẫn nằm trong tầm giải quyết và năng lực của ta (hay là của ông?), chưa tuột khỏi tay ta (có thể hiểu là “chưa tuột khỏi tay ông không?”), nên nếu để VNS phá sản thì ta (???) lại phải dựng lên một ngành công nghiệp tàu thủy mới. Về phía Chính phủ xác định rõ chủ trương phải quyết tâm xây dựng lại”. Cách giải quyết của ông , vì vậy, cũng hết sức đơn giản (của cái nghề tài chính mà ông vốn quen thuộc): “Nhà nước sẽ cấp đủ vốn điều lệ tử Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp, bằng các nguồn tài chính thích hợp cho VNS vay để trả nợ nước ngoài đến hạn, cơ cấu lại nợ tín dụng, hoàn thành các dự án dang dở, các con tàu đang đóng để đưa vào sử dụng, bán và hoàn trả vốn”. Và ông phán rằng: “Bản thân VNS phải tự cân đối nguồn vốn. Chính phủ nếu thấy cần thiết có thề phát hành trái phiếu để tiếp tục cho VNS vay và khi tập đoàn cân đối được sẽ phải trả lại nguồn vốn này”. Nếu ông Nguyễn Sinh Hùng làm như ông ấy nói thì dẫu chẳng may có bị về “thế giới người hiền” thì hồn ma ông Phạm Thanh Bình vẫn ngày ngày bay về bên đầu gường vái lạy ông Phó thủ tướng vì bấy lâu nay ông Phạm Thanh Bình và Ban lãnh đạo VNS chỉ cầu có mấy dòng này mà chờ hai năm rồi mới lại được nghe ông nói!
Ấy là vào ngày 9/9/2008, một cuộc họp cực kỳ quan trọng liên quan đến sự tồn vong của VNS được tổ chức tại Văn phòng Chính phủ dưới sự chủ tọa của ngài Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng. Ngoài sự có mặt của đại diện các Bộ GTVT, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, còn có đông đủ quan chức đứng đầu các Ngân hàng phát triển VN, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Lẽ dĩ nhiên, có mặt các yếu nhân của VNS. Tại cuộc họp, ông Nguyễn Sinh Hùng khen VNS biết tập trung nguồn vốn, có tốc độ tăng trưởng cao, tạo thêm nhiểu việc làm, bảo đảm đáp ứng nhu cầu trong việc đóng mới thành công các loại tàu xuất khẩu cho nước ngoài, có định hướng đúng trong chiến lược phát triển… Ông cũng chỉ đạo vài việc cần làm, (mà cách đó hơn một tháng, ngảy 22/7/2008, ông Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã chủ tọa cuộc họp về tình hình sản xuất kinh doanh của VNS 6 tháng đầu năm 2008) trong đó, ông căn dặn VNS tập trung vào các dự án trọng điểm, giữ vững mục tiêu lâu dài nhằm nâng thứ hạng ngành đóng tàu Việt Nam trên thị trường đóng tàu thế giới.
À ra thế! Bây giờ mới hiểu rõ rằng, ông cũng là người có ước mơ lớn chẳng kém gì ông Phạm Thanh Bình nên ông chăm chút cho VNS từ khi ông còn là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Phương án phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trưởng tài chính quốc tế do ông chỉ đạo đã được bà Lê Thị Băng Tâm, Thứ trưởng, hoàn thành “ trên cả tuyệt vời”. Trước ngày lên đường, Chính phủ chỉ đồng ý phát hành 500 triệu USD trái phiếu thôi nhưng khi thấy nhiều Quỹ Tài chính của thế giới cho vay nên bà Băng Tâm gọi điện về trao đổi với ông. Họ nhanh chóng thống nhất đề nghị Thủ tướng nâng mức vay lên 750 trệu USD. Mặc dù vào cuối tuần, ông Bộ trưởng vẫn đốc thúc thuộc cấp mang công văn đến từng nhà các vị lãnh đạo Chính phủ xin chữ ký để bà Băng Tâm có cơ sở pháp lý quyết định vay 750 triệu USD với lãi suất 7,125%. Tổng công ty Điện lực Việt Nam nghe tin này, hý hửng đến khẩn khoản xin vay một phần tiền từ khoản 750 triệu USD nhưng bị từ chối thẳng thừng “vì Tổng công ty Điện lực Việt Nam chưa có công ty tài chính, vốn rót về không quay vòng được”. Thế là, toàn bộ số tiền được chuyển cho VNS. Công đầu to lớn như thế, phải dành cho ông Nguyễn Sinh Hùng – người nâng VNS lên bệ phóng – không có gì là quá đáng!
Bởi vậy tại kỳ họp này, khi nghe lãnh đạo VNS đề nghị được vay vốn lưu động và vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các dự án đóng tàu, xuất khẩu, ông yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chỉ đạo Ngân hàng phát triển và các ngân hàng thương mại (đang vào thời kỳ chống lạm phát) cần điều hành tín dụng linh hoạt cho một số dự án đóng tàu đã ký kết hợp đồng, dự án công nghiệp phụ trợ triển khai dở dang, vốn lưu động để nhập khẩu thiết bị, phụ tùng… Rồi ông đồng ý cho VNS phát hành 3.000 tỷ đồng trái phiếu, đồng thời “nhắc nhở” các ngân hàng thực hiện các cam kết với VNS, cần bảo đảm lượng vốn cần thiết cho VNS vay. Cụ thể như sau: Ngân hàng Đầu tư phát triển 3000 tỷ đồng, Ngân hàng Công thương 2000 tỷ đồng, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn 2000 tỷ đồng và các ngân hàng thương mại khác 300 tỷ đồng. Sợ rằng các ngân hàng cho VNS vay vượt quá hạn mức sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nên ông Nguyễn Sinh Hùng: “cho phép các ngân hàng cho vay trên mức 15% vốn tự có”. Cứu VNS như ông Phó thủ tướng chỉ đạo tại cuộc họp 9/9/2008 có khác là mấy so với lời ông tuyên bố chiều 4/8/2010??? Vậy mà, ông Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Phạm Viết Muôn nói rằng Chính phủ không hề ưu ái VNS trong việc vay mượn tiền của các ngân hàng?
Trên vị trí đứng đầu Ban chỉ đạo tái cơ cấu VNS, ông Nguyễn Sinh Hùng hồ hởi tuyên bố đến năm 2015 sẽ có một VNS mới. Có thể đến ngày “vinh quang” đó, ông không giữ cương vị này vì nhiều lý do khác nhau nhưng chắc ông còn sống để nhìn thấy cái năm đó (vì ông sinh tháng 1/1946). Một VNS mới mà ông mong, tôi mong, nhiều người ở đất nước này càng mong, phải là một VNS hùng mạnh, trả được hết nợ nần, làm ăn có lãi nhưng cứ làm bài toán đơn giản dưới đây hẳn ai cũng nhận thấy ước vọng của ông còn… xa vời quá!
Tổng số nợ của VNS (sau khi chuyển cho Tập đoàn Dầu khí và Tổng công ty Hàng hải Việt Nam khoảng 20.000 tỷ đồng) còn lại là 66.000 tỷ đồng (tạm cho con số này là đúng). Nếu tính việc trả lãi (tiền USD, tiền đồng VN) bình quân 9% /năm, mỗi năm VNS phải trả 5.940 tỷ đồng (tương đương 312.5 triệu USD). Với số lãi này, tồng sản lượng hàng năm VNS phải đạt từ 3.12 tỷ USD để có lợi nhuận lý thuyết 10% hoặc 6.24 tỷ USD (lợi nhuận có thực 5%). Tuy nhiên, thời hạn thanh toán khoản nợ 750 triệu USD còn 5 năm nữa (ngày 15/1/2016) nên từ 2011 đến 2015, mỗi năm ít nhất VNS phải để dành được 150 triệu USD, cũng như vậy, với khoản nợ 600 triệu USD vay của Ngân hàng Thụy Sĩ, VNS cũng phải dành ra 100 triệu USD, và khoản vay từ trái phiếu trong nước cũng ít nhất phải dành dụm được 3000 tỷ đồng, thì mới mong trả nợ đúng hạn. Cộng chung tiền trả lãi hàng năm và tiền để dành thanh toán nợ, mỗi năm (từ 2011 đến 2017) VNS phải có xấp xỉ 700 triệu USD. Tính theo số lượng CBCN của VNS còn lại khoảng 50.000 người thì mỗi năm, họ phải làm lãi ròng 14.000 USD một người thì mới có đủ khoản tiền ấy. Điều này là cực kỳ hoang tưởng trong bối cảnh VNS đang ở thời kỳ thua lỗ kéo dài, công nhân mất việc thường xuyên và thu nhập ở mức vài ba triệu đồng một tháng. Dù có rót tiền, có chính sách cấp cứu kịp thời cũng chỉ đủ vực dậy tình hình sản xuất ở các nhà máy trọng điểm, các thành viên loại 2, loại 3, các công ty liên kết còn gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn. Họ sống lắt lay, vất vưởng thì lấy gì góp lãi cho VNS trả nợ? Theo lời ông Nguyển Sinh Hùng (đã dẫn), ông sẽ cho VNS vay tiền trả nợ nước ngoài nếu VNS không tự cân đối được (chắc chắn rồi!). Lấy tiền ngân sách hay phát hành trái phiếu cũng giống nhau thôi. Nhà nước đứng ra vay, hay bảo lãnh cho vay đều phải trả lãi, trả gốc vì vậy VNS còn dài dài đến cuối thập kỷ này và sẽ lấn sang thập kỷ sau cũng chưa trả xong các khoản nợ. Vậy một VNS mới được định nghĩa như thế nào cho đúng với sự chờ đợi của dư luận xã hội? Vì vậy, nếu ai nói đến năm 2015, VNS sẽ làm ăn có lãi, là một tập đoàn phát triển ổn định là cách nói quá chủ quan, cố tình hạ thấp những hậu quả tai hại khôn lường mà tập đoàn VNS đã gây ra trong mấy năm qua. Hơn thế nữa, ngoài ông Nguyễn Hồng Trường, Thứ trưởng GTVT là một con người khá chính trực và một vài người khác trong HĐQT và Ban Tổng giám đốc điều hành VNS “còn có thể dùng tạm được” thì những người như các ông Nguyễn Quốc Ánh vừa giữ chức Quyền Tổng giám đốc điều hành (nguyên TGĐ phụ trách kinh doanh), ông Lê Lộc (TGĐ phụ trách đầu tư), ông Hồ Ngọc Tùng (TGĐ phụ trách Tài chính)… đều là những gương mặt đen nhiều năm hợp sức cùng ông Phạm Thanh Bình che giấu sự sụp đổ của VNS, cùng bày ra nhiều cú tuyệt chiêu để các dự án hoang tưởng lần lượt ra đời gây tổn thất hàng chục ngàn tỷ đồng. Vì thế, nếu để họ thay ông Bình, thay ông Trần Quang Vũ tiếp tục cầm lái, tiếp tục chỉ đạo sản xuất kinh doanh thì chẳng thể cứu nổi con tàu VNS đang thủng lớn, nước ngập gần hết cabin.
Hãy nhìn thẳng vào sự thật!
Hãy dũng cảm đặt ra một kế hoạch khả thi hơn và cần tìm ngay những người trung thực, am tường, quyết đoán để thay thế những người đại ngôn, những ngưởi không đủ phẩm chất.
Làm gấp những điều đó, mới có thể hy vọng tái cơ cấu thành công Vinashin trong mười, mươi lăm năm nữa!
LTT

Vinashin – chuyện bây giờ mới kể (bài 8) [*] Chiến lược sai lầm – Quản lý cẩu thả – Thí điểm thất bại – Con dại cái mang!

Lê Trung Thành
Với loạt bài của cộng tác viên Lê Trung Thành, một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp trong ngành giao thông vận tải kiêm nhà báo, chúng tôi đã dẫn dắt bạn đọc đi vào hầu như mọi ngõ ngách con đường làm ăn của Vinashin trong vòng 4 năm đã dẫn nó đến tình trạng lụn bại không cưỡng được như hiện nay. Khi mở đầu loạt bài này, ông Phạm Thanh Bình chỉ mới bị thay chức chứ chưa bị tạm giam. Nay thì đã có 6 vị lãnh đạo Vinashin “vào trại” để chờ hầu tra từ cơ quan chức năng. Trong những bài viết trước, Lê Trung Thành đã lần lượt đề cập đến việc làm “chọc trời khuấy nước” của số lớn những nhân vật “trời con” đó trong lãnh địa mình được giao. Có thể nói không ngoa, thiên ký sựVinashin - Chuyện bây giờ mới kể, như công luận đánh giá, đã góp một phần không nhỏ bằng chứng nhằm giúp người có trách nhiệm nhìn rõ hơn cách làm ăn lấp liếm, liều lĩnh phá hoại tiền của Nhà nước vô tội vạ của từng đối tượng để đưa ra các quyết định kịp thời với họ.
Nhưng trách nhiệm của những người điều hành Vinashin từ to đến nhỏ giới hạn đến đâu và trách nhiệm giám sát, theo dõi các bước đi của Vinashin của các cấp lãnh đạo cao hơn trực tiếp quản lý nó phải được xem xét đến đâu? Cũng vậy, việc tái cơ cấu Vinashin hiện nay liệu có triển vọng gì không? Đó là những câu hỏi sẽ được giải đáp trong bài cuối cùng này của Lê Trung Thành, và cũng là những điều có lẽ cả nước đang hết sức chờ mong, trong khi hồi hộp theo dõi mọi động tác “vớt người chết đuối” (hoặc là làm hô hấp nhân tạo đối với một xác chết bằng mọi giá) của ông Nguyễn Sinh Hùng mà thời gian gần đây ta thấy có vẻ như cấp tập. Hy vọng bài viết cũng sẽ là những điều tâm huyết có thể rút ra để đóng góp vào việc hình thành những nguyên tắc, phương pháp then chốt coi như là luật bất di bất dịch, trong chỉ đạo làm ăn kinh tế mà ta còn rất thiếu, rất tắc trách và sơ hở.
Trước khi tạm khép lại thiên ký sự, BVN xin có lời cám ơn tác giả đã cấp cho bạn đọc và nhất là cho các quan chức lãnh đạo kinh tế vĩ mô cũng như vi mô một tài liệu sống đáng giá giúp nhìn sâu vào một mảng thực tế quan trọng để rút ra những kinh nghiệm xương máu trong việc xây dựng các “tập đoàn kinh tế Nhà nước” ở nước ta.
Xin cám ơn độc giả đã chú ý theo dõi từ bài đầu đến bài cuối và về thực trạng cũng như bản chất vụ việc Vinashin, tất nhiên bấy nhiêu chưa thể gọi là đủ, vì thế cũng xin hẹn tái ngộ bạn đọc trong những bài viết tới đây, ngoài chuyện Vinashin còn mở rộng ra nhiều chuyện khác nữa, vẫn do Lê Trung Thành chấp bút, dưới nhiều hình thức sinh động khác.
Nguyễn Huệ Chi

Bản hợp đồng đóng 15 tàu Diamond 53.000DWT cho Công ty đầu tư Graig (Graig Invesment LTD) – Anh quốc với giá trị trọn gói 322.500.000 USD ký vào dịp đầu năm 2004 đã giúp Vinashin (VNS) có điều kiện thay đổi phần lớn nội dung “Quy hoạch tổng thể phát triển mạng lưới công nghiệp tàu thủy Việt Nam đến năm 2010” được Thủ tướng phê duyệt tại quyết định số 1055/QĐ-TTg ngày 11.11.2002. Từ một chiến lược được hoạch định phù hợp với hoàn cảnh và thực trạng manh mún của ngành đóng tàu Việt Nam, từ một khoản ngân sách khiêm tốn sẽ dành 450 triệu USD đầu tư cải tạo, nâng cấp các cơ sở công nghiệp tàu thủy, Chính phủ “bỗng đổi ý” phê duyệt “đề án phát triển VNS giai đoạn 2005-2010, định hướng tới năm 2015” (QĐ số 1106/QĐ-TTg ngày 18.10.2005) với mục tiêu cháy bỏng là đến năm 2010, Việt Nam sẽ thành quốc gia đóng tàu mạnh trong khu vực và trên thế giới! Suất đầu tư tăng gấp 7-8 lần để “đốt cháy giai đoạn”, nhanh chóng xây dựng các cơ sở đóng tàu lớn và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ…
Sự kiện này nằm trong xâu chuỗi các bước vận động hành lang của VNS dẫn tới khoản vay 750 triệu USD cách mấy ngày sau đó do Bộ tài chính chủ trì nhằm khuếch trương tham vọng của một kế hoạch phát triển ngành công nghiệp đóng tàu truyền thống được Chính phủ bao cấp bằng những chính sách hết sức ưu đãi. Các nguồn vốn nào có thể cho VNS vay hoặc có thể giúp VNS vay đều được huy động cấp tập trong 3 năm (2006 đến 2008) với lãi suất trên dưới 7% nếu vay nước ngoài và 10-12% nếu vay trong nước hoặc phát hành trái phiếu công ty. Số tiền vay chẳng mấy chốc lên tới 4 tỷ USD (quy đổi) để phục vụ giấc mơ trở thành “cường quốc” thứ 4, thứ 5 thế giới mặc dù những người trong nghề đóng tàu có kinh nghiệm, có lương tâm đều trăn trở câu hỏi: “Chúng ta đóng tàu lớn để làm gì?”
Đóng tàu lớn để làm gì khi ngay tại bản hợp đồng lịch sử mà VNS ký với hãng Graig đã phải chấp nhận một cái giá “không thể thấp hơn”. Nếu theo công bố đầu tiên của VNS tháng 4.2004, khách hàng chỉ trả mỗi chiếc 53.000DWT đóng tại Hạ Long (9 chiếc) và Nam Triệu (6 chiếc) là 21,5 triệu USD. Năm 2005, VNS tự “điều chỉnh” số liệu lên 26,5 triệu USD và dù có thật thì VNS đã đánh mất khoản tiền trên gần 100 triệu USD so với giá (tại thời điểm năm 2004-2005) của thị trường đóng tàu khu vực để đổi lấy một bản chiến lược điều chỉnh “cực kỳ quý giá” dọn đường cho Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy trở thành tập đoàn “thí điểm” 8 tháng sau đó.
Đóng tàu lớn làm gì khi Nhà máy đóng tàu Dung Quất mới xây dựng đạt chừng 20% các hạng mục quan trọng thì VNS đã long trọng làm lễ khởi công đóng chiếc tàu chở dầu đầu tiên trọng tải 104.000 DWT cho Công ty vận tải viễn dương VNS với giá trị 50 triệu USD và tiếp theo, đóng luôn 3 chiếc trọng tải 105.000 DWT cho Tổng công ty vận tải dầu khí (PVtrans). Có lẽ đây là nơi duy nhất trên thế giới dám đóng tàu lớn trong lúc cơ sở hạ tầng và máy móc thiết bị chưa được lắp đặt hoàn chỉnh!
Liều mạng như vậy mà khối người khen lấy khen để lúc thị sát nhà máy mới là chuyện không thể tin được! Chỉ những người trong cuộc, những Kỹ sư, công nhân làm việc trên công trường mới hiểu bởi họ phải hứng chịu mọi khổ đau, vất vả. Xin trích lời của Kỹ sư Phạm Hoài Anh – Từng làm việc ở Nhà máy đóng tàu Dung Quất – viết ngày 15.10.2009: “Để cứu VNS được chắc là cần tẩy não mấy ông lãnh đạo, chấp nhận liên doanh với mấy ông nước ngoài nào đó thôi. Còn về chậm trễ đóng tàu 105K-PTV831 của mấy ông PTV ấy à, chắc phải 2015 chúng ta mới có hy vọng nhìn thấy hình hài con tàu! Khổ nhất vẫn là anh em công nhân ở đây, làm việc cực nhọc mà mỗi tháng nhận được 300.000 đến 800.000 VNĐ. Đau lòng lắm anh em ạ. Cần có một cuộc cải tổ VNS, nếu Chính phủ biết nhìn nhận đúng sự thật và VNS đừng quá ngông nữa mới có hy vọng cho ngành đóng tàu Việt Nam!”
Đóng tàu lớn làm gì khi VNS giao cho Nasico đóng kho nổi chứa dầu PS05 cho Công ty cổ phần kỹ thuật dầu khí (PTSC) trọng tải 150.000T. Với lễ đặt ký tổ chức từ tháng 6.2008 và hứa hẹn giao cho chủ hàng vào tháng 4.2009 để kéo ra mỏ Rồng thay cho PS0 4, Ban chỉ đạo Nhà nước do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải phụ trách có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát tiến độ thi công từng tháng, từng hạng mục. Tàu chưa đóng được vài chục phần trăm thì PTSC đã phải chuyển hết tiền cho VNS. Nhắc đến chuyện tiền, cần phải nói thêm về bản hợp đồng ban đầu ký với giá gần 110 triệu USD nhưng do VNS kêu lỗ, kêu giá thấp với Chính phủ nên PTSC ngậm đắng nuốt cay trả thêm 60 triệu USD nữa! Vậy mà tập đoàn “mẹ” cầm giữ hết số tiền này, lâu lâu lại giao cho Nasico vài trăm tấn thép, vài ngàn ký sơn… bởi dù là cỡ “Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Nam Triệu” có mười mấy công ty “con”, Nasico vẫn phải… hạch toán phụ thuộc VNS? Hết tiền, chẳng vay được nữa nên kho nổi nằm trên ụ mãi không hoàn thành. Ông Hoàng Trung Hải gia hạn ba, bốn lần, VNS và Nasico vẫn giậm chân tại chỗ. Mãi tới cuối tháng 4.2010, nó mới được kéo ra luồng và đưa tới mỏ để tiếp tục hoàn thiện và sẽ chính thức được bàn giao vào tháng 10.2010. Như vậy, VNS đã chậm tiến độ đóng kho nổi PS05 tới một năm rưỡi!
Làm ăn chộp giật, sai hẹn mấy năm trời, khách hàng thiệt hại hàng trăm triệu đô la thì còn uy tín đâu để bạn hàng nước ngoài tin cậy nữa!
***
Xây dựng ngành đóng tàu hiện đại dựa trên nguồn vốn vay lãi suất cao chứa đựng nhiều rủi ro và cầm chắc thua lỗ là điều được cảnh báo từ rất sớm bởi đóng tàu không phải là ngành sinh lợi nhuận cao. Tại các quốc gia đầu bảng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Na Uy, Pháp… lợi nhuận từ đóng tàu mang lại khoảng 8-10% nhờ quản lý giỏi, tài sản cố định đã khấu hao nhiều. Ấy là vào thời kỳ cực thịnh của ngành đóng tàu những năm 1999-2000 đến năm 2008. Còn mấy năm qua, nhiều cơ sở đóng tàu đình đốn vì khủng hoảng kinh tế, lãi suất còn ở mức vài ba phần trăm là may mắn lắm. Ở Việt Nam, VNS chỉ đạt mức từ 0,5 đến 2% nên số tiền này không đủ trả lãi vay trong nước, ngoài nước. Nếu quản lý tốt, đầu tư đúng mục đích, VNS cũng sạt nghiệp vì lãi mẹ đẻ lãi con, huống hồ họ đã vội vã vay, vội vã chi ở nhiều dự án vô bổ nhanh chóng tiêu tán số tiền không lồ sau bốn năm thì nguy cơ phá sản là điều tất yếu phải xảy ra.
Bởi vậy, việc gấp gáp rót vốn nhằm đẩy nhanh tiến độ “đi tắt, đón đầu” thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp tàu thủy Việt Nam đã mắc sai lầm ngay từ khi Thủ tướng phê duyệt dự án điều chỉnh. Tuy nhiên, những ảo ảnh đầu tiên có chút hào quang lấp lánh đã làm lóa mắt nhiều người. Họ chỉ nhìn số lượng đặt hàng, không cần quan tâm đến thực chất của những bản hợp đồng, lỗ lãi ra sao. Ông Chủ tịch Phạm Thanh Bình lại giỏi làm trò ảo thuật, biến lỗ thành lãi nên nhiều quan chức tin sái cổ! Biết rằng nếu chỉ thuần túy lao vào đóng tàu mà phần lớn dành cho thị trường nội địa, phần nhỏ xuất khẩu, chẳng mang lại nhiều hiệu quả nên những người lãnh đạo VNS triệt để sử dụng sự ưu đãi của Chính phủ về miễn tiền thuê đất, miễn thuế xuất khẩu, cho phép giữ lại thuế thu nhập doanh nghiệp… để mở ra các dự án nằm ở hầu hết các tỉnh, thành phố. Nhỏ thì dăm bảy chục ha, vừa thì vài ba trăm ha, và lớn nữa, khoảng bốn, năm ngàn ha. Họ vẽ ra những bức tranh thật đẹp, choáng lộn, bóng bảy phủ lên dự án nhưng chỉ một vài năm sau bó hoang hóa không thương tiếc. Ông Phạm Thanh Bình cùng các cộng sự đã thực hiện hàng chục dự án như vậy nhưng Công ty Tài chính VNS và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) – nơi được Bộ Tài chính chỉ định bảo đảm hoàn trả các khoản vay, hoàn trả vốn tạm ứng và giám sát việc đầu tư, thanh toán từ các khoản vay nước ngoài – vẫn mặc nhiên nhìn VNS chi xài vô tội vạ.
Một chiến lược nóng vội với các chỉ tiêu “phấn đấu” quá cao so với sức vóc bé nhỏ của ngành công nghiệp tàu thủy vốn lạc hậu, thô sơ đã dẫn đến nhiều hệ lụy nguy hiểm. Có quá nhiều tiền trong tay ở một thời điểm không dài, VNS cuống quýt bốc tiền ném vào hàng trăm dự án và đầu tư vào các ngành khác không thuộc sở trường của mình. Lấy lý do, nghề đóng tàu, vận tải viễn dương liên quan đến công tác bảo hiểm, ông Phạm Thanh Bình cùng Ngân hàng HSBC trở thành cổ đông sáng lập của Tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam. Bỏ ra hơn chín chục triệu USD tương đương với 1.467 tỷ đồng mua 20,4 triệu cổ phần chiếm 3,56% vốn vào ngày khai trương với mệnh giá hơn bảy chục ngàn đồng một cổ phiếu, VNS hy vọng ít lâu sau có vài trăm triệu đô la. Hỡi ôi, khi thị trường chứng khoán sụt giảm, giá cổ phiếu Bảo Việt còn trên dưới bốn chục ngàn đồng, lại cần tiền bù đắp vào các khoản cần chi trả gấp, VNS “thoái vốn” khỏi Bảo Việt, lỗ hơn sáu trăm ba chục tỷ đồng! May mà Chính phủ lại ra tay cứu, bằng động tác “chuyển nguyên vốn ban đầu” cho Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước nên vụ này được giải quyết êm đẹp, “mát mái, xuôi chèo”.
Bảo hiểm không thành, VNS tính chuyện kinh doanh thép. Nào là cần thép đóng tàu, thép cường độ cao, thép làm khung xương… Thôi thì đủ loại buộc Tổng công ty Thép VN phải chấp nhận cho VNS đầu tư và cạnh tranh với mình. Một loạt dự án nối tiếp nhau ra đời mà bắt đầu từ việc cho Nhà máy thép Cửu Long ở Hải Phòng đang sống dở chết dở gắn đuôi Vinashin, sau đó, đầu tư, nâng cấp Nhà máy thép ở Cái Lân – Quảng Ninh rồi ngược lên Phú Thọ xây nhà máy luyện thép từ quặng sắt… Đổ bao nhiên tiền vào đó mới có vài mẻ thép xuất lò thì lập tức, báo, đài đưa tin rối rít (có lẽ được lệnh?). Gần đây nhất, nhân một cuộc đón tiếp trọng thể các vị quan khách từ Hà Nội xuống, người ta cho “cái nhà máy thép” nổi lửa, hoạt động vài giờ… khách vừa đi khỏi ít phút thì… lò lại tắt! Chẳng thế mà mấy ông ngành thép đã gọi VNS là “chiếc thùng rỗng kêu to”.
Sang tới lĩnh vực sản xuất kinh doanh điện, VNS từng gửi cho Bộ Công thương một bản kế hoạch vĩ đại, trong đó viết rằng: VNS sẽ đầu tư 8 tỷ USD để xây dựng các nhà máy điện từ Bắc vào Nam, có tổng công suất 8.000 MW nghĩa là bằng Tập đoàn điện lực VN đầu tư suốt 10 năm (1995-2005) cũng chi đạt hơn 8.000 MW!
Bản phúc trình khuếch khoác không khả thi đã bị Bộ Công thương bác bỏ nhưng VNS lấy lý do, cần phải tự sản xuất nguồn năng lượng phục vụ sản xuất thép và đóng tàu, VNS vẫn triển khai dự án Xây dựng Nhà máy điện Diesel Cái Lân – VNS và Nhà máy nhiệt điện Sông Hồng ở Nam Định. Mặc dù có hai ông chủ là Ông Tô Nghiêm – Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Công nghiệp tàu thủy Cái Lân và Nguyễn Văn Tuyên – Tổng giám đốc Công ty CNTT Hoàng Anh ở Nam Định – tuy hai địa điểm cách xa nhau nhưng cách làm thì giống nhau ghê gớm. Ông nào cũng tìm mua thiết bị cũ kỹ, rỉ hoét, về lắp ráp và chấp nhận cho nhà thầu làm ẩu đến mức Nhà máy điện diesel Cái Lân – VNS hoạt động có hai tổ máy số 4 và số 5 đạt khoảng 75% công suất, 4 tổ máy khác… nằm im.
Sau hơn hai năm vận hành (từ tháng 4-2007 đến 10-2009) Nhà máy Cái Lân lỗ hơn 62 tỷ đồng, tổng các khoản nợ không có khả năng thanh toán lên đến 27,58 triệu USD và 107,5 tỷ đồng. Còn ở Nhà máy nhiệt điện Sông Hồng, Tổng giám đốc Nguyễn Văn Tuyên thông đồng với Tổng giám đốc Nguyễn Tuấn Dương (Công ty cổ phần Thép Cửu Long – VNS) dối lừa thượng cấp, làm giả tài liệu nhập thiết bị cũ nát, hư hỏng từ Hàn Quốc về. Ba ông này, người trước, người sau đã bị cơ quan điều tra khởi tố, bắt tạm giam vì “có hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Nếu có một bản tổng kết đánh giá nghiêm túc những dự án mà VNS đã đầu tư ở nhiều nơi và kiểm đếm những hợp đồng lớn của VNS ký kết với khách hàng trong và ngoài nước trên mọi lĩnh vực đóng tàu, vận tải biển, công nghiệp phụ trợ, xây dựng cơ bản… thì chắc hẳn, mọi người sẽ kinh hoàng hơn nữa khi thấy bốn năm qua, VNS hầu như không đạt được các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, các hợp đồng đều có dấu hiệu vi phạm quy chế, đấu thầu, giao thầu, công việc giám sát, nghiệm thu lập hồ sơ thanh, quyết toán công trình có nhiều khiếm khuyết, sơ hở nên đây là thời cơ cho những kẻ “đục nước, béo cò”, tham nhũng, gây thất thoát lớn trong các dự án đầu tư của VNS.
Bốn năm trôi qua, với bao biến động dữ dội gây bức xúc trong dư luận xã hội và nóng bỏng trên diễn đàn các kỳ họp của Quốc hội nhưng công tác quản lý kinh tế, tài chính của tập đoàn VNS vẫn không có cơ quan nào được chính thức giao nhiệm vụ theo dõi, kiểm tra, giám sát. Bộ GTVT – thường được coi là Bộ chủ quản – hàng tháng được VNS “chiếu cố” gửi báo cáo “gọn gàng”’ trong một tờ A4, kể những việc đã làm và sẽ làm rồi… chấm hết! Lâu lâu, Bộ được hỏi ý kiến về VNS xin mua tàu, xin xây cảng. Giữa tháng 5.2010, đoàn công tác của Bộ GTVT do Bộ trưởng Hồ Nghĩa Dũng dẫn đầu tới làm việc thì VNS căng phông có dòng chữ “Nhiệt liệt chào mừng Bộ trưởng…”, xét về mặt lễ tân chẳng có gì đáng trách vì họ tiếp khách trọng thị lắm. Chỉ tiếc là, khi bàn đến công việc, họ giấu biệt mọi chuyện, cứ thao thao bất tuyệt kể lể hạ thủy mấy con tàu, mấy dự án sắp hoàn thành… Có thể vì được nghe toàn thắng lợi nên Bộ trưởng đâu có nắm rõ VNS và các thành viên nợ hàng trăm tỷ tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội, càng không biết có tới hàng chục ngàn người thiếu việc làm….
Còn Bộ Tài chính, nơi được Chính phủ giao phê duyệt quy chế hoạt động tài chính của VNS, là đầu mối tập hợp và giải quyết các ý kiến, đề nghị vay vốn, và quản lý vốn của VNS đã nhận để bảo đảm cho việc trả lãi hàng năm, trả gốc khi đến hạn… Hình như có nhiều việc họ đã làm tốt hơn, sốt sắng hơn nên VNS mới ôm được tiền về két trong một thời gian rất ngắn. Sẵn tiền chùa, VNS rải khắp nơi mà tại sao Bộ tài chính không can ngăn, không có biện pháp xử lý? Còn nhớ đầu tháng 11.2005, khi ký biên bản cho vay lại số tiền 750 triệu USD, Bộ tài chính thảo ra nhiều điều chặt chẽ, rõ ràng buộc VNS phải có quy chế sử dụng vốn, phải lên kế hoạch chi tiết để trả lãi, trả gốc… Lúc ấy, ông Phạm Thanh Bình đã tuyên bố xanh rờn: “VNS vay được thì trả được” và ông thứ trưởng Trần Hữu Tá hết lời tin tưởng số vốn vay này sẽ được VNS đầu tư cho ngành công nghiệp tàu thủy vươn lên mạnh mẽ… Giao tiền xong, Bộ Tài chính yên tâm có BIDV theo dõi, giám sát thay nên nên chẳng biết tiền chạy vào đâu nữa.
Hàng chục ngàn tỷ đồng nhờ sự giúp sức trực tiếp và gián tiếp của Bộ Tài chính nối tiếp nhau qua tay chủ tịch Phạm Thanh Bình và Công ty tài chính VNS đã biến vào những con tàu già cỗi, những sản phẩm “thí điểm” sử dụng một lần rồi nằm im chờ bán sắt vụn, những “cụm công nghiệp” xác xơ bên cửa biển… Vậy mà, chưa bao giờ người ta thấy Bộ trưởng Tài chính “thổi còi” về sự trượt dốc của “Tập đoàn kinh tế VNS”???
Sự buông lỏng quản lý đến “không thể hiểu nổi” của các cơ quan chức năng đã tạo cơ hội cho những người quản trị VNS coi thường kỷ cương, coi thường pháp luật. Các tổ chức chính trị quan trọng nhất của tập đoàn là Đảng bộ, Công đoàn… bị vô hiệu hóa. Lời nói của ông Chủ tịch là ngọc, là vàng. Ý muốn của ông là ý muốn của Chúa trời. Quyền bính trong tay, túi lại đầy ắp tiền, ông có thể sai khiến nhiều loại người cúi rạp mình làm theo ý của ông, nhiều kẻ còn tự bán mình để được “hầu hạ” ông.
Vinashin tan nát, đổ vỡ, làm tiêu tán ước vọng trở thành cường quốc đóng tàu sau Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc vào năm 2015 với sản lượng 5 triệu tấn tàu một năm, có nghĩa là, chiến lược phát triển ngành công nghiệp tàu thủy đã thất bại cay đắng.
Tiền mất, tật mang, số dư nợ khổng lồ là gánh nặng đè lên đôi vai gầy của những người đóng thuế. Muốn giữ thể diện quốc gia, công khố phải chi trả những khoản nợ tới hạn của VNS như vụ chuẩn bị trả nợ 300 triệu USD lấy từ nguồn trái phiếu Chính phủ phát hành trong năm 2010 để thanh toán cho ngân hàng Natixis - cộng hòa Pháp.
Rồi cũng chẳng phải đợi chờ quá lâu, người dân sẽ còn được thông tin nhiều lần nữa về chuyện Chính phủ trả nợ thay cho VNS.
Nợ tư biến thành nợ công trong trường hợp này… là lẽ đương nhiên vì VNS là con đẻ của Chính phủ, VNS thuộc quyền sở hữu của nhà nước 100%. Vì vậy, Ông Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng – Trưởng Ban chỉ đạo tái cơ cấu VNS – cứ chăm chăm móc “tiền từ túi Nhà nước” cho VNS tiếp tục vay cũng là điều dễ hiểu.
Con dại, cái mang mà!
Quyền ông được giao, ông đang làm như ông nói, lúc này chẳng ai có thể ngăn được.
Tuy nhiên, xin gửi đến ông, đến những người quan tâm đến chuyện tái cơ cấu VNS mấy lời nhắn nhủ của chính ông Trần Quang Vũ – người được cử làm Tổng giám đốc điều hành VNS từ sau ngày ông Phạm Thanh Bình bị kỷ luật đến hết tháng 8.2010 (ông Vũ đã “nhập kho” vì mấy chuyện “cụ thể” chứ không phải chuyện cơ chế). Trong số những người có máu mặt ở VNS thì ông Trần Quang Vũ còn có kiến thức, có kinh nghiệm, có suy nghĩ, tóm lại, ông có thể sai phạm ở chuyện này, chuyện khác nhưng ông còn tâm huyết cải tổ trọn gói nếu ông còn ở vị trí điều hành.
Ông nói rằng:
Vấn đề mấu chốt của VNS hiện nay là phải minh bạch, nếu không, khó thoát được vì nó mất niềm tin ở mọi người. Nếu như bây giờ mọi chuyện không thật như đếm, VNS tiếp tục thất bại. Đây là con đường duy nhất, con đường sống của VNS.
Việc cần làm nhất để cứu VNS bây giờ là phải tổng quản trị lại chứ không phải là chờ được rót tiền. Nếu chỉ rót tiền thì bao nhiêu cho đủ? Sản xuất phải thật sự trật tự và đi lên thì hãy rót tiền!
Nếu không quản trị tốt thì dù nay rót hai ngàn tỷ, mai ba ngàn tỷ cũng tiêu hết thôi. Một đống tài sản lớn như vậy mà không sinh lời, vẫn chịu lãi vay thì đố ai chịu được.
Đây là những lời nói bộc bạch, chân thành, chính xác nhất như một định hướng cần thiết để có thể tái cơ cấu VNS trong giai đoạn trước mắt. Những ai vội vã, những ai sốt ruột, những ai chỉ muốn rót thêm nhiều tiền vào chiếc tàu VNS đang chìm đắm hãy suy nghĩ về những lời ông Trần Quang Vũ nói trước lúc vào trại tạm giam!
L. T. T.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét